-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’-
Chúc mừng bạn đã đăng nhập thành công. Xin chờ giây lát để trở về trang chủ forum.
-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’-
Chúc mừng bạn đã đăng nhập thành công. Xin chờ giây lát để trở về trang chủ forum.
-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’-
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.



 
Trang ChínhTrang Chính  Đăng kýĐăng ký  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Lưu ý: Gõ Tiếng Việt có dấu, viết đúng chính tả
 Bá Khả (3384)
 >>>lonely<<< (1710)
 quythanhkhuu (1304)
 kendy_girl202 (1043)
 truc_quynh_1994 (885)
 peheophuthuy (767)
 [A]chijioltiz[o] (711)
 Svat_94 (536)
 [P]....[lẶng]im..... (495)
 Su_147617 (426)

Share | 


 

 Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:41 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Thiên Long bát bộ (bản mới)

LỜI NÓI ĐẦU

Sau khi hỏi ý kiến độc giả, một số đông đã đề nghị chúng tôi dịch bộ truyện Thiên Long Bát Bộ. Bộ truyện này cùng với Lộc Đỉnh Ký là hai bộ truyện dài nhất của Kim Dung. Bản chúng tôi dịch là bản đã được sửa chữa, tái bản lần thứ hai do Viễn Ảnh công ti tại Đài Bắc ấn hành tháng 8 năm 1981 bao gồm 5 quyển, 50 chương, 2124 trang.
Người ta vẫn bảo rằng Thiên Long Bát Bộ là truyện nhiều tình tiết nhất, đông nhân vật, mỗi vai có một đặc tính riêng không người nào giống người nào và có đến năm sáu người có thể coi như vai chính. Tuy thế, trong khi còn đăng tải trên mặt báo, Thiên Long Bát Bộ cũng đã gây ra nhiều mâu thuẫn, đặt ra nhiều câu hỏi cho độc giả và nhiều đoạn không có câu trả lời. Do đó, bộ truyện này đã được Kim Dung sửa đổi nhiều chi tiết, mặc dầu nội dung không khác nhưng đã tạo nên những nét chấm phá mới khiến cho nó được xếp vào một trong những kỳ thư của nhà văn Hương Cảng.
Theo Trần Thế Tương, một học giả quá cố Trung Hoa mà Kim Dung rất kính trọng, Thiên Long Bát Bộ là một bộ truyện phải đọc đi đọc lại từ đầu chí cuối nhiều lần mới thấy hết được cái hay của nó. Những lời phê bình của học giả này đã được Kim Dung coi như là nói lên được tâm sự của ông và chính vì thế, Thiên Long Bát Bộ có thể nói là một bộ truyện mà Kim Dung rất tâm đắc. Trần tiên sinh là người duy nhất được Kim Dung đề tặng trong bản mới lần in thứ hai này, một biệt lệ cho bất cứ tiểu thuyết nào của Trung Hoa.
Cũng như Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Kim Dung đã dụng công để đặt đề tựa cho mỗi chương thành một câu trong một bài thơ. Bộ Thiên Long Bát Bộ bao gồm năm bài thơ, mỗi bài mười câu nhưng Ỷ Thiên Đồ Long Ký theo lối ca trù (Bá Lương Đài thể) còn Thiên Long Bát Bộ thì là năm bài, mỗi quyển một bài theo lối từ. Kim Dung tiên sinh tự nhận rằng mình rất kém về văn chương thi ca, việc làm của ông là một nỗ lực hết sức gắng gượng – và chúng tôi cũng vậy, rất e ngại khi phải dịch những phần thi từ đó ra tiếng Việt nên thường lần lữa không hoàn tất. Nếu có dịch thì chỉ để cho khỏi bị thiếu sót nhưng chắc chắn có rất nhiều lủng củng, xin độc giả cũng lượng tình cho.
Rút kinh nghiệm của thời gian qua, chúng tôi mong độc giả góp ý để tiếp tục sửa chữa thường xuyên và thêm bớt những gì cần phải bổ túc. Rất đông thân hữu đã hiệu đính giùm một số sai lầm trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký, nhân dịp này chúng tôi cũng xin cảm tạ chung các vị đó. Một số bạn bè giúp dịch một vài đoạn thơ văn, có người đề nghị sửa lại một vài chữ khó hiểu, và nhất là bạn DPLT đã chịu khó tìm tòi, tra cứu sách vở chữ Hoa để giúp người dịch những phần thi từ còn bỏ dở.
Như đã thưa từ trước – đây chỉ là một việc làm cá nhân trong những thì giờ eo hẹp của đời sống hết sức bận rộn – sau tất cả những nỗ lực phải dành cho công việc và gia đình, việc dịch sách là một cái thú tiêu khiển nên sẽ rất ... thư thả theo chương trình hai tuần một chương như năm qua. Nếu đúng theo lịch trình đó, bộ truyện này sẽ có thể hoàn tất vào cuối năm 2003 hay đầu năm 2004. Một số biên khảo cũng sẽ được tiến hành vì có thể nói, Thiên Long Bát Bộ là một chuyến du hành khắp nước Trung Hoa trong thời Tống, một giai đoạn mà nhiều nước sống bên cạnh nhau, vẫn bang giao nhưng cũng đầy xung đột. Cứ theo những nhà chuyên khảo về Kim Dung đây là bộ truyện mà Kim Dung dụng công hơn cả, chẳng khác gì một bức tranh trải dài hàng dặm với tất cả những chi tiết ly kỳ khiến cho người đọc phải say mê không sao dứt ra được.
Thời Bắc Tống là một giai đoạn hết sức thành tựu về mặt văn chương, nghệ thuật của Trung Hoa mặc dầu có nhiều suy sụp về chính trị và quân sự. Nước Tàu lúc đó được chia cắt thành nhiều quốc gia luôn luôn biến động lúc thì liên kết đồng minh, lúc lại nhòm ngó, thôn tính lẫn nhau. Phía Bắc là nước Liêu của người Khiết Đan đóng đô ở Lâm Hoàng (Thượng Kinh). Phía Tây Bắc là Tây Hạ đóng đô ở Linh Châu. Nhà Tống ở phía Đông Nam, kinh đô là Khai Phong. Chính Tây là Thổ Phồn tức miền Ba Thục bây giờ. Tây Nam là Đại Lý và chính Nam là nước ta.
Qui mô đó khiến chúng ta được làm một cuộc du ngoạn theo cả thời gian và không gian để đi ngang qua Đại Lý, Tống, Liêu, Tây Hạ, Thổ Phồn với tất cả những đặc trưng về văn hóa của thời đại và sắc thái địa phương. Nhiều nhân vật chính liên tiếp mà tuyệt nhiên không có một nhân vật nào hoàn toàn nổi bật và chi phối toàn cục khiến chúng ta có cảm tưởng đây là nhiều truyện được nối lại với nhau. Cách dựng truyện đó đã tạo nên một nét đặc thù và đưa Kim Dung lên một tầm vóc riêng mà không phải ai cũng có được.
Mặc dù trên tổng quát bộ truyện không khác khi còn đăng trên mặt báo bao nhiêu nhưng nếu đi vào chi tiết thì quí độc giả sẽ thấy Kim Dung đã thay đổi rất nhiều. Những chi tiết rườm rà và không liên tục đều bị cắt bỏ, trong đó có khoảng 40,000 chữ do Nghê Khuông viết thay Kim Dung khi ông đi xa cũng bị loại đi và nhiều đoạn mới được thêm vào. Những tên nhân vật cũng nhiều thay đổi và chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về việc đó. Tuy nhiên, một cách thường tình thì bản cuối cùng bao giờ cũng là bản mà tác giả vừa ý nhất.
Bộ này được viết lần đầu năm 1963, đăng liên tục trên Minh Báo ở Hongkong và Nam Dương thương báo ở Singapore, tổng cộng bốn năm mới hoàn thành. Bản tu đính – tức bản đã được Kim Dung sửa lại hoàn tất tháng 10 năm 1978 và ấn bản lần đầu vào năm 1979. Cũng như mọi bộ truyện khác, mỗi chương có một tấm hình nhưng trong Thiên Long Bát Bộ lại vẽ theo lối thủy mặc thành thử người dịch không thể dùng dạng bitmap (bmp) để scan cho nhỏ mà phải dùng dạng jpg nên thường phải từ 500K trở lên. Việc đưa vào mỗi chương sẽ biến file theo dạng Microsoft Word rất lớn khiến việc gửi đi trở nên khó khăn, nhất là những bằng hữu ở VN phải download rất bất tiện và tốn kém. Do đó chúng tôi sẽ chỉ gửi tấm hình đó theo yêu cầu và sẽ thiết lập một danh sách riêng cho những người nào muốn sưu tầm cho đủ bộ. Hoặc giả chúng tôi cũng có thể gửi theo dạng pdf (phải dùng Acrobat Reader dể mở) nhưng dĩ nhiên format sẽ cố định và người đọc muốn in ra sẽ không thể sử dụng khổ giấy khác khổ 8.5 x 11 là khổ mà người dịch dùng để setup tại Hoa Kỳ.
Mỗi câu chuyện xoay quanh một chủ đề, Ỷ Thiên Đồ Long Ký là câu chuyện của kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long còn Thiên Long Bát Bộ thì nói lên cái phức tạp và đa dạng của con người. Trước đây khi dịch ra tiếng Việt người ta đã chia ra thành nhiều bộ nhỏ hơn (có lẽ vì mục tiêu thương mại) như Lục Mạch Thần Kiếm, Thiên Long Bát Bộ, Nhất Dương Chỉ ... nhưng nguyên tác của Kim Dung chỉ có một Thiên Long Bát Bộ mà thôi. Kim Dung đã giải thích cái tên này như sau:
Thiên Long Bát Bộ là chữ lấy từ kinh Phật. Trong kinh của Phật Giáo đại thừa có kể lại khi đức Phật thuyết pháp cho các bồ tát, tì khưu thường có tám loại động vật đến nghe. Kinh Pháp Hoa, trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có chép:
Thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ Long Nữ thành Phật. (Trong tám loại chúng sinh trên trời, người cũng như không phải người đều thấy được Long Nữ thành Phật)
Phi nhân là nói về những giống trông thì hình dáng như người nhưng lại không phải người. Tám hạng đó đều là “phi nhân” là những hạng thần vật mà Thiên và Long đứng đầu nên được gọi là Thiên Long Bát Bộ. Tám loại đó gồm có: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia ø.
- Thiên là thiên thần (Deva), trong Phật giáo không phải là cao hơn hết nhưng chỉ được hưởng phúc báu lâu dài, to lớn hơn người mà thôi. Thiên thần vẫn còn trong cõi sinh tử, có sống có chết. Trước khi chết thiên thần sẽ có năm triệu chứng: quần áo mủn nát, hoa trên đầu héo hon, thân thể ô uế, nách chảy mồ hôi, đứng ngồi không yên là thời kỳ đau buồn nhất của các thiên thần. Có mười hai thiên thần quan trọng nhất tượng trưng cho tám hướng và bốn tinh thể của vũ trụ mặt trời, mặt trăng, bầu trời và mặt đất. Đế Thích là lãnh tụ của mọi thiên thần.
- Long là long thần (Naga), nhưng rồng trong kinh Phật không có chân, trông giống như một con mãng xà lớn. Quan niệm về rồng và về Long Vương của Trung Hoa chính là vay mượn từ trong kinh Phật mà ra. Người Ấn Độ ngày xưa rất sùng bái Long Vương, cho rằng rồng là chúa tể các loài trong nước nên người Trung Hoa thường dùng chữ long để chỉ những gì cao quí và đức hạnh. Trong kinh có chép là một con rắn tên là Mucilinda da cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão và nhiều con rắn thần khác thường giả dạng người đến để nghe Thế Tôn thuyết pháp.
- Dạ Xoa là một loại quỉ thần (nguyên nghĩa dạ xoa là thần ăn được quỉ), rất mẫn tiệp, nhẹ nhàng, chia làm ba giống ở trên đất, trên chốn không hư và trên trời. Ngày nay nói đến dạ xoa chỉ hàm một nghĩa ác quỉ (chắc tại ảnh hưởng của truyện Tây Du Ký) nhưng trong kinh Phật thì có nhiều dạ xoa rất tốt. Dạ Xoa Bát Đại Tướng có nhiệm vụ bảo hộ chúng sinh.
- Càn Thát Bà (Apsaras) là một giống không ăn thịt, không uống rượu chỉ sống bằng mùi hương là một trong những nhạc thần phục thị Đế Thích, thân thể có mùi thơm. Theo nghĩa Phạn văn, Càn Thát Bà có nghĩa là biến ảo khôn lường vì mùi hương và âm nhạc đều mênh mang không sao cân đo được.
- A Tu La (Ashura) là một loại thần đặc biệt, đàn ông thì thật xấu xa còn đàn bà thì thật xinh đẹp. A Tu La Vương thường đánh nhau với Đế Thích vì một bên có đồ ăn, một bên có mỹ nữ nên thường muốn chiếm đoạt của nhau. A Tu La tính tình đố kỵ thích tranh giành là một trong những ẩn dụ của nhà Phật để nói về tính xấu xa của con người.
- Ca Lâu La (Garuda) là một giống chim lớn, đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Châu. Loài chim này tiếng kêu bi thảm, trong thần thoại Trung Hoa gọi là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng) mà danh tướng Nhạc Phi là hóa thân đầu thai. Giống chim này thích ăn rồng, mỗi ngày phải bắt được một long vương hay 500 con rồng con để ăn thịt. Vì nó ăn thịt rồng (độc xà) nhiều quá nên khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn một trái tim xanh biếc. Hình của chim này thầy nhiều ở các đền thờ tại Cam Bốt.
- Khẩn Na La giống người mà không phải là người, đầu có sừng, giỏi múa hát cũng là nhạc thần của Đế Thích.
- Ma Hầu La Gia là một vị thần rắn cực lớn, thân hình là người nhưng đầu là đầu rắn.
Những con vật huyền thoại này có lẽ là do ảnh hưởng của những vị thần của Ấn Độ giáo (Hindu) và thường xen lẫn trong những truyện thần thoại của nhiều dân tộc ở Nam và Tây Á không hoàn toàn là của Phật Giáo. Trong những tranh vẽ, điêu tượng của Đông Á chúng ta ít thấy những hình tướng của thiên long bát bộ ngoại trừ một số bích họa từ đời Đường trở về trước ở Tân Cương. Người Việt chúng ta có thể nói hoàn toàn xa lạ với những hình ảnh này, ngay cả trong giới tu sĩ cũng ít người nghiên cứu đến.
Thiên Long Bát Bộ lấy địa bàn là nước Đại Lý đời Bắc Tống (vào khoảng đời Tiền Lê và đời Lý bên mình). Nước Đại Lý nằm ở phía Tây Trung Hoa, Tây Bắc nước ta địa bàn tỉnh Vân Nam bây giờ, nổi tiếng với nhiều loại kỳ hoa dị thảo, đặc biệt là trà gồm cả trà uống (tea) và cây hoa trà (camelia). Theo sử sách, khoảng năm 937 Đoàn Tư Bình sau khi chiếm được nước Nam Chiếu lập nên nước Đại Lý. Đại Lý là một quốc gia theo Phật giáo Mật tông (Acarya), từ vua tới dân đều sùng đạo, vua thường tại vị một thời gian rồi xuất gia làm sư. Truyền thống đó ảnh hưởng đến nước ta và đời Lý đời Trần nhiều người cũng nhường ngôi rồi đi tu, làm Thái Thượng Hoàng.
Nước Đại Lý kéo dài 316 năm, 22 đời vua trong đó có mười người bỏ ngôi đi tu, hai người được đề cập trong Thiên Long Bát Bộ là Bảo Định Đoàn Chính Minh và Trung Tông Đoàn Chính Thuần. Một người khác cũng được Kim Dung nói đến là Cảnh Tông Đoàn Chính Hưng (Kim Dung lại viết là Đoàn Trí Hưng) hay Đoàn Hoàng Gia Nam Đế trong Anh Hùng Xạ Điêu. Ông này cũng là con cháu họ Đoàn trong Thiên Long Bát Bộ.
Người Đại Lý thuộc giống người Thái, trải rộng từ Vân Nam qua bắc Thái Lan, Lào và thượng du Bắc Việt. Người Thái gồm nhiều sắc dân như Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ, người Thổ, người Nùng. Sau khi Đại Lý bị người Mông Cổ thôn tính, người Thái còn trốn lánh trong rừng sâu và di chuyển xuống phía Nam và Tây Nam và là thủy tổ của người Thái Lan ngày nay.
Thiên Long Bát Bộ được đặt trong bối cảnh Bắc Tống, đời vua Triết Tông Nguyên Tá, niên hiệu Thiệu Thánh khoảng cuối thế kỷ thứ 11. Kim Dung dùng cái tên Thiên Long Bát Bộ là để chỉ những biến hóa phức tạp của câu chuyện, ly kỳ chẳng khác gì những chuyện cổ tích của Ấn Độ mà Phật Giáo mượn làm ẩn dụ. Mật tông được truyền vào Trung Hoa do ba nhà sư Thiên Trúc là Thiện Vô Úy (Subhnakarasimha), Kim Cương Trí (Vajrabodhi) và Bất Không Kim Cương (Amoghavajra) vào khoảng đầu thế kỷ thứ 8 chú trọng đến niệm kinh, bắt ấn, sử dụng Mạn đà la và quán đỉnh. Giáo pháp được thầy truyền qua trò bằng lời nên không được phổ biến rộng rãi.
Phật giáo Mật Tông pha trộn đủ màu sắc, nặng phần nghi thức, đôi khi mê tín mặc dầu những khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa chuyên chở khá nhiều tính nghệ thuật, điển hình là những điêu tượng và tranh vẽ mà người ta phát hiện ở Vân Nam, Tân Cương, nhất là tại Đôn Hoàng. Chính vì màu sắc nhiều thần bí của thời sơ khai, các tôn giáo bản địa nhất là Nho giáo đã có những xung khắc đáng kể với Phật giáo. Đời Đường, Hàn Dũ (768 - 824) đã dâng sớ xin ngăn cấm đạo Phật dẫn tới việc phá hủy 5000 chùa lớn và 40,000 am nhỏ. Mấy trăm ngàn tăng sĩ và nữ ni bị bắt buộc phải hoàn tục. Điều đó cũng không phải là không hay vì chính từ đó Thiền tông Trung Hoa có cơ hội nảy nở, xây dựng những cơ sở triết học thanh thoát hơn và tạo ra hẳn một trường phái mới, tổng hợp được nhiều ưu điểm, nhấn mạnh vào việc “kiến tính thành Phật” và xa rời việc thờ cúng thần tượng và nghi lễ.
Tuy nhiên, Kim Dung lại khai thác được những hình thái thần bí của tôn giáo làm chất liệu khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Quan Âm bồ tát đã được thế tục hóa qua một vương phi tự hiến thân cho một người ăn mày để sinh ra một đứa con hoang giải quyết hầu như toàn bộ những khúc mắc triền miên từ đầu đến cuối. Lẽ dĩ nhiên, chi tiết tưởng tượng kia khiến cho câu chuyện thêm li lỳ, tuyệt nhiên không phải là một cách giải thích những căn bản giáo lý.
Ngoài Phật giáo Mật Tông đã đóng một vai trò khá quan trọng làm nền tảng cho nhiều tình tiết của câu chuyện, hai đề tài khác chúng ta cũng cần biết thêm, mỗi đề tài đều bao quát đáng trở thành một nghiên cứu riêng. Trong phần giới thiệu này chúng tôi chỉ đề cập đến một cách khái quát.
Thứ nhất là ngoài môn Nhất Dương Chỉ, họ Đoàn Đại Lý còn một tuyệt kỹ khác là Lục Mạch Thần Kiếm, một loại kiếm khí dùng sáu kinh mạch của hai bàn tay để sử dụng.
- Thủ thái âm phế kinh bắt đầu ở trung tiêu, đi vòng xuống ruột già rồi chạy lên ngực, yết hầu đi ra cánh tay và chấm dứt ở đầu ngón tay cái.
- Thủ dương minh đại trường kinh bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ chạy lên vai rồi chia thành hai nhánh, một nhánh xuống ruột già, một nhánh lên đầu chấm dứt ở cạnh mũi.
- Thủ thiếu âm tâm kinh bắt đầu từ tim chia ra ba nhánh, một nhánh qua hoành cách mạc xuống ruột non, một nhánh theo thực quản lên mắt, và một nhánh đi qua phổi, sang tay tới ngón tay út.
- Thủ thái dương tiểu trường kinh bắt đầu từ ngoài ngón tay út chạy theo tay lên vai gặp đốc mạch ở huyệt đại truy chi thành hai nhánh, một nhánh đi xuống ruột non, một nhánh chạy lên mặt đi vào tai.
- Thủ quyết âm bao tâm kinh bắt đầu từ ngực nối liền tam tiêu rồi chạy ra cánh tay tới ngón tay giữa.
- Thủ thiếu dương tam tiêu kinh khởi đầu từ ngón tay đeo nhẫn chạy theo tay lên vai chia thành hai nhánh một nhánh nối liền tam tiêu, một nhánh chạy lên cổ vòng qua tai rồi ngừng lại tại mắt.
Thủ thái âm PHẾ kinh, thủ quyết âm TÂM BAO kinh và thủ thiếu âm TÂM kinh là ba đường kinh ÂM nằm ở bên trong cánh tay, gọi là THỦ TAM ÂM thuộc lý (bên trong) dẫn chân khí từ ngực chạy vào tay.
Thủ dương minh ĐẠI TRƯỜNG kinh, thủ thiếu dương TAM TIÊU kinh, và thủ thái dương TIỂU TRƯỜNG kinh nằm ở mặt ngoài cánh tay gọi là THỦ TAM DƯƠNG, thuộc biểu (bên ngoài) từ tay chạy lên đầu.
Thứ hai một đặc sản của nước Đại Lý là hoa trà cũng được nhắc tới khá nhiều. Khi đề cập tới vùng Vân Nam, người Trung Hoa vẫn thường tự hào là ở đây có tám loại danh chủng nổi tiếng trên thế giới gồm có sơn trà (camelia), đỗ quyên (azalea), mộc lan (magnolia obovata), báo xuân, bách hợp (lily), phương lan (cymbidium), long đảm (gentian), lục nhung hao.
Sơn trà của Đại Lý đã biến câu chuyện trở nên thơ mộng và thú vị khi chúng ta nghe Đoàn Dự luận về hoa trà với Vương phu nhân sau đây:
Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.
Đoàn Dự gật đầu:
- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.
Vương phu nhân cười khanh khách:
- Thật ư?
Đoàn Dự nói:
- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.
Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa .... khinh người quá lắm.
Đoàn Dự nói:
- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.
Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.
Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.
Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:
- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?
Vương phu nhân hậm hực đáp:
- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài (thư sinh thi hỏng).
Vương phu nhân hừ một tiếng:
- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?
- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.
Vương phu nhân nói:
- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến 15, 16 màu khác nhau.
Đoàn Dự nói:
- Cả thảy đúng ra là 17 màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ 18 đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả 18 đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?
Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.
Đoàn Dự nói:
- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là 13 đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là 8 đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Nữ là 7 đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.
Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?
Đoàn Dự nói tiếp:
- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.
Vương phu nhân nói:
- Nguyên lai như thế.
Đoàn Dự lại tiếp:
- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.
Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:
- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm !
Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.
Quả thật khi đọc xong đoạn này, chúng tôi cũng tò mò đi tìm tài liệu để xem những gì Kim Dung viết ra là có thực hay chỉ do óc tưởng tượng phong phú của ông nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả như ý. Theo những sách vở chúng tôi có trong tay, đặc biệt là cuốn Vân Nam Phong Vật Chí (Dư Gia Hoa, Vân Nam Nhân Dân xb 1984) trong đó có những chương nghiên cứu khá công phu về hoa trà nhưng không thấy nói đến những chủng loại mà Kim Dung đã đề cập.
Trên thế giới có chừng hơn tám mươi loại hoa trà (không kể những giống được lai tạo) thì Vân Nam đã có khoảng ba mươi lăm loại. Trong những loại hoa trà danh tiếng ở Vân Nam người ta thấy có đồng tử diện, tuyết sư, tùng tử lân, tử bào, kim đái, ngân đái, mẫu đơn trà, hận thiên cao, điệp sí, liễu diệp ngân hồng, tảo đào hồng, kim biên mẫu đơn, thông thảo phiến ... mỗi loại có một đặc điểm.
Hiện nay tại nhiều danh thắng, cổ tích tại hai tỉnh Vân – Quí còn nhiều cây trà cổ thụ, mỗi năm ra hàng vạn đóa hoa, chẳng hạn như tại chùa Ngọc Phong bên bờ sông Lệ chân núi Ngọc Long còn một cây trà kép dính liền hai loại với nhau nên màu sắc rất phong phú. Cây trà này trồng từ đời Minh Thành Hóa (thế kỷ thứ 15) tính ra đã hơn 500 năm được mệnh danh là “đệ nhất hoàn cầu”. Tần Nhân Xương, một thực vật gia Trung Hoa đã nói:
- Vua các loài trà trên thế giới là ở Trung Hoa, vua các loài trà của Trung Hoa là ở Vân Nam, vua các loài trà của Vân Nam là hoa trà ở Lệ Giang.
Quách Mạt Nhược, một thi sĩ nổi tiếng của Trung Hoa đầu thế kỷ 20 khi đến Vân Nam đã cảm tác một bài thơ như sau:
Những tưởng trà kia ưa quí tộc,
Ai ngờ dân dã cũng đầy sân.
Mẫu đơn ai nấy đều ca tụng,
Ta nghĩ hoa trà trội mẫu đơn.
(Diễm thuyết trà hoa thị tỉnh hoa,
Kim lai thủy kiến mãn thành hà.
Nhân nhân đô đạo mẫu đơn hảo,
Ngã đạo mẫu đơn bất cập trà)
Khi làm một số nghiên cứu nho nhỏ về đất Vân Nam – Quí Châu, người dịch đôi khi cũng thấy bồi hồi khi đọc tới những chi tiết địa phương rất gần gũi với người Việt chúng ta, nhất là về một số sắc tộc thiểu số mà nhiều học giả cho rằng cùng giống với người mình. Chắc chắn nếu có những khảo sát qui mô, chúng ta có thể tìm được khá nhiều di tích văn hóa còn lưu lại ở miền nam Trung Hoa để có cái nhìn chính xác hơn về lịch sử, truyền thống và nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Một người bạn tôi sau những chuyến du lịch ở Quảng Châu, đi vào những vùng xa xôi hẻo lánh để nghiên cứu về âm nhạc, đối chiếu với những điệu dân ca của mình đã phải ngạc nhiên về sự tương đồng khó hiểu giữa sinh hoạt của người Tàu ở Nam Trung Hoa và người miền Bắc nước ta. Biết đâu trong khi dịch Thiên Long Bát Bộ chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra được một điểm nào mới mẻ chăng?
Cũng như Ỷ Thiên Đồ Long Ký, chúng tôi mong mỏi được sự tiếp tay của quí bằng hữu trong mọi lãnh vực để cùng nhau chia xẻ niềm vui khi đọc Thiên Long Bát Bộ.
Tháng 5/01


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:43 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Sểnh nhà cất bước đi ra,
Áo xanh Tư Mã xông pha hiểm nghèo.
*
***


Ánh sáng xanh lấp loáng, mũi kiếm thép nhắm ngay vào vai trái của hán tử trung niên đâm tới. Người thanh niên sử kiếm không đợi cho kiếm chiêu hoàn tất, cổ tay rung một cái kiếm mũi kiếm ngóc lên đâm xéo vào bên phải cổ đối phương. Người trung niên giơ kiếm gạt ra, nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau tiếng ngân u u chưa dứt đã trao đổi được ba chiêu. Hán tử trung niên giơ kiếm nhắm giữa đỉnh đầu thanh niên chém xuống, thanh niên né qua bên phải, kiếm quyết bên tay trái lướt theo, thanh kiếm liền chúc xuống đâm vào đùi kẻ địch.
Hai người kiếm pháp nhanh nhẹn, ra hết sức đấu với nhau.
Trong luyện võ sảnh, phía bên đông có hai người ngồi. Ngồi trên là một đạo cô trung niên tuổi trạc trên dưới bốn mươi, mặt hầm hầm, môi mím chặt. Ngồi bên dưới là một ông già tuổi trên dưới năm mươi, giơ tay vuốt chòm râu dài, mặt mày thật đắc ý. Hai người ngồi cách nhau chừng hơn một trượng, đằng sau đứng phải đến trên hai chục đệ tử nam nữ. Phía tây là một hàng ghế ngồi chừng hơn chục tân khách, cả hai phía ai nấy chăm chú theo dõi cuộc giác đấu.
Chỉ một thoáng chàng thanh niên và hán tử trung niên đã trao đổi đến hơn bảy chục chiêu, càng lúc càng gay go nhưng chưa có vẻ gì phân thắng bại. Đột nhiên người trung niên dùng sức đâm mạnh ra một kiếm, thân hình hơi lảo đảo, dường như muốn ngã. Một chàng trai trẻ tuổi mặc áo dài xanh trong số khách ngồi phía tây nhịn không nổi cười hộc lên một tiếng. Y lập tức biết mình thất thố, vội vàng giơ tay bịt miệng.
Ngay lúc đó, nghe vù một tiếng thanh niên đã giơ tay trái nhắm ngay lưng hán tử nọ đánh ra. Người đàn ông liền tiến lên một bước tránh được, trường kiếm trong tay vòng lại, quát lên một tiếng:
- Trúng!
Đâm ngay vào đùi thanh niên, một chân y liền khuỵu xuống, trường kiếm chống xuống đất đứng lên toan đấu tiếp nhưng người trung niên đã tra kiếm vào vỏ, cười nói:
- Cám ơn Chử sư đệ đã nhường nhịn, vết thương không nặng chứ?
Thanh niên kia mặt tái đi, bậm môi nói:
- Đa tạ Cung sư huynh đã nương tay.
Ông già râu dài mặt mày dương dương, mỉm cười:
- Đông Tông đã thắng được ba trận rồi, xem chừng Kiếm Hồ Cung lại nhường Đông Tông ở thêm năm năm nữa. Tân sư muội, mình liệu có còn phải đấu thêm nữa chăng?
Người đạo cô ngồi bên dưới cố nén lửa giận, nói:
- Tả sư huynh quả thực huấn luyện được học trò giỏi thật. Thế nhưng không biết Tả sư huynh nghiên cứu Vô Lượng Ngọc Bích năm năm qua đã được gì chưa?
Người râu dài trừng mắt nhìn bà ta, nghiêm mặt nói:
- Sư muội không lẽ quên qui củ của bản phái rồi sao?
Người đạo cô hừ một tiếng, không nói thêm tiếng nào nữa. Người đàn ông họ Tả, tên Tử Mục, là chưởng môn Đông Tông của Vô Lượng Kiếm. Đạo cô kia họ Tân, đạo hiệu là Song Thanh, là chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm.
Vô Lượng Kiếm phái chia ra làm Đông, Tây, Bắc tam tông nhưng Bắc Tông mấy chục năm nay suy đồi, còn Đông Tây hai chi phái nhân tài đông đúc. Vô Lượng Kiếm kiến lập từ thời kỳ Ngũ Đại đời Hậu Đường, sáng phái ở núi Vô Lượng nước Nam Chiếu, người chưởng môn cư ngụ tại Kiếm Hồ Cung. Từ thời Nhân Tông nhà Tống, phái Vô Lượng chia ra làm ba tông, cứ năm năm một lần, môn hạ đệ tử của ba nhánh này lại gặp nhau ở Kiếm Hồ Cung tỉ võ đấu kiếm, bên nào thắng thì được ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng năm năm, đến năm thứ sáu thì lại tỉ thí.
Đấu năm trận, bên nào thắng ba coi như thắng. Trong năm năm đó, phe thua dĩ nhiên hết sức tập luyện cốt sao kỳ tới sẽ rửa được cái nhục bại trận, nhưng bên thắng cũng không dám lơ là chút nào. Bắc Tông bốn mươi năm trước thắng trận được vào ở nơi Kiếm Hồ Cung, năm năm sau thua phải ra đi, người chưởng môn bực tức dẫn môn nhân đệ tử dọn qua Sơn Tây, từ đó không còn trở lại tỉ kiếm, cũng không liên lạc gì với hai phe Đông Tông, Tây Tông nữa. Trong hai mươi lăm năm qua, hai phe Đông Tây thắng qua thua lại, Đông Tông thắng bốn lần, còn Tây Tông cũng được hai lần. Gã trung niên hán tử họ Cung kia đấu với thanh niên họ Chử, là trận đấu thứ tư, họ Cung thắng rồi, Đông Tông bốn lần đấu ba lần thắng, lần thứ năm không cần đấu tiếp nữa.
Bên phía tây những người ngồi trên ghế bành gấm là các nhân sĩ phái khác, một số là do chưởng môn hai tông mời đến làm chứng, còn lại là những người đến xem. Những người đó, ngoại trừ một hậu bối vô danh là người thanh niên mặc áo xanh ngồi hàng cuối đã cười khi gã họ Cung bị lỡ trớn, đều là người nổi tiếng trong võ lâm tỉnh Vân Nam.
Thanh niên đó đi theo lão võ sư Mã Ngũ Đức ở Phổ Nhĩ đất Điền Nam đến đây. Mã Ngũ Đức là một nhà buôn trà nổi tiếng , đã giàu có lại hiếu khách, có cái phong vị Mạnh Thường, trên giang hồ nếu ai thất thế chạy đến nhờ vả ông ta đều hết sức tiếp đãi, thành thử quen biết nhiều mặc dầu võ công chỉ tầm thường mà thôi. Tả Tử Mục khi nghe Mã Ngũ Đức đưa tới giới thiệu thanh niên này họ Đoàn. Họ Đoàn là quốc tính của nước Đại Lý trong nước có đến hàng nghìn hàng vạn người nên khi nghe đến Tả Tử Mục không coi vào đâu, nghĩ bụng y hẳn là đệ tử của Mã Ngũ Đức, ngay lão họ Mã bản thân võ công cũng chỉ bình bình, dạy dỗ học trò chắc cũng chẳng đi đến đâu, thành thử ngay cả mấy tiếng khách sáo “Ngưỡng mộ đã lâu” y cũng chẳng thèm nói, chỉ chắp tay, mời vào ngồi mà thôi. Ngờ đâu gã trẻ tuổi này không biết trời cao đất dày là gì, gặp khi đệ tử đắc ý của Tả Tử Mục ra hư chiêu dụ địch lại dám mở miệng cười lên nhạo báng.
Thành thử Tả Tử Mục cười nói:
- Tân sư muội năm nay đưa ra bốn đệ tử, công phu kiếm thuật quả thật cao cường, trận thứ tư này bên chúng tôi thắng cũng chỉ nhờ may. Chử sư điệt tuổi trẻ như thế, vậy mà đã luyện được đến mức đó, tiền đồ thật không biết tới đâu, e rằng năm năm nữa hai bên đông tây chắc sẽ đổi chỗ mất, ha ha, ha ha!
Nói xong y cười ha hả không thôi, đột nhiên đảo mắt nhìn sang thanh niên họ Đoàn nói:
- Đứa học trò kém cỏi của mỗ khi thắng được nhờ sử hư chiêu Trật Phác Bộ, vị Đoàn thế huynh này xem chừng dường như không được vừa ý. Vậy xin Đoàn thế huynh bước ra chỉ điểm cho tiểu đồ một vài miếng có được chăng? Mã ngũ ca uy chấn Điền Nam, dưới tướng giỏi binh ắt không thường, tài nghệ Đoàn thế huynh hẳn là ghê gớm lắm.
Mã Ngũ Đức mặt hơi đỏ lên vội nói:
- Vị Đoàn huynh đệ này không phải đệ tử của ta đâu. Lão ca ca tài nghệ chỉ có vài miếng mèo quào, làm sư phụ được ai? Tả hiền đệ chớ có đem ngu huynh ra làm trò cười. Vị Đoàn huynh đệ đây đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, nghe thấy ta sắp đi lên núi Vô Lượng nên cùng đi theo, nói là núi Vô Lượng sơn thủy thanh u nên muốn đến thưởng ngoạn phong cảnh.
Tả Tử Mục nghĩ thầm: “Nếu như y là đệ tử của ngươi thì ta còn nể mặt không nỡ cạn tàu ráo máng, còn như nếu chỉ là một người khách tầm thường thì chẳng phải e dè gì nữa. Kẻ nào dám đến Kiếm Hồ Cung nhạo báng võ công của Đông Tông Vô Lượng Kiếm, nếu không dạy cho y một phen đến đầu đến đũa đuổi xuống núi thì họ Tả này còn mặt mũi nhìn ai?”. Y bèn cười khẩy một tiếng nói:
- Thỉnh giáo đại hiệu của Đoàn huynh là gì, là môn hạ của vị cao nhân nào thế?
Thanh niên họ Đoàn mỉm cười nói:
- Tại hạ tên chỉ có một chữ Dự, trước nay chưa học qua võ nghệ bao giờ. Ta thấy người ta trượt chân, không cần biết ngã giả hay ngã thật đều nhịn không nổi nên cười đấy thôi.
Tả Tử Mục nghe giọng y nói không có vẻ gì cung kính, trong bụng không khỏi bực bội nói:
- Thế thì có gì mà phải cười?
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt cầm trong tay, nói tỉnh bơ như không:
- Con người hoặc đứng hoặc ngồi, có gì là đáng cười đâu, có nằm trên giường thì cũng không ai cười cả nhưng nằm dưới đất, ha ha, thế thì đáng cười lắm chứ? Trừ khi là trẻ con lên ba thì mới không kể mà thôi.
Tả Tử Mục nghe y nói càng lúc càng cuồng ngạo, giận muốn sôi lên, quay sang nói với Mã Ngũ Đức:
- Mã ngũ ca, vị Đoàn huynh này có thân với ngũ ca chăng?
Mã Ngũ Đức mới quen Đoàn Dự, hoàn toàn chẳng biết y là người thế nào. Ông ta tính tình vốn hòa nhã, thấy Đoàn Dự đòi đi theo đến núi Vô Lượng không tiện thoái thác nên cho y cùng đi, lúc này nghe giọng Tả Tử Mục có chiều giận dữ, ra tay ắt sẽ ác độc lắm, một thanh niên còn trẻ thế này nỡ nào để cho y bị ăn đòn đau? Ông ta liền đáp:
- Đoàn huynh đệ với ta tuy không thâm giao nhưng cũng đã cùng đến đây. Ta xem Đoàn huynh dáng dấp nho nhã, chắc không biết võ công gì đâu, chỉ vô ý mà buột miệng cười đấy thôi. Thôi bỏ qua đi, lão ca ca bụng đói lắm rồi, Tả hiền đệ mau làm cho một mâm rượu để bọn ta uống mừng hiền đệ ba chén. Hôm nay ngày lành tháng tốt, Tả hiền đệ chấp nhất hạng hậu bối trẻ người non dạ làm gì?
Tả Tử Mục đáp:
- Nếu Đoàn huynh không phải là hảo bằng hữu của Mã ngũ ca, nếu như huynh đệ có đắc tội thì cũng không làm bẽ mặt Mã ngũ ca. Quang Kiệt, hồi nãy người ta cười ngươi, vậy ngươi hạ trường thỉnh giáo xem nào.
Gã trung niên Cung Quang Kiệt chỉ đợi sư phụ nói thế, lập tức rút phăng trường kiếm, bước ra đứng ngay bên ngoài , đảo ngược chuôi kiếm lại, chắp tay hướng về Đoàn Dự nói:
- Xin mời Đoàn bằng hữu!
Đoàn Dự nói:
- Hay lắm, ngươi luyện đi cho ta coi nào.
Y vẫn ngồi trên ghế không đứng lên. Cung Quang Kiệt mặt đỏ bừng, giận dữ nói:
- Ngươi ... ngươi nói sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi cầm thanh kiếm trong tay múa bên đông, chém bên tây, chắc là muốn luyện kiếm, vậy thì cứ làm đi. Ta xưa nay không thích xem ai động đao sử kiếm, nhưng đã đến đây thì cũng đành chịu ngồi xem vậy.
Cung Quang Kiệt quát lên:
- Sư phụ ta bảo ngươi ra đây cùng ta tỉ thí.
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt, lắc đầu nói:
- Sư phụ ngươi là thầy của ngươi chứ sư phụ ngươi có phải là thầy của ta đâu. Sư phụ ngươi sai ngươi thì được, chứ sư phụ ngươi làm sao sai được ta? Sư phụ ngươi bảo ngươi đấu kiếm với người ta thì ngươi cứ việc đấu kiếm với người ta. Sư phụ ngươi bảo ta tỉ kiếm với ngươi, thứ nhất ta không biết đấu kiếm, thứ hai ta sợ thua, thứ ba ta sợ đau, thứ bốn ta sợ chết, thành thử ta không đấu. Ta nói không đấu là không đấu.
Y nói một thôi một hồi sư phụ ngươi, sư phụ ta tưởng như líu lưỡi, trong võ sảnh mọi người nghe được, nhịn không nổi phải bật cười. Đám môn hạ Tây Tông Vô Lượng Kiếm của Song Thanh chiếm đến gần nửa, có mấy nữ đệ tử cười khúc khích. Luyện võ sảnh đang trang nghiêm lập tức biến thành một nơi hoạt náo.
Cung Quang Kiệt hung hăng tiến tới, giơ kiếm chỉ ngay vào ngực Đoàn Dự, quát lớn:
- Ngươi có thực không biết võ, hay chỉ giả ngây giả dại?
Đoàn Dự thấy mũi kiếm chỉ cách ngực mình chừng vài tấc nếu như đâm nhẹ một cái thì sẽ trúng ngay tim mình nhưng không tỏ vẻ gì kinh hoảng, nói:
- Ta dĩ nhiên là không biết võ, giả ngây giả dại làm cái gì?
Cung Quang Kiệt nói:
- Ngươi đến Kiếm Hồ Cung núi Vô Lượng phá rối, chắc không muốn sống hay sao? Ngươi là môn hạ của ai? Ai sai ngươi đến? Nếu không nói thực đừng trách kiếm của đại gia vô tình.
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi bảo ngươi là đại gia, sao lại hung ác thế? Ta bình sinh không thích xem đánh nhau. Quí phái có tên là Vô Lượng Kiếm, lại ở trong núi Vô Lượng. Trong kinh Phật có dạy rằng: “Có bốn điều vô lượng: một là vô lượng từ, hai là vô lượng bi, ba là vô lượng hỉ, bốn là vô lượng xả. Tứ vô lượng đó quí vị chắc ai cũng hiểu rõ rồi; lấy trong lòng vui là từ, dứt được điều khổ là bi, vui thích khi thấy chúng sinh hết khổ trở thành sung sướng là hỉ, mong chúng sinh bỏ được oán niệm mà thành bình đẳng là xả. Vô lượng thọ Phật chính là Phật A Di Đà. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật ...
Y thao thao giảng Phật pháp, niệm kinh, Cung Quang Kiệt thu kiếm về đột nhiên vung tay trái ra, nghe bốp một tiếng, tát cho chàng ta một cái thật đau. Đoàn Dự nghiêng đầu qua toan né tránh thì tay của đối phương đã đánh trúng rồi, khuôn mặt trắng trẻo đã sưng tếu lên, năm ngón tay hiện rõ mồn một.
Mọi người ai nấy hết sức ngạc nhiên, thấy Đoàn Dự không coi địch thủ vào đâu, mồm miệng tuôn ra toàn điều nghe như đùa cợt, ai cũng tưởng chàng ắt mình mang tuyệt nghệ. Ngờ đâu Cung Quang Kiệt tiện tay đánh một chưởng, chàng không tránh được, xem ra quả thực không biết chút võ công nào. Cao thủ võ học cố ý làm như ngớ ngẩn để đùa cợt đối phương cũng là chuyện thường nhưng người không biết võ mà lại lớn mật cuồng ngạo như thế thì chưa hề có. Cung Quang Kiệt mới đánh một chưởng đã trúng cũng không khỏi ngẩn người ra, tiện tay liền chộp ngực Đoàn Dự, nhấc bổng lên, quát lớn:
- Ta cứ tưởng ngươi là một nhân vật ghê gớm thế nào, có biết đâu chỉ là đồ bị thịt.
Nói xong cầm chàng ném xuống đất một cái thật mạnh, Đoàn Dự ngã bịch một cái, đầu đụng ngay vào chân bàn. Mã Ngũ Đức thấy thế thương hại vội chạy tới đỡ lên nói:
- Hóa ra lão đệ không biết võ công thật, vậy thì tới đây làm gì?
Đoàn Dự xoa đầu nói:
- Tôi vốn dĩ chỉ định du sơn ngoạn thủy có biết đâu họ lại tỉ kiếm đánh nhau? Cái trò người nọ giết người kia thì có gì đáng để coi đâu? Thà đi xem người ta đem khỉ ra làm trò còn hay hơn nhiều. Mã ngũ gia, chào ông nhé, thôi tôi đi đây.
Một thanh niên đứng bên cạnh Tả Tử Mục liền nhảy ra, chặn ngay trước mặt Đoàn Dự nói:
- Nếu ngươi không biết võ công, nếu cứ cúp đuôi mà chạy thì chẳng nói làm gì, sao lại dám bảo bọn ta đấu võ tỉ kiếm không bằng khỉ làm trò là sao? Nói thế chẳng khinh người lắm hay sao? Ta cho ngươi chọn một trong hai con đường, hoặc là cùng ta tỉ thí một phen, để xem kiếm pháp không bằng trò khỉ của bọn ta thế nào; hoặc là khấu đầu lạy sư phụ ta tám lạy, tự miệng mình nói ra “Rắm rít” ba lần.
Đoàn Dự cười đáp:
- Ngươi đánh rắm chẳng thối lắm ư?
Gã kia giận quá, giơ quyền đấm luôn vào mặt Đoàn Dự, nghe vù một tiếng, xem ra chàng thể nào cũng vỡ mặt sưng mày. Ngờ đâu quyền vừa đến giữa đường, đột nhiên từ trên không phóng xuống một vật, quấn lấy cổ tay thanh niên. Vật đó lạnh như băng, trơn tuồn tuột, vừa quấn được cổ tay liền ngo ngoe cử động. Thanh niên giật mình kinh hãi, vội vàng rụt tay về, thấy quấn ở tay mình là một con rắn hổ mang màu xanh có chấm đỏ dài chừng một thước, trông thật ghê sợ.
Y hoảng hốt rú lên, vung vẩy mạnh nhưng con rắn vẫn quấn chặt lấy cổ tay, lắc thế nào cũng không tuột ra được. Cung Quang Kiệt đột nhiên kêu lớn:
- Rắn! Rắn!
Mặt y tái mét, giơ tay luồn vào cổ áo mình, mò sau lưng, nhưng nào thấy gì, chỉ đành nhảy tưng tưng, chân tay múa loạn xà ngầu cố cởi áo ra.
Hai biến cố đó thật là quái đản, mọi người còn đang kinh ngạc, bỗng nghe trên đầu có tiếng cười khúc khích. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên thấy một thiếu nữ ngồi trên xà nhà, hai tay cầm toàn những rắn là rắn.
Cô gái đó độ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mặc áo xanh, mặt tươi như hoa, trong tay cầm chừng một chục con rắn nhỏ dài chừng một thước. Những con rắn đó, con thì xanh, con thì hoa, đầu hình tam giác, toàn là rắn độc. Thế nhưng thiếu nữ đó cầm trong tay chẳng khác gì đồ chơi không có vẻ gì sợ hãi.
Mọi người vừa ngửng lên nhìn cô ta thì nghe Cung Quang Kiệt và gã sư đệ kêu oai oái, vội quay đầu nhìn sang hai người. Thế nhưng Đoàn Dự vẫn nhìn cô ta thấy thiếu nữ đó ngồi đong đưa hai chân, xem chừng ngồi trên xà nhà có vẻ thú vị lắm liền hỏi:
- Cô nương, phải cô cứu tôi đó chăng?
Cô gái đáp:
- Tên ác nhân kia đánh ngươi, sao ngươi không trả đòn?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Tôi không biết đánh trả ...
Bỗng nghe "A" một tiếng, mọi người cùng reo lên, Đoàn Dự nhìn xuống thấy Tả Tử Mục tay cầm trường kiếm, mũi kiếm có lấm tấm máu, một con rắn đã đứt đôi hiển nhiên đã bị y chém chết. Trong khi đó Cung Quang Kiệt đã cởi trần đang nhảy lung tung, một con rắn xanh nhỏ đang chạy trên lưng y, y vòng tay lại định chộp, nhưng mấy lần đều vói không tới.
Tả Tử Mục quát lên:
- Quang Kiệt, đứng yên chớ động đậy.
Cung Quang Kiệt sững người thấy một ánh trắng loáng lên, con rắn xanh đứt làm đôi. Tả Tử Mục vung kiếm nhanh như gió, không ai kịp nhìn y xuất thủ như thế nào giết con rắn mà lưng Cung Quang Kiệt không hề tổn thương mảy may. Mọi người liền lớn tiếng hoan hô.
Thiếu nữ ngồi trên xà nhà kêu lên:
- Ối ối! Lão già râu dài kia, sao lão lại giết chết hai con rắn của ta, ta không thèm nể nang lão nữa đâu.
Tả Tử Mục giận dữ đáp:
- Ngươi là con cái nhà ai, đến đây làm gì?
Tuy thế y trong lòng hơi hoảng, không biết thiếu nữ đến ngồi trên xà nhà từ bao giờ, dẫu rằng ai nấy chăm chú coi hai bên Đông Tông, Tây Tông tỉ kiếm nhưng lẽ nào trên đầu có người mà mọi người lại không hề hay biết. Nếu việc này truyền ra ngoài giang hồ, Vô Lượng Kiếm quả thật bẽ mặt. Thiếu nữ vẫn ngồi đong đưa chân, chân mang một đôi giày màu xanh nhạt, chung quanh thêu mấy đóa hoa nhỏ màu vàng, rõ ràng là cách ăn mặc của một cô gái nhỏ. Tả Tử Mục nói tiếp:
- Nhảy xuống mau!
Đoàn Dự vội kêu lên:
- Cao như thế nhảy xuống thì chết mất. Mau mau bảo ai mang thang đến mới được.
Chàng nói thế lập tức có mấy người cười ồ lên. Mấy cô đệ tử của Tây Tông nghĩ thầm: “Trông anh chàng này mặt mũi cũng sáng sủa, ngờ đâu chỉ là một chàng ngốc. Cô bé này lên ngồi trên xà nhà mà thần không hay, quỉ chẳng biết, khinh công dĩ nhiên chẳng vừa, việc gì phải cần đến thang mới xuống được”.
Cô gái nói tiếp:
- Ông đền hai con rắn cho tôi trước, tôi sẽ xuống nói chuyện với ông sau.
Tả Tử Mục nói:
- Hai con rắn nhỏ thì có đáng gì, bắt ở đâu chẳng được.
Lão ta thấy cô gái nghịch chơi mấy con rắn xem như không, cô ta tuổi còn nhỏ không có gì đáng ngại, có điều sư trưởng cha mẹ cô ta ở đằng sau e rằng là những nhân vật có tiếng tăm, thành thử lời ăn tiếng nói cũng dịu ngọt mấy phần. Cô gái cười nói:
- Sao ông nói dễ nghe thế, ông thử đi bắt hai con cho tôi xem nào.
Tả Tử Mục nói:
- Mau nhảy xuống đi!
Cô gái đáp:
- Tôi không xuống.
Tả Tử Mục nói:
- Ngươi không xuống ta sẽ lên lôi ngươi xuống.
Thiếu nữ cười khanh khách:
- Ông có giỏi thử lên bắt tôi xuống xem nào!
Tả Tử Mục là tông sư một môn phái, ở trước mặt biết bao nhiêu hảo thủ võ lâm, môn hạ đệ tử, lẽ nào lại cùng một cô gái nhỏ đôi co nên quay sang nói với Song Thanh:
- Tân sư muội, nhờ sư muội cho một nữ đệ tử lên bắt nó xuống dùm.
Song Thanh đáp:
- Trong môn hạ của Tây Tông chẳng có ai khinh công giỏi như thế cả.
Tả Tử Mục sầm mặt xuống, đang định đáp lời bỗng nghe thiếu nữ nói:
- Ông không chịu đền rắn cho tôi, để tôi cho ông biết tay.
Cô ta mở chiếc túi da bên hông lôi ra một vật gì lông lá ném về phía Cung Quang Kiệt. Cung Quang Kiệt nghĩ rằng đó là một thứ ám khí ghê gớm nên không đám đưa tay bắt, vội vàng tránh sang một bên, không ngờ cái vật lông lá đó lại rất nhanh nhẹn, ở trên không chỉ uốn một cái đã phóng ngay lên lưng Cung Quang Kiệt. Mọi người bấy giờ mới nhìn rõ, thì ra đó là một con chồn nhỏ màu xám nhạt. Con chồn đó nhanh nhẹn dị thường, luồn qua luồn lại trên lưng, trên ngực, trên cổ, trên mặt Cung Quang Kiệt. Cung Quang Kiệt giơ hai tay chộp, thế nhưng tuy y ra tay đã nhanh, con chồn kia còn nhanh gấp mười, thành thử chộp luôn mấy lần đều hụt cả. Người chung quanh thấy y giơ chân múa tay, chộp hết lên lưng lại lên ngực, vỗ trên mặt lại đập lên cổ nhưng con chồn kia vẫn chạy thoăn thoắt không ngừng.
Đoàn Dự cười nói:
- Hay thật! Hay thật! Con chồn này giỏi quá!
Con chồn đó dài chưa đầy một thước, mắt đỏ chót, bốn chân dường như móng sắc lắm nên chỉ giây lát, thân hình trần trùng trục của Cung Quang Kiệt đã đầy những vết xước. Bỗng nghe thiếu nữ chúm miệng huýt mấy tiếng còi, một bóng trắng thấp thoáng, con chồn kia liền chồm lên mặt Cung Quang Kiệt, cái đuôi rậm rì quật ngay vào mắt y. Cung Quang Kiệt vội đưa hai tay ra chộp nhưng con chồn đã luồn ra sau cổ, mấy ngón tay Cung Quang Kiệt liền chộp ngay vào mắt mình.
Tả Tử Mục tiến lên hai bước, trường kiếm đâm ra nhưng lúc đó con chồn đã vọt lên mặt Cung Quang Kiệt, Tả Tử Mục liền vung kiếm đâm theo. Con chồn rụt người lại, chui ra sau cổ Cung Quang Kiệt, kiếm của Tả Tử Mục vừa chạm vào mí mắt Cung Quang Kiệt liền ngừng lại ngay. Tuy nhát kiếm đó đâm không trúng con chồn nhưng người đứng ngoài ai nấy đều thán phục, mũi kiếm nếu chỉ đâm thêm nửa tấc, bên mắt đó của Cung Quang Kiệt sẽ bị hủy ngay. Song Thanh nghĩ thầm: “Kiếm thuật Tả sư huynh ghê gớm thật, ta không thể nào bì kịp. Chỉ riêng chiêu Kim Châm Độ Kiếp đó ta chẳng tài nào cao siêu đến mức đó được”.
Soẹt soẹt soẹt soẹt bốn tiếng, Tả Tử Mục đã đâm ra bốn nhát liền, kiếm chiêu tuy nhanh lạ thường nhưng con chồn kia vẫn nhanh hơn một bước. Cô gái kêu lên:
- Này lão râu dài kia, kiếm pháp ông giỏi nhỉ.
Cô ta lại huýt thêm hai tiếng nữa, con chồn đó liền nhảy xuống đất, thoắt một cái đã biến đi đâu mất. Tả Tử Mục còn đang ngơ ngẩn đã thấy Cung Quang Kiệt hai tay chộp loạn xạ lên đùi mình, thì ra con chồn đã luồn theo ống quần y chạy lên. Đoàn Dự cười sằng sặc, vỗ tay nói:
- Hôm nay quả được mở mắt, thật vui hết sức.
Cung Quang Kiệt hốt hoảng cởi luôn quần dài, lộ hai cái đùi mọc đầy lông đen. Thiếu nữ nói:
- Ngươi là tên ác ôn chỉ giỏi ăn hiếp người khác, để cho ngươi lột trần như nhộng xem có biết xấu hổ không nào.
Nàng lại toét toét huýt mấy tiếng còi, con chồn lập tức nghe lời, không bám vào đùi y nữa mà chui ngay vào quần lót. Trong luyện võ sảnh có rất đông phụ nữ, Cung Quang Kiệt không thể nào cởi luôn cả quần lót được, hai chân nhảy tưng tưng, hai tay đập liên tiếp lên bụng lên mông, hét lên một tiếng lếch thếch chạy vội ra ngoài.
Y vừa chạy đến cửa sảnh bỗng đâu có một người từ ngoài chạy vào, nghe bình một tiếng, hai người đụng nhau một cái đích đáng. Một người chạy ra, một người chạy vào hai bên đều gấp, Cung Quang Kiệt bị bắn ngược về sau, còn người ở ngoài chạy vào kia cũng ngã lăn cù. Tả Tử Mục thất thanh kêu lên:
- Dung sư đệ!
Cung Quang Kiệt không lý gì đến con chồn đang chạy từ đùi bên trái sang đùi bên phải, rồi từ đùi bên phải chạy lên mông, lật đật chạy tới đỡ người kia dậy, con chồn lập tức nhảy tới cào vào ngay chỗ hiểm. Y kêu “A” lên một tiếng, hai tay chộp vào con chồn, người kia lại ngã lăn ra.
Cô gái ngồi trên xà nhà cười khúc khích nói:
- Cho ngươi đáng kiếp.
Nàng huýt một tiếng dài, con chồn liền từ trong quần Cung Quang Kiệt chạy ra, theo tường thoăn thoắt trèo lên, chỉ thấy một bóng trắng thấp thoáng đã chui ngay vào lòng cô gái. Cô gái khen:
- Chồn ngoan lắm.
Nàng lấy hai ngón tay nhón đuôi một con rắn nhỏ, giơ lên nhứ nhứ trước mặt con chồn. Con vật liền giơ chân trước vồ lấy, há miệng ăn ngay, thì ra những con rắn nhỏ trong tay nàng là đồ ăn của con vật.
Đoàn Dự từ trước tới nay chưa thấy bao giờ nên xem chừng thú vị lắm, thấy con chồn đã ăn xong con rắn nhỏ liền chui ngay vào trong cái túi da ở bên hông nàng. Cung Quang Kiệt lại đỡ người kia lên kinh hoảng kêu lên:
- Dung sư thúc, sư thúc ... sao thế này!
Tả Tử Mục vội tiến lên thấy sư đệ Dung Tử Củ hai mắt trợn trừng đầy vẻ phẫn nộ nhưng đã tắt thở tự bao giờ. Tả Tử Mục kinh hãi vội vàng nắn bóp nhưng không làm sao cứu nổi. Tả Tử Mục biết võ công Dung Tử Củ tuy kém mình một chút nhưng so với Cung Quang Kiệt thì cao hơn nhiều, mới đụng một cái y đã không tránh được lại lăn ra chết thì ắt là trước khi bước vào cửa đã bị trọng thương nên vội vàng cởi áo ra xem thấy trên ngực có viết tám chữ:
Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm
Mọi người không hẹn mà cùng kinh hoảng kêu lên. Tám chữ đó ăn sâu hẳn xuống, không phải viết bằng mực bình thường, cũng chẳng phải dùng vật nhọn khắc vào, mà viết bằng dược vật kịch độc, ăn loét vào trong da thịt. Tả Tử Mục hơi suy nghĩ không khỏi giận dữ, thanh kiếm trong tay rung một cái lên tiếng u u, quát lớn:
- Để xem Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm hay là Vô Lượng Kiếm tru diệt Thần Nông Bang. Thù này không trả, ta còn là người sao được!
Y coi xét các nơi trên người Dung Tử Củ thấy không có vết thương nào khác bèn quát lên:
- Quang Hào, Quang Kiệt ra ngoài xem sao.
Can Quang Hào, Cung Quang Kiệt hai đại đệ tử liền cầm trường kiếm, lên tiếng đáp lời đi ra. Biến cố đó khiến cho đại sảnh nhốn nháo, vây quanh xác của Dung Tử Củ bàn tán, không còn ai để ý tới Đoàn Dự và cô gái đang ngồi trên xà nhà. Mã Ngũ Đức trầm ngâm nói:
- Thần Nông Bang càng ngày càng loạn không còn ra gì nữa. Tả hiền đệ, chẳng hay bọn họ và quí phái vì sao mà kết mối oán thù?
Tả Tử Mục thương xót sư đệ chết thảm, nghẹn ngào nói:
- Ấy cũng là việc hái thuốc mà ra. Mùa thu năm ngoái, bốn tên hương chủ trong Thần Nông Bang đến Kiếm Hồ Cung xin gặp, muốn ra sau núi của chúng tôi hái mấy vị thuốc. Hái thuốc vốn dĩ chẳng có gì quan trọng, Thần Nông Bang vốn làm nghề hái thuốc, chế thuốc mưu sinh, Vô Lượng Kiếm tuy không có giao tình gì với họ nhưng cũng không thù không oán. Nhưng Mã ngũ ca cũng đã biết rồi, chúng tôi không thể để người ngoài vào sau núi được, không nói Thần Nông Bang chỉ đối với chúng tôi lai vãng sơ sài, mà dẫu các hảo bằng hữu như các vị trước nay cũng không được du ngoạn phía hậu sơn bao giờ. Đó là qui củ tổ truyền, bọn tiểu bối chúng tôi không thể vi phạm kỳ thực cũng chẳng có gì gọi là ghê gớm ...
Cô gái ngồi trên xà nhà đem mấy chục con rắn trong tay bỏ vào một cái giỏ nhỏ đan bằng tre rồi móc trong túi ra một nắm hạt dưa ngồi nhai, hai chân đong đưa, bỗng cầm một hạt dưa ném lên đầu Đoàn Dự, trúng ngay trán chàng, cười hỏi:
- Này, có muốn ăn hạt dưa không? Lên đây!
Đoàn Dự đáp:
- Không có thang, tôi đâu có lên được.
Cô gái nói:
- Cũng dễ thôi!
Cô ta cởi ngang lưng ra một sợi dây đai màu xanh lục thòng xuống nói:
- Anh cầm sợi dây này tôi kéo lên.
Đoàn Dự đáp:
- Tôi nặng lắm cô kéo không nổi đâu.
Thiếu nữ cười:
- Cứ thử xem, ngã cũng không chết đâu mà sợ.
Đoàn Dự thấy cái thắt lưng thòng ngay trước mặt liền giơ tay cầm lấy. Thiếu nữ nói:
- Nắm cho chặt nhé!
Nàng nhè nhẹ kéo lên, thân hình Đoàn Dự đã rời khỏi mặt đất. Thiếu nữ hai tay liên tiếp rút, chỉ mấy lần đã kéo chàng lên trên xà nhà. Đoàn Dự nói:
- Con chồn nhỏ của cô thật dễ thương, lại biết nghe lời.
Cô gái lấy con chồn trong túi da ra, hai tay bồng lên. Đoàn Dự thấy con vật lông mượt, đôi mắt đỏ au long lanh nhìn mình, trông thật dễ thương bèn hỏi:
- Tôi vuốt ve nó một chút có được không?
Thiếu nữ đáp:
- Anh vuốt nó đi.
Đoàn Dự giơ tay vỗ nhè nhẹ lên lưng con chồn, thấy đám lông của nó thật là mềm mại ấm áp. Bất thình lình con chồn kêu chít một tiếng rồi chui tọt vào cái túi da ở bên hông cô gái. Đoàn Dự không đề phòng vội thụt lùi về sau, ngồi không vững suýt nữa thì ngã nhào xuống đất. Thiếu nữ vội giơ tay chộp lấy cổ áo, kéo chàng lại gần bên mình, cười nói:
- Quả thật anh không biết chút võ công nào, kể cũng lạ thật.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Lạ cái gì?
Thiếu nữ đáp:
- Anh không biết võ công, lại một thân một mình, thảo nào chẳng bị bọn ác nhân kia hiếp đáp. Anh tới đây làm gì?
Đoàn Dự đang định kể cho cô ta nghe, bỗng nghe tiếng chân rầm rập, Can Quang Hào, Cung Quang Kiệt hai người chạy vào đại sảnh. Lúc này Cung Quang Kiệt đã mặc quần dài lại rồi nhưng thân trên vẫn cởi trần. Hai người thần sắc có vẻ kinh hoàng chạy đến trước mặt Tả Tử Mục. Can Quang Hào nói:
- Sư phụ, Thần Nông Bang tụ tập tại ngọn núi phía trước, chặn hết các ngả đường, nói không ai được hạ sơn cả. Chúng đệ tử thấy bên địch đông quá, chưa được lệnh của sư phụ nên không dám tùy tiện ra tay.
Tả Tử Mục hỏi:
- Hừ, họ độ chừng bao nhiêu người?
Can Quang Hào đáp:
- Phải đến bảy tám chục người.
Tả Tử Mục hắc hắc cười nhạt mấy tiếng nói:
- Bảy tám chục người mà đòi tru diệt Vô Lượng Kiếm sao? Chỉ sợ không dễ như thế.
Cung Quang Kiệt nói:
- Bọn chúng dùng tên bắn qua một bao thư, trên phong bì viết thật là vô lễ.
Nói xong y đem lá thư trình lên, Tả Tử Mục thấy trên phong bì viết: “Truyền cho Tả Tử Mục” năm chữ lớn, không thèm cầm nói:
- Ngươi mở ra xem viết gì.
Cung Quang Kiệt đáp:
- Vâng.
Y liền xé phong bì lôi lá thư ra. Thiếu nữ nói nhỏ:
- Trên phong bì và lá thư đều có chất độc.
Đoàn Dự hỏi:
- Ghê gớm đến thế sao?
Chỉ nghe Cung Quang Kiệt đọc:
- Thần Nông Bang truyền cho Tả ... nghe đây – y không dám nói thẳng tên sư phụ nên khi đọc đến chữ Tả rồi, hai chữ Tử Mục bèn bỏ qua không nhắc tới – Hạn kỳ cho các ngươi trong vòng một giờ phải tự chặt tay phải, bẻ gẫy binh khí, ra khỏi Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng, nếu không thì con gà con chó của Vô Lượng Kiếm cũng không tha.
Chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm Song Thanh cười nhạt nói:
- Thần Nông Bang là bọn nào mà lớn lối quá vậy?
Đột nhiên nghe “bình” một tiếng, Cung Quang Kiệt ngã ngửa ra. Can Quang Hào đứng bên cạnh kêu lên:
- Sư đệ!
Y đưa tay định đỡ dậy, Tả Tử Mục liền tiến lên hai bước, giơ tay giữ vào ngực y, hơi vận kình lực, đẩy y ra ngoài ba bước, quát lên:
- Coi chừng có độc, không được đụng vào y.
Chỉ thấy Cung Quang Kiệt mặt mày dúm dó giật giật không ngừng, bàn tay cầm lá thư chỉ chốc lát đã đen kịt, hai chân duỗi một cái đã chết rồi. Trước sau chỉ chừng thời gian một bữa ăn, Đông Tông Vô Lượng Kiếm chết mất hai hảo thủ, mọi người ai nấy không khỏi thất sắc. Đoàn Dự hạ giọng nói:
- Cô cũng ở trong Thần Nông Bang chăng?
Thiếu nữ giận dỗi đáp:
- Hứ, làm gì có, anh nói lăng nhăng gì thế?
Đoàn Dự hỏi:
- Thế sao cô biết được phong thư có độc?
Cô gái cười:
- Cách hạ độc đó thật là thô thiển, nhìn qua là biết ngay. Cái trò ngớ ngẩn đó chỉ giết được bọn vô tri mà thôi.
Mấy câu nói của cô ta trong sảnh mọi người đều nghe thấy, cùng ngửng đầu lên, thấy cô gái vẫn cắn hạt dưa, đôi chân đi giày hoa đong đưa không ngừng. Tả Tử Mục đưa mắt nhìn tờ giấy trong tay Cung Quang Kiệt không thấy có gì khác lạ, nghiêng đầu nhìn lại một lần nữa, quả nhiên thấy phong bì và lá thư có lấp loáng ánh lân quang, giật mình ngửng đầu nói với cô gái:
- Cô nương tôn tính đại danh là gì?
Thiếu nữ đáp:
- Tôn tính đại danh của ta không nói cho ông biết được, cái đó gọi là thiên cơ bất khả tiết lậu.
Nghe thấy cô ta nói như thế, Tả Tử Mục lửa giận bừng bừng nhưng cố nén không để phát tác nói:
- Thế thì lệnh tôn là ai? Tôn sư là vị nào thế?
Thiếu nữ cười đáp:
- Ha ha, tôi không mắc lỡm của ông đâu. Nếu tôi nói cho ông biết lệnh tôn của tôi là ai thì ông biết tôn tính của tôi còn gì. Nếu ông biết được tôn tính của tôi, thì thể nào cũng biết đại danh của tôi. Còn tôn sư của tôi là mẹ tôi, mà tên mẹ tôi thì không thể nào nói cho ông biết được.
Tả Tử Mục nghe giọng cô ta vừa uyển chuyển vừa ríu rít, đúng là người bản địa xứ Vân Nam, nghĩ thầm: “Trong võ lâm đất Vân Nam này có đôi vợ chồng nào khinh công cao siêu là cha mẹ cô ta nhỉ?” Cô gái đó chưa từng ra tay thành thử y không thể nào bằng võ công gia số mà đoán được, liền nói:
- Xin mời cô nương xuống đây để cùng chúng tôi thương nghị phương sách đối phó. Thần Nông Bang nói bất cứ ai cũng không xuống núi được, cả cô cũng sẽ bị giết nữa.
Thiếu nữ cười:
- Bọn họ không giết tôi đâu, Thần Nông Bang chỉ giết người Vô Lượng Kiếm thôi. Tôi đi đường nghe thấy tin tức đó nên tới đây xem trò giết người cho vui. Lão già râu dài kia, kiếm pháp của các ông không đến nỗi dở, có điều không biết sử dụng độc dược nên không đánh lại Thần Nông Bang đâu.
Mấy câu đó chính nói trúng vào nhược điểm của Vô Lượng Kiếm, nếu chỉ bằng tài nghệ chân thực thì hai phái Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm thêm tám hảo thủ của môn phái khác được mời đến làm chứng, không thể nào không địch lại Thần Nông Bang, thế nhưng nói đến dùng độc, giải độc thì không ai biết gì cả.
Tả Tử Mục nghe miệng lưỡi cô gái một giọng “hạnh tai lạc họa” tưởng như Vô Lượng Kiếm càng chết nhiều thì nàng ta càng khoái chí nên cười gằn một tiếng, hỏi lại:
- Cô nương trên đường nghe được tin tức gì?
Y trước nay quen giọng bề trên nên câu hỏi dường như khiến người nghe không thể không trả lời. Thiếu nữ bỗng hỏi:
- Ông có cắn hạt dưa không?
Tả Tử Mục mặt hơi tím lại, nếu như không vì đại địch ở bên ngoài thì đã nổi cáu đành phải nén giận nói:
- Không ăn.
Đoàn Dự chen vào:
- Hạt dưa của cô có mùi gì? Quế Hoa? Mai Côi? Hay là Tùng Tử?
Thiếu nữ nói:
- Ối chà, hạt dưa cũng có nhiều loại đến thế ư? Tôi cũng không biết nữa. Loại hạt dưa này mẹ tôi sao bằng mật rắn, ăn vào mắt sáng, anh thử cho biết.
Nói rồi nàng ta bốc một nắm nhét vào tay Đoàn Dự, nói tiếp:
- Ăn chưa quen thì hơi đắng nhưng thực ra ngon lắm.
Đoàn Dự không nỡ làm phật ý nàng, cầm một hạt dưa đưa lên miệng thấy quả có hơi cay nhưng nhấm thử thấy ngòn ngọt đầu lưỡi ra nước miếng nên ăn thử. Chàng cắn hạt dưa để vỏ lên trên xà nhà, còn cô gái chẳng e dè gì thuận mồm cứ nhả xuống, vỏ hạt bay tứ tung lên đầu mọi người, khiến ai nấy nhăn mặt tránh ra.
Tả Tử Mục hỏi tiếp:
- Cô nương trên đường nghe thấy tin tức gì, xin nói cho nghe, tại hạ ... tại hạ cảm kích vô cùng.
Y vì muốn thám thính tin tức nên giọng điệu cực kỳ khách khí. Thiếu nữ đáp:
- Tôi nghe người trong Thần Nông Bang nói cái gì Vô Lượng Ngọc Bích, thế cái đó có gì thích thú hay không?
Tả Tử Mục hơi sững người hỏi lại:
- Vô Lượng Ngọc Bích? Không lẽ trong núi Vô Lượng có bảo ngọc, bảo bích gì chăng? Ta chưa từng nghe đến. Song Thanh sư muội có nghe ai nói tới bao giờ chưa?
Song Thanh chưa kịp trả lời, cô gái đã cướp lời:
- Dĩ nhiên bà ta cũng chưa nghe. Các người đừng giả vờ kẻ tung người hứng, không muốn nói thì cạy răng cũng không nói. Hứ, quí báu nhỉ?
Tả Tử Mục sượng sùng nói:
- À, ta nghĩ ra rồi, Thần Nông Bang nói đến chắc là hòn đá bóng loáng ở cạnh Bạch Long Phong trên núi Vô Lượng. Phiến đá đó nhẵn như gương, soi rõ cả sợi lông sợi tóc, có người bảo đó là một khối ngọc, kỳ thực thì chỉ là một khối đá lớn nhẵn nhụi sáng loáng chứ có gì đâu.
Thiếu nữ nói:
- Sao ông không nói sớm có phải hay hơn không? Thế ông gây thù chuốc oán với Thần Nông Bang như thế nào? Cớ gì họ lại muốn giết sạch Vô Lượng Kiếm gà chó không còn?
Tả Tử Mục thấy mình trở nên lép vế, muốn con bé này nói rõ tin tức ra thì đành phải tiết lộ trước, tình hình trước mắt gấp gáp, lại có có bao nhiêu là người ngoài không thể nào tóm cổ cô gái để tra vấn bèn nói:
- Mời cô nương xuống đây đã để tôi trình rõ đầu đuôi.
Cô gái vẫn đong đưa bàn chân nói:
- Trình rõ đầu đuôi, chẳng cần phải như thế. Có điều lời của ông giả hay thật, ta chỉ tin được ba bốn phần, ông cứ nói nghe thử xem nào.
Đôi lông mày Tả Tử Mục nhướng lên, lộ vẻ giận dữ nhưng lập tức đổi sắc mặt nói:
- Năm ngoái bang Thần Nông muốn đến hậu sơn của chúng tôi hái thuốc, ta không bằng lòng. Bọn họ liền lén vào hái trộm, sư đệ ta Dung Tử Củ cùng mấy đệ tử trông thấy nên ra lời trách cứ. Bọn họ đáp lại: “Chỗ này nào có phải điện Kim Loan hay Ngự Hoa viên mà người ngoài không đến được? Không lẽ Vô Lượng Kiếm các ngươi mua đứt núi Vô Lượng rồi hay sao?”. Hai bên nói qua nói lại liền ra tay đánh nhau. Dung sư đệ ra tay không nể nang chút nào, giết của bên họ hai người, hai bên thành ra rắc rối. Về sau ở bên bờ sông Lan Thương , hai bên lại đánh nhau lần nữa, chết thêm mấy người.
Thiếu nữ nói:
- Ồ, thì ra là thế. Bọn họ muốn hái thứ thuốc gì vậy?
Tả Tử Mục đáp:
- Chuyện đó ta cũng không rõ.
Cô gái mặt mày nhơn nhơn có vẻ đắc ý nói:
- Hóa ra ông cũng không biết. Ông đã kể cho ta nghe chuyện kết oán gây thù thế nào thì ta cũng kể cho ông vài điều. Hôm đó tôi vào trong núi bắt rắn cho con thiểm điện điêu ăn ...
Đoàn Dự xen vào:
- Con chồn của cô tên là thiểm điện điêu đấy ư?
Cô gái đáp:
- Đúng thế, nó chạy chẳng nhanh như ánh chớp là gì?
Đoàn Dự khen ngợi:
- Đúng vậy, thiểm điện điêu, cái tên đó nghe hay quá!
Tả Tử Mục trừng mắt nhìn chàng, bực bội vì bị ngắt quãng nhưng thiếu nữ sắp nói đến đoạn gay cấn nếu như mình lên tiếng trách mắng Đoàn Dự chỉ sợ nàng ta nổi cáu không nói thêm nữa nên chỉ đành hầm hầm lặng thinh không nói lời nào.
Cô gái quay sang nói với Đoàn Dự:
- Thiểm điện điêu thích ăn rắn độc, còn ngoài ra không ăn gì khác. Ta nuôi nó từ khi còn nhỏ, nay đã bốn tuổi rồi, chỉ nghe lời một mình ta mà thôi, ngay cả cha ta mẹ ta nói nó cũng không nghe. Ta bảo nó dọa người là dọa người, cắn người là cắn người. Con chồn này ngoan lắm.
Nói xong cô gái thò tay vào túi vuốt ve con chồn. Đoàn Dự nói:
- Vị Tả tiên sinh này đang nóng ruột, cô nói cho ông ta nghe đi.
Cô gái mỉm cười cúi xuống nói với Tả Tử Mục:
- Lúc đó tôi đang ở trong đám cỏ bắt rắn nghe tiếng có mấy người đi tới. Một người nói: “Lần này nếu không giết sạch Vô Lượng Kiếm, chiếm lấy núi Vô Lượng, Kiếm Hồ Cung thì Thần Nông Bang chúng ta chỉ còn có nước cắt cổ mà chết”. Ta nghe nói bọn chúng giết sạch gà chó không tha, lấy làm thích thú nên nín hơi không lên tiếng. Lại nghe bọn chúng nói chuyện tiếp nghe nói gì phụng mệnh cung Linh Thứu trên núi Phiêu Miểu phải chiếm lấy Kiếm Hồ Cung để tra xét cho rõ Vô Lượng Ngọc Bích ra thế nào.
Cô ta nói đến đây, Tả Tử Mục và Song Thanh hai người liền đưa mắt nhìn nhau. Thiếu nữ hỏi:
- Thế núi Phiêu Miểu, cung Linh Thứu là cái gì? Sao Thần Nông Bang lại nghe hiệu lệnh của họ?
Tả Tử Mục đáp:
- Phiêu Miểu Phong cung Linh Thứu đây là lần đầu mới nghe cô nương nói đến. Ta thực quả không biết Thần Nông Bang nghe hiệu lệnh của người khác đến làm khó dễ với chúng tôi.
Nghĩ đến việc bang Thần Nông mà phải nghe lệnh của bên ngoài thì Phiêu Miểu Phong hẳn phải lợi hại ghê gớm, thế nhưng núi non ở Vân Nam có đến hàng ngàn hàng vạn mà chưa từng nghe nói đến núi Phiêu Miểu bao giờ khiến cho y càng lo lắng không khỏi nhíu mày.
Cô gái cắn thêm hai hạt dưa rồi nói tiếp:
- Lúc đó lại nghe một người khác nói: “Cái mầm bệnh của bang chủ nếu như thông thiên thảo trong núi Vô Lượng có thể giải được, anh em chúng tôi dù có phải chịu nghìn đao vạn kiếm cũng phải nhất định hái cho bằng được thứ cỏ này”.
Người kia thở dài: “Sinh Tử Phù cấy trên người ta ngoại trừ Thiên Sơn Đồng Mỗ lão nhân gia thì không ai có thể giải được. Thông thiên thảo tuy dược tính linh dị thật nhưng cũng chỉ giúp cho bớt được phần nào cái đau đớn khổ sở sống đở chết dở một khi Sinh Tử Phù phát tác ...”
Bọn họ vừa nói vừa đi mỗi lúc một xa. Ta nói thế có rõ ràng không?
Tả Tử Mục không trả lời, cúi đầu suy nghĩ. Song Thanh nói:
- Tả sư huynh, thông thiên thảo cũng chẳng có gì là quí báu, nếu như bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền muốn dùng để trị bệnh, giảm đau thì mình cứ cho họ có được không?
Tả Tử Mục giận dữ đáp:
- Cho họ thông thiên thảo thì có gì là khó? Thế nhưng họ còn muốn chiếm cung Kiếm Hồ và núi Vô Lượng kia mà, sư muội không nghe thấy hay sao?
Song Thanh hừ một tiếng, không nói nữa. Thiếu nữ vòng tay qua đỡ ngang lưng Đoàn Dự nói:
- Thôi đi xuống.
Nàng nhún mình một cái nhảy ngay từ xà nhà xuống. Đoàn Dự hoảng hốt “A” lên một tiếng thì thân hình đã ở trên không. Thiếu nữ đỡ chàng nhẹ nhàng rơi trên mặt đất, tay trái vẫn còn cần lấy tay phải chàng nói:
- Thôi mình đi ra ngoài coi xem bọn Thần Nông Bang như thế nào?
Tả Tử Mục tiến lên một bước nói:
- Hãy khoan, ta còn mấy câu muốn hỏi. Cô nương nói là lão Tư Không Huyền bị trúng phải Sinh Tử Phù nếu khi phát tác thì sống không được, chết không xong là như thế nào? Thiên Sơn Đồng Mỗ là ai thế?
Cô gái đáp:
- Thứ nhất, hai câu hỏi của ông ta đều không biết. Thứ hai, ông hỏi mà mặt hầm hầm hung hăng, nếu có biết ta cũng không nói cho mà nghe đâu.
Lúc này Vô Lượng Kiếm đang bị đại địch thúc ép ở bên ngoài, Tả Tử Mục không muốn gây thêm kẻ thù làm gì nhưng nghe cô ta nói bên trong dường như có rất nhiều điểm quan trọng có liên hệ đến sự tồn vong vinh nhục của Vô Lượng Kiếm không thể nào không hỏi cho rõ đầu đuôi ngọn ngành, thành thử lạng người một cái đã chắn ngay trước mặt thiếu nữ và Đoàn Dự nói:
- Cô nương, bọn ác đồ của Thần Nông Bang đang ở bên ngoài, nếu cô tự tiện đi ra, nếu có chuyện gì sơ sẩy, phái Vô Lượng Kiếm chúng tôi sẽ bị liên lụy.
Cô gái mỉm cười:
- Tôi không phải là khách do ông mời đến, hơn nữa, ông cũng chưa biết tôn tính đại danh của tôi. Nếu giả như Thần Nông Bang có giết tôi chăng nữa, cha mẹ tôi không thể nào trách ông không bảo vệ chu toàn được.
Nói xong nàng cầm tay Đoàn Dự tiến ra ngoài cửa. Tay phải Tả Tử Mục hơi rung một cái, rút phắt trường kiếm bên hông ra nói:
- Cô nương, xin dừng bước.
Cô gái hỏi lại:
- Ông muốn động võ chăng?
Tả Tử Mục nói:
- Ta chỉ muốn cô đem câu chuyện đó nói cho rõ ràng thôi.
Thiếu nữ lắc đầu nói:
- Nếu như tôi không nói, ông giết tôi chăng?
Tả Tử Mục đáp:
- Ta cũng không còn cách nào khác.
Thanh trường kiếm y liền đâm ra chặn ngay lối đi. Thiếu nữ quay sang nói với Đoàn Dự:
- Lão già râu dài này muốn giết tôi, anh tính thế nào?
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt cầm trong tay nói:
- Cô nương muốn làm sao thì làm.
Cô gái nói:
- Nếu ông ta đâm một kiếm giết tôi thì làm sao bây giờ?
Đoàn Dự đáp:
- Chúng ta có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh.
Cô gái đáp:
- Mấy câu của anh nghe được lắm, quả thực anh đáng để kết giao không uổng quen biết nhau, thôi đi.
Nàng nói rồi tiến bước ra cửa coi như không nhìn thấy thanh kiếm lấp lánh xanh lè trong tay Tả Tử Mục. Tả Tử Mục rung tay một cái mũi kiếm chỉ ngay vào vai trái thiếu nữ, tuy ông ta không có ý định đả thương mà chỉ cốt để nàng ta không đi ra khỏi luyện võ sảnh. Thiếu nữ liền vỗ vào cái túi da bên hông một cái, miệng huýt hai tiếng còi, chỉ thấy một bóng trắng lấp loáng, thiểm điện điêu liền nhảy vọt ra chồm lên cánh tay Tả Tử Mục. Tả Tử Mục vội giơ tay ra chộp nhưng con chồn quả thực nhanh như chớp, nghe cách một tiếng đã cắn ngay vào cổ tay phải y, rồi lập tức chui tọt trở vào cái túi da bên hông cô gái.
Tả Tử Mục kêu oái lên một tiếng, trường kiếm rơi ngay xuống đất, chỉ trong giây lát đã thấy cổ tay phải tê chồn, kêu lên:
- Độc, độc! Ngươi ... con chồn quỉ của ngươi có chất độc!
Nói rồi tay trái nắm chặt cổ tay phải sợ độc tính chạy ngược lên. Các đệ tử Đông Tông Vô Lượng Kiếm vội vàng nhao nhao chạy lên, ba người chạy lại đỡ sư phụ, còn lại tay cầm trường kiếm vây quanh thiếu nữ và Đoàn Dự, quát lên:
- Mau, mau đưa thuốc giải đây, nếu không chúng ta sẽ cùng đâm chết ngay con tiểu a đầu.
Cô gái cười nói:
- Ta làm gì có giải dược. Các ngươi chỉ cần đi hái một nắm thông thiên thảo, sắc một bát thật đặc cho ông ta uống là sẽ xong ngay. Có điều trong ba giờ không được cử động, nếu không chất độc chạy lên tim thì ôi thôi. Các ngươi chặn ta làm gì? Muốn con chồn cắn cho mỗi người một miếng hay sao?
Nàng nói xong thò tay vào trong túi bế con chồn lên tay, tay kia cầm tay Đoàn Dự đi ra ngoài. Các đệ tử thấy sư phụ như thế, biết rằng tài sức như mình không thể nào tránh được con chồn nhanh như điện này nên đành giương mắt nhìn hai người ra khỏi luyện võ sảnh.
Những người khách đến Kiếm Hồ Cung thấy con thiểm điện điêu lanh lẹ dị thường nên ai nấy đều e ngại, chẳng dám đứng ra ngăn trở.
Thiếu nữ và Đoàn Dự sóng vai đi ra khỏi cửa, các đệ tử phái Vô Lượng Kiếm người thì ở trong sảnh, kẻ thì canh gác bên ngoài để phòng bang Thần Nông đến tấn công nên hai người ra khỏi Kiếm Hồ Cung mà không gặp ai khác. Cô gái nói nhỏ:
- Con thiểm điện điêu trước nay ăn không biết bao nhiêu là rắn độc nên răng nó độc địa lắm, lão già râu dài bị nó cắn một miếng, nếu như lúc ấy chặt ngay cánh tay đi thì không sao chứ nếu không để thêm một hai giờ thì chỉ sống được tám ngày nữa thôi.
Đoàn Dự hỏi:
- Thế sao cô bảo là chỉ cần hái một nắm cỏ thông thiên sắc một bát thật đặc uống vào là khỏi ngay?
Thiếu nữ cười:
- Đó là tôi nói dối chúng đó. Nếu không đời nào bọn họ để cho mình đi ra.
Đoàn Dự hoảng hốt:
- Cô đợi tôi một chút để tôi vào nói cho họ hay.
Thiếu nữ giơ tay giữ chàng lại, giận dỗi nói:
- Đồ ngốc, nếu anh nói ra thì mạng chúng mình có còn được hay chăng? Con chồn của tôi tuy lợi hại thật nhưng bọn họ cùng xông lên thì làm sao chống cự nổi? Anh đã nói hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh, tôi đâu có thể nào bỏ anh chạy một mình.
Đoàn Dự gãi đầu nói:
- Thế thì cô cho họ giải dược đi.
Cô gái đáp:
- Ồ, sao anh lại giở tính đàn bà, người ta đánh anh anh lại còn tốt bụng với họ là sao?
Đoàn Dự xoa má nói:
- Người ta đánh tôi cũng đã hết đau rồi, nhớ làm gì? Ôi, tiếc thay người đánh tôi đã chết rồi. Mạnh Tử nói: Lòng thương xót chính là đầu của đức nhân. Nhà Phật cũng dạy rằng: Dù xây chín đợt phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người. Tả Tử Mục Tả tiên sinh tuy hung hăng thật nhưng nói chuyện với cô cũng nể nang lắm, ông ta đã có râu dài thượt mà với một cô gái nhỏ như thế cũng vẫn xưng là “tại hạ”.
Thiếu nữ cười khúc khích nói:
- Lúc đó tôi đang ngồi trên xà nhà, y ở dưới đất, thì đúng là “tại hạ” rồi còn gì? Anh cứ nói tốt cho y để tôi đưa cho giải dược. Thế nhưng quả thật tôi không có. Thuốc giải chỉ cha tôi có thôi, hơn nữa, phái Vô Lượng Kiếm trong nháy mắt đã bị Thần Nông Bang giết sạch gà chó không còn, tôi có đến xin cha tôi thuốc giải đem tới thì gã Tả Tử Mục kia đầu cũng không còn trên cổ nữa rồi, cái xác chết thì giải độc hay không giải độc cũng có liên quan gì đến nhau đâu?
Đoàn Dự lắc đầu, đành không nói chuyện thuốc giải nữa, nhân vầng trăng sáng vừa lên chiếu trên khuôn mặt trắng trẻo ẩn hồng của nàng, thấy cô gái dung nhan xinh đẹp, bèn nói:
- Tôn tính đại danh của cô không chịu nói cho lão râu dài biết nhưng có thể nói cho tôi biết được chăng?
Thiếu nữ cười đáp:
- Có gì đâu mà tôn tính đại danh? Tôi họ Chung, cha mẹ tôi gọi tôi là Linh Nhi. Tôn tính thì có, đại danh thì không, chỉ có cái tiểu danh thôi. Chúng mình qua bên sườn núi ngồi chơi, anh kể cho tôi nghe anh đến núi Vô Lượng để làm gì?
Hai người bèn sóng vai đi đến sườn núi ở góc tây bắc. Đoàn Dự vừa đi vừa nói:
- Tôi từ nhà ra đi, ngao du tứ xứ đến Phổ Nhĩ thì trong túi không còn một đồng, nghe nói vị Mã Ngũ Đức Mã ngũ gia cực kỳ hiếu khách nên đến nhà ông ta ăn cơm chực. Vừa đúng lúc ông ta đang định lên núi Vô Lượng, tôi cũng nghe núi Vô Lượng phong cảnh thanh u nên đi theo ông ta du sơn ngoạn thủy.
Chung Linh gật đầu hỏi lại:
- Sao anh lại bỏ nhà ra đi là thế nào?
Đoàn Dự đáp:
- Cha tôi muốn dạy tôi học võ công, tôi không chịu học. Cha tôi ép quá, tôi chỉ có nước bỏ nhà ra đi.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:44 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Sểnh nhà cất bước đi ra,
Áo xanh Tư Mã xông pha hiểm nghèo.
*
***


Chung Linh giương đôi mắt to đen láy nhìn chăm chăm để xem chàng nói thật hay giả, trong bụng lấy làm kỳ lạ hỏi thêm:
- Vì cớ gì anh lại không thích học võ công, sợ khổ chăng?
Đoàn Dự đáp:
- Khổ sở tôi không sợ. Có điều tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi không ra nên không nghe lời cha tôi. Cha tôi bực tức cùng mẹ tôi cãi lẫy một hồi ...
Chung Linh mỉm cười nói:
- Mẹ anh bênh anh, cãi lại cha anh có phải không nào?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế.
Chung Linh thở dài nói:
- Mẹ tôi cũng thế.
Nàng nhìn ra phía xa xăm, ngơ ngẩn xuất thần lại hỏi tiếp:
- Anh nghĩ đi nghĩ lại nghĩ mãi không ra chuyện gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi từ nhỏ đã thụ Phật giới, cha tôi mời một thầy đồ dạy tôi tứ thư ngũ kinh , thi từ ca phú, lại mời một cao tăng dạy tôi kinh Phật. Hơn mười năm qua, tôi toàn học về tấm lòng nhân của Nho gia, giới sát giới sân, lòng từ bi của Phật gia vậy mà cha tôi lại bắt tôi học võ, học cách đánh người giết người, thành thử tôi thấy không phải chút nào. Cha tôi liên tiếp khuyên bảo ba ngày, tôi nhất định không chịu. Cha tôi dẫn kinh Phật toàn trật lất, giải thích lại cũng sai.
Chung Linh nói:
- Thế rồi cha anh nổi giận đánh anh một trận phải không nào?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Cha tôi không đánh tôi, ông ấy chỉ giơ tay điểm hai huyệt đạo. Chỉ trong giây lát, toàn thân tôi tưởng chừng như có hàng vạn con kiến cắn, lại tưởng như có thật nhiều muỗi bu vào hút máu. Cha tôi nói: “Cái mùi vị đó có thích không? Ta là cha ngươi thành thử sẽ giải huyệt cho ngươi, thế nhưng nếu như vào tay kẻ địch thì ngươi sẽ sống không xong, chết chẳng được. Ngươi thử tự sát xem nào?”. Tôi bị ông ấy điểm huyệt rồi, đến một ngón tay cũng không cử động được thì còn tự sát làm sao được. Hơn nữa, tôi đang sống yên lành cớ gì lại tự sát? Thế rồi mẹ tôi gây gỗ với cha tôi, cha tôi phải giải huyệt cho tôi hôm sau tôi liền len lén trốn đi.
Chung Linh ngơ ngẩn ngồi nghe, đột nhiên lớn tiếng nói:
- Thì ra cha anh biết điểm huyệt, lại là công phu điểm huyệt số một của thiên hạ, có phải là chỉ giơ tay ấn vào người anh, anh không cử động được, ngứa ngáy chịu không nổi, có phải không nào?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế, nhưng có gì là kỳ lạ đâu?
Chung Linh mặt đầy vẻ kinh ngạc nói:
- Anh bảo không có gì kỳ lạ à? Không có gì kỳ lạ là sao? Trong võ lâm, nếu như có ai được học công phu điểm huyệt của gia gia anh, dẫu bảo y rập đầu một vạn lần, có phải van xin mười năm, hai mươi năm người ta cũng chịu. Còn anh thì lại nhất định không học, quả thực không còn kỳ lạ thì là gì?
Đoàn Dự đáp:
- Công phu điểm huyệt đó tôi chẳng thấy có gì là ghê gớm cả.
Chung Linh thở dài, nói:
- Câu chuyện đó anh không nên nói ra, cũng tuyệt đối chớ có cho ai biết.
Đoàn Dự lạ lùng:
- Vì sao?
Chung Linh đáp:
- Anh đã không biết võ công, những chuyện tồi bại trên giang hồ lại không am tường. Công phu điểm huyệt của họ Đoàn thiên hạ vô song, gọi là Nhất Dương Chỉ. Người học võ nghe thấy ba chữ Nhất Dương Chỉ ai nấy nước dãi chảy dài ba thước, thèm muốn đến mười ngày đêm không ngủ được. Nếu như có ai biết cha anh biết được công phu đó, không chừng nổi lòng xấu xa, bắt anh trói lại, đòi cha anh đem huyệt phổ của Nhất Dương Chỉ ra trao đổi thì làm thế nào?
Đoàn Dự gãi đầu:
- Có chuyện đó sao? Cha tôi nổi giận không chừng sẽ đánh cho người đó một trận.
Chung Linh nói:
- Thế sao. Nếu ra mặt gây sự với họ Đoàn nhà anh người ngoài dĩ nhiên không dám nhưng vì bí quyết của Nhất Dương Chỉ không chừng họ sẽ ra tay. Huống chi nếu như anh rơi vào tay người ngoài thì sự việc không phải dễ dàng giải quyết. Thành thử từ rày đừng nên nói cho người ta biết anh họ Đoàn.
Đoàn Dự đáp:
- Ở nước Đại Lý này họ Đoàn có đến hàng nghìn hàng vạn, đâu phải ai cũng biết phép điểm huyệt đó đâu. Nếu tôi không lấy họ đoàn thì cô bảo tôi lấy họ gì bây giờ?
Chung Linh mỉm cười nói:
- Vậy anh cứ tạm thời lấy họ của tôi cũng được.
Đoàn Dự cười nói:
- Thế thì hay lắm, cô phải gọi tôi là đại ca. Cô bao nhiêu tuổi?
Chung Linh đáp:
- Mười sáu. Còn anh?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi hơn cô ba tuổi.
Chung Linh vặt một lá cỏ, rứt ra từng khúc, đột nhiên lắc đầu nói:
- Nếu quả thực anh không muốn học công phu Nhất Dương Chỉ tôi không thể nào tin nổi. Anh đánh lừa tôi, phải không nào?
Đoàn Dự cười khì nói:
- Sao cô coi Nhất Dương Chỉ thần diệu đến thế, có ăn thay cơm được không? Tôi xem con thiểm điện điêu của cô còn hơn nhiều, có điều nó cắn là chết người nên tôi không thích lắm.
Chung Linh thở dài:
- Nếu như con thiểm điện điêu cắn không chết người thì để làm gì?
Đoàn Dự nói:
- Cô là một cô gái còn nhỏ, sao cứ nghĩ tới chuyện đánh nhau, giết người là cớ làm sao?
Chung Linh nói:
- Có thực anh không biết, hay anh chỉ giả vờ?
Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại:
- Cái gì?
Chung Linh chỉ tay ra phương đông nói:
- Anh xem kìa!
Đoàn Dự nhìn theo hướng tay cô ta chỉ, thấy lưng chừng núi phía đông thấy từng cuộn, từng cuộn khói xanh bốc lên, phải đến hơn chục chỗ không hiểu việc gì. Chung Linh nói:
- Anh không muốn đánh nhau giết người, thế nhưng người ta muốn giết anh đánh anh, không lẽ anh cũng vươn cổ cho người ta chém à? Những đám khói đó là Thần Nông Bang đang nấu thuốc độc, để đối phó với Vô Lượng Kiếm. Theo tôi thì mình cứ lẳng lặng đi ra để khỏi liên lụy.
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt làm như không có gì xảy ra nói:
- Những bọn giang hồ này đánh nhau giết nhau càng lúc càng không đâu vào đâu. Người của Vô Lượng Kiếm giết người của Thần Nông Bang, thì gã Dung Tử Củ kia cũng đã bị Thần Nông Bang giết rồi, lại giết cả Cung Quang Kiệt, nếu như một mạng đổi một mạng thì đã quá số rồi. Còn như vẫn còn chưa bằng lòng thì phải trình lên quan cho rõ ràng, để cho cha mẹ dân xét xử cho minh bạch, chứ có lý đâu động một tí là giết người phóng hỏa? Chẳng lẽ nước Đại Lý này không còn vương pháp nữa hay sao?
Chung Linh tặc lưỡi mấy tiếng, mặt lộ vẻ diễu cợt nói:
- Nghe anh nói tưởng anh là hoàng thân quốc thích, quan lớn quan bé gì đây. Dân ngu khu đen như chúng tôi đâu cần biết đến.
Nàng ngửng đầu nhìn bầu trời, chỉ về phía tây nam nói nhỏ:
- Đợi bao giờ mây đen kéo đến che mặt trăng thì mình cứ lẳng lặng theo phía đó mà ra đi, người của Thần Nông Bang chưa chắc biết được đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Không được, tôi muốn đến gặp bang chủ của họ, giải thích cho họ biết, không để cho họ giết người bừa bãi như thế được.
Ánh mắt Chung Linh lộ vẻ thương hại nói:
- Đoàn đại ca, anh thật chẳng biết trời cao đất dày là gì. Bang Thần Nông hiểm ác độc địa, chuyên về sử dụng chất độc, mới giết hai người xong, chính mắt anh thấy rồi. Mình đừng nên sinh sự với họ, mau chạy đi là hơn.
Đoàn Dự đáp:
- Không được, việc này tôi không thể không nhúng tay vào, nếu như cô sợ thì ngồi đây chờ tôi vậy.
Chàng nói rồi liền đứng lên nhắm phía đông đi tới. Chung Linh đợi chàng đi mấy trượng bỗng nhiên nhỏm dậy đuổi theo, tay phải đưa ra chộp lên đầu vai. Đoàn Dự nghe tiếng chân người ở sau lưng, đang định quay đầu lại thì vai đã bị chộp trúng rồi. Chung Linh lại đưa chân khoèo một cái, Đoàn Dự đứng không vững, ngãn sấp mặt xuống, mũi va phải một cục đá tóe máu ra. Chàng bừng bừng giận dữ đứng lên, quát lớn:
- Sao cô ác thế? Làm tôi ngã đau đến thế này?
Chung Linh nói:
- Tôi muốn thử thêm lần nữa để xem anh giả vờ hay không biết võ thực để còn tính chuyện giúp anh.
Đoàn Dự hậm hực hỏi lại:
- Giúp cái gì?
Chàng đưa lưng bàn tay quệt ngang mặt thấy tay đầy máu, máu tươi vẫn tiếp tục chảy ròng ròng, ướt đẫm cả một khoảng trước ngực. Chàng bị thương rất nhẹ nhưng máu chảy nhiều như thế, mồm liên tiếp suýt soa. Chung Linh cũng hơi lo, vội vàng lấy khăn tay ra lau máu cho chàng. Đoàn Dự trong lòng bực bội, giơ tay đẩy ra nói:
- Không cần cô lấy lòng, tôi không thèm nhìn cô nữa.
Chàng không biết võ công, chẳng thành chiêu số gì, tiện thể đẩy ra, bàn tay ấn ngay lên ngực cô gái. Chung Linh không kịp suy nghĩ, tay liền vòng lại gạt ra, thuận tay tung một cái, Đoàn Dự lập tức ngã lăn cù, bình một tiếng, ót đập vào đá ngất đi.
Chung Linh thấy chàng nằm ngay đơ trên mặt đất, quát lên:
- Mau đứng dậy tôi muốn nói chuyện với anh.
Thế nhưng chàng trai vẫn không động đậy, nàng hơi hoảng vội tiến tới cúi mình xem xét, thấy Đoàn Dự hai mắt trợn ngược, hơi thở yếu ớt, quả thực đã bất tỉnh nhân sự nên vội đưa tay ấn vào nhân trung rồi dùng sức xoa bóp trên ngực.
Qua một hồi lâu, Đoàn Dự mới dần dần tỉnh lại, thấy lưng mình dựa vào một thân hình mềm mại, mũi ngửi thấy mùi thơm ngát nên từ từ mở mắt ra, thấy đôi mắt trong trẻo của Chung Linh đang lo lắng nhìn mình. Chung Linh thấy chàng đã tỉnh lại, thở phào một cái nói:
- May quá anh không chết.
Đoàn Dự thấy mình nằm dựa vào trong lòng nàng, đầu gối lên hông cô gái, trong lòng không khỏi đê mê, bỗng thấy vết thương sau đầu đau nhói từng chặp, nhịn không nổi rên lên một tiếng “Ôi chao”.
Chung Linh nhảy nhỏm lên vội hỏi:
- Sao thế?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi ... tôi đau quá mất thôi.
Chung Linh đáp:
- Anh không chết sao còn kêu réo om sòm là sao?
Đoàn Dự đáp:
- Nếu như tôi chết rồi thì còn kêu réo làm sao được?
Chung Linh cười khúc khích, đỡ đầu Đoàn Dự lên thấy sau ót sưng u lên một cục phải bằng quả trứng gà, tuy không chảy máu nhưng xem ra đau đớn lắm bèn hờn dỗi nói:
- Ai bảo anh ra tay khinh bạc hạ lưu, nếu như người khác thì tôi đã giết ngay tại chỗ, chỉ đẩy anh ngã là may cho anh lắm rồi.
Đoàn Dự ngồi dậy lạ lùng hỏi:
- Tôi ... tôi khinh bạc hạ lưu ư? Làm gì có chuyện đó? Thật là oan uổng hết sức.
Chuyện trai gái Chung Linh tưởng như hiểu mà thực chưa biết gì, nghe chàng ta nói, mặt hơi đỏ lên nói:
- Tôi không nói chuyện với anh nữa nhưng đúng là anh chẳng ra gì, ai bảo anh giơ tay đẩy vào chỗ đó ... chỗ đó ...
Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ, thấy mình quả là không phải, định nói vài câu biện bạch nhưng không tiện bèn nói:
- Tôi ... tôi quả thực không cố ý.
Nói xong chàng gắng gượng đứng lên. Chung Linh cũng đứng theo nói:
- Anh không cố ý tôi mới tha cho anh. Cũng may mà anh tỉnh lại kẻo tôi bồn chồn hết sức.
Đoàn Dự nói:
- Khi ở Kiếm Hồ Cung nếu như không có cô ra tay cứu, chắc tôi sẽ còn ăn thêm vài cái tát nữa. Bây giờ cô làm tôi ngã hai lần, hai đứa mình coi như bù qua bù lại. Đúng là cái số tôi như thế, thật chạy trời không khỏi nắng.
Chung Linh nói:
- Anh nói thế, có phải anh còn giận tôi phải không?
Đoàn Dự đáp:
- Thế chẳng lẽ cô đánh tôi, tôi lại sung sướng nói là: “Cô nương đánh hay lắm, đánh thật tuyệt” hay sao? Hay cô còn muốn tôi phải cảm ơn mới phải?
Chung Linh cầm tay chàng dịu dàng nói:
- Từ nay trở đi, tôi sẽ không đánh anh nữa. Lần này anh đừng giận nhé.
Đoàn Dự đáp:
- Trừ phi cô để tôi đánh lại cô hai cái.
Chung Linh không muốn chút nào nhưng thấy chàng đang hầm hầm toan bỏ đi bèn ngẩng đầu lên nói:
- Được rồi, tôi để cho anh đánh tôi hai cái. Thế nhưng .. thế nhưng anh đừng đánh mạnh nghe chưa?
Đoàn Dự đáp:
- Nếu đánh không mạnh thì đâu phải là trả thù? Nhất định tôi phải đánh thật mạnh. Còn như cô không chịu cho tôi đánh thì thôi.
Chung Linh thở dài, nhắm mắt lại, nói nhỏ:
- Thôi được. Anh đánh rồi không được giận nữa nghe.
Qua một hồi không thấy tay Đoàn Dự đánh xuống, nàng mở mắt ra, thấy chàng đang mủm mỉm cười nhìn mình, Chung Linh ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh không đánh?
Đoàn Dự giơ ngón tay út ra búng nhè nhẹ vào hai bên má nàng, cười nói:
- Đánh hai cái mạnh thế này, có đau lắm không?
Chung Linh mừng rỡ, cười nói:
- Tôi biết anh tử tế lắm mà!
Đoàn Dự thấy nàng đứng ngay trước mặt mình, cách nhau chưa đầy một thước, hơi thở tỏa ra thơm như lan, càng nhìn càng thấy nàng xinh đẹp không muốn rời ra, một lúc lâu sau mới nói:
- Được rồi, mối đại cừu của tôi đã báo, thôi để tôi đi kiếm lão bang chủ Tư Không Huyền.
Chung Linh vội nói:
- Chàng ngốc ơi, không được đâu. Chuyện trên giang hồ anh không biết chút nào, nếu phạm phải đại kỵ của võ lâm thì tôi không cứu nổi.
Đoàn Dự cười lắc đầu:
- Cô không phải lo cho tôi, tôi đi một lúc sẽ quay về, cô ở đây chờ nhé.
Nói xong chàng hùng dũng đi về phía những đám khói xanh đang cuồn cuộn tỏa lên. Chung Linh gọi giật lại nhưng Đoàn Dự không trả lời. Cô gái đứng ngơ ngẩn một hồi rồi nói:
- Được rồi, anh nói có hạt dưa cùng cắn, đao kiếm cùng chịu mà.
Nàng đuổi theo cùng sóng vai đi với Đoàn Dự nhưng không khuyên nhủ gì thêm nữa.
Hai người đi chỉ chừng uống cạn một tuần trà đã thấy hai gã mặc áo vàng bước ra ngăn lại, người bên trái có vẻ lớn tuổi quát lớn:
- Ai đó? Đến đây làm gì?
Đoàn Dự thấy hai người đó vai mang bọc thuốc, tay cầm đoản đao bản rộng liền đáp:
- Tại hạ Đoàn Dự, có chuyện xin cầu kiến Tư Không bang chủ của quí bang.
Lão già đáp:
- Có việc gì?
Đoàn Dự đáp:
- Để gặp quí bang chủ rồi sẽ nói rõ sau.
Lão già hỏi lại:
- Các hạ thuộc môn phái nào? Tôn sư tên họ là chi?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi không có môn phái. Thụ nghiệp sư phụ của tôi họ Mạnh, tên trên Thuật dưới Thánh, tự Kế Nho. Sư phụ tôi chuyên nghiên cứu về Dịch Lý, Thuyết Quái, Hệ Từ cũng khá thâm hiểu.
Chàng nói đến sư phụ chính là nói về ông thầy dạy chàng đọc sách, làm văn. Thế nhưng lão già kia nghe thấy nào là “dịch lý”, “thuyết quái, hệ từ” lại tưởng là những môn công phu đặc biệt, nhất là Đoàn Dự tay cầm quạt phe phẩy, trông cũng có vẻ như thân mang tuyệt nghệ đã luyện đến mức không lộ ra ngoài nên không dám coi thường, mặc dầu chưa nghĩ ra trong võ lâm ai là Mạnh Thuật Thánh nhưng đối phương dám tự khoe là “cũng khá thâm hiểu” thì chắc không phải thuận miệng huênh hoang, bèn nói:
- Nếu quả như thế, xin Đoàn thiếu hiệp chờ một chút để tôi vào thông báo.
Chung Linh thấy y lật đật đi vào, qua khỏi một sườn núi liền hỏi:
- Anh ba hoa với y dị lý, nan lý là cái công phu gì thế? Nếu Tư Không Huyền đem ra tra hỏi e rằng không dễ gì đánh lừa được y đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Chu Dịch tôi đọc thuộc lắm rồi, những chỗ vi ngôn đại nghĩa, nếu Tư Không Huyền đem ra tra vấn chưa chắc đã qua mặt được tôi.
Chung Linh ngơ ngác không biết sao đáp lại. Bỗng thấy lão già kia mặt hầm hầm quay lại nói:
- Ngươi nói lăng nói nhăng gì thế? Bang chủ gọi ngươi vào.
Cứ trông điệu bộ của y biết ngay là y vừa bị Tư Không Huyền trách mắng. Đoàn Dự gật gù, cùng Chung Linh đi theo gã. Ba người đi một lát qua khỏi một khoảng đất trũng, thấy trong một đống loạn thạch lớn ngồi đến hai chục người. Đoàn Dự tới gần hơn, thấy ngay chính giữa có một ông già bé nhỏ ngồi trên một tảng đá cao hơn hết những người khác, dưới cằm để một bộ râu lưa thưa như râu dê, mặt mày khinh khỉnh, hẳn là bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền. Chàng bèn chắp tay vái chào nói:
- Được Tư Không bang chủ cho mời, tại hạ Đoàn Dự xin chào.
Tư Không Huyền gật đầu nhưng không đứng lên, hỏi:
- Các hạ đến đây có chuyện gì?
Đoàn Dự đáp:
- Nghe nói quí bang cùng Vô Lượng Kiếm kết oán thù, tại hạ chính mắt trông thấy hai người trong Vô Lượng Kiếm thảm tử, trong lòng thật là bất nhẫn nên đến đây khuyên giải. Oan gia nên cởi không nên buộc, huống chi đâm chém lẫn nhau là phạm vào phép nước, nếu quan nha biết được thì càng thêm rắc rối. Mong Tư Không bang chủ kịp dừng ngựa trước vực sâu, mau quay trở về đừng tìm cách trả thù Vô Lượng Kiếm nữa.
Tư Không Huyền lạnh lùng nghe chàng phân giải chẳng nói chẳng rằng, chỉ liếc mắt một cái không biết có ý gì. Đoàn Dự lại tiếp:
- Những lời của tại hạ nói đây là lời vàng ngọc, mong bang chủ suy nghĩ lại.
Tư Không Huyền lạ lùng nhìn Đoàn Dự, đột nhiên ngửa cổ cười sằng sặc nói:
- Tiểu tử ngươi là ai sao lại đám đến đây kiếm lão phu để đùa cợt? Ai sai ngươi đến vậy?
Đoàn Dự đáp:
- Có ai bảo tôi đến đâu? Tự tôi đến nói với ông đó.
Tư Không Huyền hừ một tiếng nói:
- Lão phu hành tẩu giang hồ hơn bốn mươi năm chưa từng gặp một thằng nhãi nào lớn mật làm càn đến thế. A Thắng, bắt hai đứa trai gái này lại.
Một đại hán ở bên cạnh đáp lời bước ra, vươn tay chộp lấy cánh tay Đoàn Dự. Chung Linh kêu lên:
- Khoan đã! Tư Không bang chủ, vị Đoàn tướng công đây lấy lời hay lẽ phải khuyên ông, ông không nghe thì thôi, sao lại giở trò ngang ngược?
Nàng quay sang nói với Đoàn Dự:
- Đoàn đại ca, Thần Nông Bang không nghe lời đại ca, thôi mình đừng nhúng tay vào chuyện người khác nữa, đi thôi.
A Thắng vốn đã vươn tay bẻ quặt hai bàn tay Đoàn Dự ra sau lưng giữ thật chặt, mắt nhìn Tư Không Huyền đợi y ra lệnh. Tư Không Huyền lạnh lùng nói:
- Thần Nông Bang ghét nhất là kẻ hay xía vào chuyện người khác, hai đứa nhãi này đến đây lảm nhảm, ắt hẳn bên trong có chuyện gì khác lạ. A Hồng, trói con bé này lại cho ta.
Một đại hán khác lại đáp lời đưa tay ra bắt Chung Linh. Chung Linh lắc mình một cái lướt ra ngoài ba bước nói:
- Tư Không bang chủ, không phải là tôi sợ ông đâu. Có điều cha mẹ tôi không muốn tôi ra ngoài gây chuyên thị phi, ông mau ra lệnh thả Đoàn đại ca ra, đừng ép tôi phải ra tay càng thêm bất tiện.
Tư Không Huyền cười sằng sặc nói:
- Con ranh này khoác lác quá lắm. A Hồng, sao chưa động thủ?
A Hồng lại đáp lời “Vâng” rồi giơ tay ra chộp Chung Linh. Chung Linh rụt tay về, chưởng trái vung ra, cạnh bàn tay thành hình đao chém ngay vào cổ A Hồng. A Hồng hụp xuống tránh, tay phải của Chung Linh liền đấm móc từ dưới lên, nghe bịch một cái, trúng ngay cằm A Hồng khiến y ngã ngửa. Tư Không Huyền lạnh lùng nói:
- Con nhãi này cũng có được một đôi miếng, nhưng thế mà cũng dám đến Thần Nông Bang để chơi trèo thì chưa đủ đâu.
Y đưa mắt cho một lão già thân hình cao gầy ở bên cạnh, tay phải phất một cái. Lão già đó liền đứng dậy, tiến tới hai bước. Y cao hơn Chung Linh phải đến hai thước, từ cao đánh xuống, hai tay cùng vung ra như mười chiếc vuốt chim chộp vào đầu vai Chung Linh.
Chung Linh thấy thế đánh của y hùng mạnh, vội tránh sang một bên, năm ngón tay trái của lão già lướt qua má nàng chỉ cách chừng năm tấc. Chung Linh thấy kình phong ghê gớm, trong lòng sợ hãi kêu lên:
- Tư Không bang chủ, mau mau bảo y ngừng tay, nếu không tôi không nể nang nữa đâu đấy nhé. Mai này cha tôi mắng tôi thì ông cũng chẳng hay ho gì đâu.
Trong khi nàng nói, lão già kia đã ra tay ba lần, lần nào Chung Linh cũng tránh được. Tư Không Huyền gay gắt nói:
- Giữ nó lại.
Lão già cao tay trái đánh xéo tới, tay phải vòng thành một vòng tròn nhỏ, năm ngón tay lật lại đã chộp được cánh tay Chung Linh. Chung Linh “A” lên một tiếng hoảng hốt, đau đến tái mặt, tay trái rung một cái, miệng huýt hai tiếng, chỉ thấy một làn bạch quang thấp thoáng, lão già đã hự một tiếng buông tay cô ta ra, ngồi bệt xuống đất. Thiểm điện điêu cắn được y một cái rồi, lập tức nhảy ngay trở về tay Chung Linh.
Một hán tử trung niên ở bên cạnh Tư Không Huyền liền tung mình nhảy ra, giơ tay đỡ lão già cao lên, chỉ thấy y toàn thân run rẩy, trên lưng bàn tay có một vầng đen. Chung Linh lại huýt hai tiếng nữa, thiểm điện điêu lại vọt ra xông tới trước gã A Thắng đang giữ Đoàn Dự. A Thắng giơ tay định gạt ra, thiểm điện điêu thuận mồm cắn ngay một miếng, trúng ngay cạnh bàn tay y. A Thắng võ công không bằng ông già cao nên lại càng chịu không nổi, người co rúm lại kêu toáng lên. Chung Linh nắm tay Đoàn Dự, quay mình định chạy nói nhỏ:
- Họa đến nơi rồi, chạy cho nhanh.
Những người ở chung quanh Tư Không Huyền đều là hảo thủ trong Thần Nông Bang, ai nấy cả đời hái thuốc luyện dược, có thể nói loại độc vật gì cũng từng biết qua nhưng con chồn này nhanh như ánh chớp, lại độc địa như thế nên không ai biết là con gì. Tư Không Huyền kêu lên:
- Mau bắt con bé đó đừng để cho nó chạy thoát.
Bốn người đáp lời xông ra, chia ra hai bên vòng lại. Chung Linh luôn mồm huýt còi ra lệnh, con thiểm điện điêu nhảy từ người này sang người khác, chỉ chốc lát đã cắn cả bốn người tất cả nằm lăn lộn dưới đất, người nào cũng co quắp giãy giụa. Bang chúng của Thần Nông Bang tuy thấy con chồn đó đáng sợ thật nhưng trước mặt bang chủ nào ai dám rụt đầu rụt cổ nên lại có thêm bẩy tám người la hét xông ra. Chung Linh kêu lên:
- Muốn chết thì ra đây.
Bảy tám người đó tay cầm binh khí, kẻ thì cầm mai thuổng đào thuốc, kẻ lại cầm đoản đao bản rộng, cốt làm sao để khỏi bị con thiểm điện điêu tập kích. Thế nhưng con chồn kia nhanh chẳng khác gì ám khí, chân chỉ điểm vào sống đao một cái đã bật ngay vào cắn trúng địch nhân, chỉ chớp mắt những người đó đều ngã nhào.
Tư Không Huyền cởi trường bào, lấy trong túi ra một bình thuốc nước, đổ lên lòng bàn tay, xoa khắp từ cánh tay đổ xuống, chỉ nhún mấy cái đã vọt ra chặn ngay trước mặt Chung Linh và Đoàn Dự, trầm giọng quát:
- Đứng lại.
Con thiểm điện điêu từ bàn tay Chung Linh liền nhảy tới, vồ vào mặt Tư Không Huyền. Tư Không Huyền trong bụng cũng hơi chột dạ, giơ tay lên đỡ không biết thứ thuốc kỵ rắn bí chế của mình có trị nổi con chồn độc chưa từng thấy này hay không, nếu như vô hiệu thì không những tính mạng sẽ lâm nguy mà cả bang Thần Nông cũng bị hủy. Con chồn lao vào đớp bàn tay đột nhiên giữa lưng chừng quay ngoắt lại, chân sau điểm vào ngón tay y, mượn sức nhảy trở về. Cơ thể con thiểm điện điêu tích đầy nọc rắn nhưng thứ thuốc bí chế của Tư Không Huyền cũng cực kỳ linh nghiệm, chính là để khắc chế rắn độc, con chồn ngửi thấy mùi thuốc xông ra mạnh quá, chịu không nổi. Tư Không Huyền mừng lắm, tay trái liền đánh ra, chưởng phong thật là mạnh mẽ, Chung Linh tránh không kịp, chân không vững suýt nữa thì ngã. Dư lực của chưởng đó ập tới, nghe bộp một cái đánh trúng phải Đoàn Dự khiến chàng ngã bổ chửng.
Chung Linh kinh hãi, liên tiếp huýt còi thúc con thiểm điện điêu tấn công địch thủ. Con chồn cố xông vào mấy lần nhưng chất xà dược bôi trên tay Tư Không Huyền là khắc tinh của nó, muốn cắn vào đầu vào đùi của y thì Tư Không Huyền song chưởng múa tít đẩy lùi con vật không sao đến gần được.
Tư Không Huyền thấy con chồn nhảy nhót nhanh như chớp, trong bụng sợ hãi, liên tiếp hò hét ra lệnh, lập tức có mấy chục tên bang chúng từ bốn phương tám hướng ào ra, trong tay người nào cũng cầm một nắm cỏ thuốc, đốt lên khói bay mù mịt. Đoàn Dự từ dưới đất cố gượng đứng lên, bỗng thấy đầu váng lại ngã lăn ra trong cơn mơ mơ màng màng thấy Chung Linh cũng loạng choạng, rồi gục xuống. Hai tên bang chúng tiến lên toan bắt giữ Chung Linh, con chồn hộ vệ cho chủ liền nhảy tới cắn cho mỗi đứa một miếng. Cả bọn kinh hãi lùi ra, vây quanh bốn phía, miệng quát tháo om sòm nhưng không ai dám xông vào hạ thủ.
Tư Không Huyền kêu lên:
- Phương đông đốt hùng hoàng, phương nam đốt sạ hương, còn phương tây phương bắc mọi người dãn ra.
Các bang chúng tuân lệnh lấy hùng hoàng, sạ hương ra đốt. Bang Thần Nông dược vật gì cũng đầy đủ, loại nào cũng đều là tinh phẩm hạng nhất. Hai món sạ hương hùng hoàng kia thuần chất nên rất mãnh liệt, vừa mới đốt lên, lập tức bốc khói cay nồng, theo gió đông nam thổi về phía Chung Linh. Ngờ đâu con thiểm điện điêu không sợ khói thuốc, lại nhanh nhẹn khôn ngoan, trong nháy mắt đã cắn thêm năm tên bang chúng.
Tư Không Huyền nhíu mày lập tức nghĩ ra một kế kêu lên:
- Lấy xẻng xúc đất đổ lên chôn sống cả con bé kia lẫn con chồn.
Các bang chúng trong tay có sẵn mai xẻng dùng để đào thuốc, lập tức đào đất bên sườn núi, hất lên mình Chung Linh. Đoàn Dự nghĩ tai họa do mình gây ra, Chung Linh nay bị chôn sống không lẽ mình sống một mình, cố hết sức chồm lên, che người cô gái ôm chặt lấy nàng kêu lên:
- Thôi thì mình cùng chết cả.
Chàng thấy đất đá đổ xuống như mưa trên đầu mình. Tư Không Huyền nghe thấy chàng nói : “Thôi thì mình cùng chết cả” trong bụng chợt động, nhìn quanh thấy đến hai chục bang chúng nằm ngổn ngang, trong đó có đến bảy tám người là nhân vật trọng yếu, gồm cả hai tên sư đệ của mình, nếu như giết chết cô gái này, tuy hả giận thực nhưng độc tính của con chồn kia chẳng phải tầm thường, không có thuốc giải đặc biệt của cô ta, e rằng khó lòng mà cứu sống được liền nói:
- Để cho hai đứa nó sống, chừa cái đầu ra.
Chỉ trong giây lát đất đá đã ngập tới cổ, Chung Linh thấy sức ép đè xuống thật nặng nề, Đoàn Dự ôm chặt lấy mình người của hai đứa đã bị chìm trong đất tuy đầu còn thò ra nhưng không sao nhúc nhích được.
Tư Không Huyền khinh khỉnh hỏi:
- Con nhãi kia, mày muốn sống hay muốn chết?
Chung Linh đáp:
- Dĩ nhiên tôi muốn sống. Nếu ông giết tôi và Đoàn đại ca, bao nhiêu người của ông cũng không sống được đâu.
Tư Không Huyền nói:
- Được, vậy thì ngươi đem thuốc giải chất độc con chồn ra cho ta, ta sẽ tha chết cho ngươi.
Chung Linh lắc đầu:
- Tha mạng một mình tôi chưa đủ, phải tha mạng cả hai người mới được.
Tư Không Huyền nói:
- Được rồi, tha mạng cả hai đứa bay cũng được, thế thuốc giải đâu?
Chung Linh đáp:
- Trên người tôi không có thuốc giải. Chất độc con thiểm điện điêu này chỉ cha tôi mới trị được. Tôi đã nói trước với ông rồi, đừng có ép tôi phải ra tay, nếu không cha tôi thể nào cũng mắng tôi, ông cũng không tốt lành gì?
Tư Không Huyền sẵng giọng:
- Con nhãi này bây giờ còn nói lăng nói nhăng, lão gia mà cáu lên thì để cho mày chết đói.
Chung Linh đáp:
- Tôi từ trước đến giờ nói thật với ông, tại ông không tin. Ôi, nói gì thì nói, chuyện này thật là khó xử, e rằng không dấu nổi cha tôi đâu, không biết làm sao bây giờ?
Tư Không Huyền nói:
- Cha ngươi tên là gì?
Chung Linh đáp:
- Ông già đầu mà không thông tình lý gì cả, tên cha tôi làm sao tôi có thể nói ra cho ông biết được?
Tư Không Huyền hành tẩu giang hồ đã mấy chục năm, trong võ lâm cũng có tên tuổi, hôm nay gặp Chung Linh và Đoàn Dự hai đứa trẻ con chưa ráo máu đầu mà đành bó tay. Y nghiến răng nói:
- Đem lửa lại đây để ta đốt tóc con nhãi con này xem nó có nói không nào?
Một tên bang chúng liền đem một bó đuốc tới, Tư Không Huyền cầm lăm lăm tiến lên hai bước. Dưới ánh lửa bập bùng, Chung Linh thấy mặt y đầy vẻ hung ác, trong lòng sợ hãi kêu lên:
- Thôi, thôi, ông khỏi phải đốt tóc tôi, cháy tóc đau lắm. Nếu ông không tin, thử đốt râu ông thì biết.
Tư Không Huyền bật cười:
- Lẽ dĩ nhiên ta biết là đau lắm, việc gì phải đốt râu mới biết.
Y giơ cao bó đuốc nhứ nhứ vào mặt Chung Linh. Chung Linh sợ đến kêu lên oai oái.
Đoàn Dự ôm chặt lấy nàng la lớn:
- Lão râu dê kia, việc này cũng tại ta mà ra, ngươi đốt tóc ta cho xong.
Chung Linh nói:
- Không được, đau lắm đó.
Tư Không Huyền nói:
- Nếu như ngươi sợ đau thì mau mau lấy thuốc giải ra để cứu chữa cho các anh em ta.
Chung Linh đáp:
- Sao ông ngốc thế. Tôi đã nói với ông rồi, chỉ có cha tôi mới trị được chất độc của con thiểm điện điêu thôi, đến mẹ tôi cũng còn không biết. Con thiểm điện điêu này trên đời ít thấy, là thần vật trời sinh, chất độc trên răng nó cực kỳ quái dị, ông tưởng dễ trị lắm hay sao?
Tư Không Huyền nghe thấy những người chung quanh bị con chồn cắn phải không ngớt rên la cực kỳ khác lạ, biết rằng chất độc con chồn này thật khó chữa, những người này đều là anh hùng hảo hán, dẫu có bị chặt chân gãy tay cũng không kêu than một lời. Những người đó đã được đồng bọn cho uống thuốc trị nọc rắn nhưng nghe rên la thì biết ngay rằng thuốc của bản bang không công hiệu. Bọn họ bèn lấy thuốc trị rết cắn, trị bò cạp, trị nhện độc các loại thuốc, đưa cho những bang chúng cấp thấp uống thử, ngờ đâu bọn chúng chỉ lại càng kêu la thêm thảm thiết hơn nữa. Tư Không Huyền trừng trừng nhìn Chung Linh, quát lớn:
- Cha ngươi tên gì? Mau nói ta nghe.
Chung Linh đáp:
- Có thực ông muốn tôi nói chăng? Ông không sợ hay sao?
Tư Không Huyền giận lắm, giơ bó đuốc đang toan đốt tóc Chung Linh, bỗng sau cổ đau nhói đã bị con gì đó cắn một miếng rồi. Tư Không Huyền sợ quá, vội hít một hơi để bảo vệ tâm đầu, ném bó đuốc xuống, giơ tay ra chộp đằng sau ót, bỗng thấy lưng bàn tay cũng nhói lên. Thì ra con thiểm điện điêu bị vùi dưới đất, len lén bò ra, thừa lúc Tư Không Huyền không phòng bị liền nhảy lên cắn trộm. Tư Không Huyền liên tiếp bị cắn hai lần, sợ đến mất vía, lập tức ngồi xếp bằng, vận công trừ độc. Các bang chúng vội hất đất cát lên vùi con thiểm điện điêu, con chồn lại nhảy lên cắn thêm hai người nữa, trong bóng đêm thấy một bóng trắng thấp thoáng đã chạy vào trong đám cỏ không còn thấy đâu nữa.
Thủ hạ trong bang Thần Nông vội vàng lấy thuốc trị rắn cắn ra, trong uống ngoài thoa phục thị bang chủ, lại nhét một củ dã sơn sâm vào miệng y. Tư Không Huyền lập tức vận công trị hai chỗ bị cắn nhưng chỉ chưa đầy thời gian uống một chén trà đã chịu không nổi, nghiến răng tay trái rút trong lưng ra một thanh đoản đao, nghe soẹt một tiếng chém xuống đứt ngay bàn tay phải. Thật đúng là “rắn độc cắn phải tay, tráng sĩ đành chịu cụt”, có điều vết thương sau cổ thì không thể nào chặt đầu vứt bỏ được. Các bang chúng trong lòng khiếp hãi, vội vàng lấy kim sang thuốc men ra băng bó cho bang chủ nhưng chỗ cánh tay đứt máu chảy như suối, mấy lần thuốc đắp lên đều trôi đi cả. Có người xé áo, buộc chặt lấy khuỷu tay, lúc ấy máu mới ngừng chảy.
Chung Linh thấy cảnh tượng thảm khốc đó, sợ đến mặt trắng bệch, không dám nói thêm câu nào. Tư Không Huyền trầm giọng hỏi:
- Bị con quỉ độc điêu kia cắn phải thì còn sống được bao lâu?
Chung Linh ấp úng đáp:
- Cha tôi nói là chỉ sống được bảy ngày. Thế nhưng ... thế nhưng Tư Không bang chủ nội lực thâm hậu, võ công lại hơn người, hẳn rằng ... sống lâu thêm được vài ngày nữa.
Tư Không Huyền hừ một tiếng nói:
- Lôi tên tiểu tử này ra.
Các bang chúng tuân lệnh, lôi Đoàn Dự từ trong đám đất đá ra. Chung Linh vội vàng kêu lên:
- Thôi thôi, việc này không liên can gì đến anh ta, đừng hại y.
Nàng vùng vẫy chân tay toan thừa cơ chui ra nhưng các bang chúng lại đem đất đá chèn vào chỗ Đoàn Dự khi nãy, Chung Linh liền không sao cử động được nữa, khóc òa lên.
Đoàn Dự trong bụng hãi lắm nhưng cố gắng trấn tĩnh, mỉm cười nói:
- Chung cô nương, đại trượng phu coi cái chết có khác gì trở về, trước mặt bọn ác nhân này không nên tỏ ra yếu đuối.
Chung Linh vừa khóc vừa nói:
- Tôi không phải là đại trượng phu! Tôi không coi cái chết là trở về, tôi cứ tỏ ra yếu đuối thì đã sao.
Tư Không Huyền trầm giọng nói:
- Cho tên tiểu tử này uống đoạn trường tán. Cho nó uống phân lượng bảy ngày.
Một tên bang chúng lấy một bình thuốc đổ ra nửa bình thuốc bột màu đỏ, bắt Đoàn Dự phải nuốt vào bụng. Chung Linh kêu lên:
- Thuốc độc đó không uống được đâu.
Đoàn Dự nghe tới cái tên đoạn trường tán biết ngay đó là một loại thuốc độc cực mạnh nhưng nghĩ mình đã rơi vào tay chúng rồi còn cách nào cự tuyệt không uống cho được? Chàng hiên ngang uống ngay, chép chép miệng cười nói:
- Thuốc ngọt lừ đấy mà. Tư Không bang chủ, ông cũng uống nửa bình chăng?
Tư Không Huyền giận dữ hừ một tiếng. Chung Linh đang khóc cũng cười rộ lên nhưng lại nín ngay khóc tiếp. Tư Không Huyền nói:
- Đoạn trường tán này bảy ngày sau chất độc sẽ phát tác, ruột đứt ra từng khúc mà chết. Ngươi đi lấy thuốc giải độc con chồn, nếu bảy ngày về kịp thì ta cho thuốc giải và thả tiểu cô nương này ra.
Chung Linh nói:
- Chỉ uống thuốc giải không chưa đủ, phải có cha ta vận nội công độc đáo của ông ta thì mới giải được chất độc con chồn.
Tư Không Huyền nói:
- Thế thì bảo y mời luôn cha ngươi tới đây cứu ngươi ra.
Chung Linh đáp:
- Sao ngươi nói dễ nghe thế, cha ta đời nào chịu ra khỏi núi? Ông ấy nhất định không ra khỏi sơn cốc một bước.
Tư Không Huyền trầm ngâm không nói nữa. Đoàn Dự nói:
- Nếu đã thế, tất cả chúng ta cùng đến phủ của Chung cô nương nhờ tôn đại nhân chữa bệnh giải độc có phải nhanh hơn không?
Chung Linh nói:
- Không được đâu, không được đâu. Cha ta đã nói trước rồi, dù cho là ai chăng nữa chỉ bước vào sơn cốc nhà ta một bước là sẽ phải chết.
Tư Không Huyền nghĩ thầm: “Chuyện của Vô Lượng Kiếm chưa xong ta làm sao đi khỏi nơi đây cho được? Nếu như làm hỏng việc, Thiên Sơn Đồng Mỗ đâu có tha, e rằng chết còn thảm khốc hơn nhiều”. Y thấy vết cắn sau cổ càng lúc càng ngứa, nhịn không nổi phải rên lên mấy tiếng.
Chung Linh nói:
- Tư Không bang chủ, xin lỗi ông nhé.
Tư Không Huyền bực tức đáp:
- Xin lỗi cái con khỉ mốc.
Đoàn Dự nói:
- Tư Không bang chủ, sao ông lại nói năng với Chung cô nương thô bỉ như thế, mất hết phong độ của người quân tử.
Tư Không Huyền quát lớn:
- Quân tử cái con bà nhà ngươi.
Y nghĩ thầm: “Trên người ta đã cấy Sinh Tử Phù rồi, khi phát tác ra khổ sở biết chừng nào, chi bằng chết ngay lúc này cho xong” bèn dịu giọng nói với Chung Linh:
- Ta còn nhiều việc phải làm, ngươi không đi mời cha ngươi được, thôi thì cả bọn cùng chết vậy.
Giọng của y nghe thật thê thảm, quả là “mình lại thương mình xót xa”. Chung Linh suy nghĩ rồi nói:
- Ông thả tôi ra để tôi viết thư cho cha tôi, nói ông ấy tới đây cứu ông. Ông sai đứa nào không sợ chết đem thư đi.
Tư Không Huyền đáp:
- Ta bắt tên tiểu tử họ Đoàn này đưa thư, việc gì phải sai ai khác?
Chung Linh nói:
- Ông quả thật hay quên quá. Bất luận ai bước chân vào sơn cốc nhà tôi một bước thì thể nào cũng chết. Tôi đã nói với ông rồi, phải không nào? Tôi không muốn Đoàn đại ca phải chết, ông hiểu chưa?
Tư Không Huyền lạnh lùng nói:
- Y không thể chết, không lẽ thủ hạ của ta lại đáng chết hay sao? Không đi thì thôi, tất cả chết hết. Để xem ngươi chết trước hay là ta chết trước.
Chung Linh lại rấm rứt khóc tiếp, kêu lên:
- Lão già kia thật không biết xấu, chỉ giỏi tài ăn hiếp trẻ con. Rồi đây trên giang hồ đồn ầm lên ai ai cũng biết bang chủ Thần Nông Bang không phải là bậc anh hùng hảo hán, thanh danh của ông đổ xuống sông xuống biển.
Tư Không Huyền điềm nhiên vận công chống lại chất độc, không thèm để ý đến cô ta nữa. Đoàn Dự nói:
- Chỉ vì tôi không ra gì. Chung cô nương, lệnh tôn thấy tôi đến báo tin gọi ông ta đến cứu cô, chắc không đến nỗi giết hại tôi đâu.
Chung Linh đột nhiên đổi ra vui mừng nói:
- Nghĩ ra rồi! Để tôi chỉ cho anh một cách, anh đừng nói với cha tôi là tôi đang ở nơi đâu, nếu giết anh ông ta sẽ không biết tôi ở chỗ nào. Để anh dẫn ông ta tới đây, rồi sẽ tìm cách bỏ trốn, nếu không thì nguy lắm.
Đoàn Dự gật đầu:
- Kế đó hay lắm.
Chung Linh nói với Tư Không Huyền:
- Tư Không bang chủ, Đoàn đại ca vừa tới đây là sẽ đào tẩu ngay, giải dược của đoạn trường tán làm sao đưa cho anh ấy được?
Tư Không Huyền chỉ về một tảng đá lớn ở phía góc tây bắc xa xa nói:
- Ta sai người đem thuốc giải, chờ ở ngay đó. Đoàn quân chạy trốn tới ở sau khối nham thạch sẽ có giải dược.
Tư Không Huyền muốn Đoàn Dự đi mời người tới cứu mạng y, cách nói năng liền đổi giọng tử tế ngay. Y truyền cho bộ hạ, bang chúng moi Chung Linh ra, lấy xích sắt buộc chặt hai tay nàng trước rồi sau mới gỡ đất ra sau. Chung Linh nói:
- Ông không cởi hai tay tôi ra làm sao viết thư?
Tư Không Huyền đáp:
- Con nhãi con này điêu ngoa cổ quái, muốn viết thư chắc lại định giở trò gì đây. Ngươi lấy ra một tín vật tùy thân, nhờ Đoàn quân mang đến cho cha ngươi được rồi.
Chung Linh cười nói:
- Tôi rất ghét viết thư, ông bảo tôi khỏi viết thì còn gì bằng. Tôi có tín vật gì nhỉ? Ồ, Đoàn đại ca, anh gỡ lấy đôi giày của tôi, cha mẹ tôi nhìn thấy là biết liền.
Đoàn Dự gật đầu, cúi xuống tháo đôi giày của nàng ra, tay trái giở gót chân, thấy bàn chân nàng nhỏ nhắn vừa cầm tới đã thấy trong lòng rung động, ngửng đầu nhìn lên, hai người nhìn nhau mỉm cười. Trong ánh lửa bập bùng, Đoàn Dự thấy khuôn mặt nàng rạng rỡ tuy trên má có điểm mấy giọt lệ nhưng ánh mắt đầy vẻ vui tươi, khiến chàng như ngây như dại.
Tư Không Huyền thấy thế vội giục giã:
- Thôi đi mau, đi mau, hai cô cậu tôi nhìn anh, anh nhìn tôi biết đến bao giờ? Đoàn huynh đệ, ngươi mau đi mời người tới đây, ta sẽ thả cô bé này cho ngươi lấy làm vợ. Sau này ngày rộng tháng dài, ngươi muốn sờ chân nàng lúc nào chẳng được.
Đoàn Dự và Chung Linh hai người mặt đỏ bừng, chàng vội cởi đôi giày hoa dưới chân cô gái bỏ luôn vào túi, nhịn không nổi lại liếc Chung Linh một cái. Chung Linh khúc khích bật cười. Tư Không Huyền nói:
- Đoàn huynh đệ, đi sớm về sớm, mọi người mệnh trong sớm tối, nếu trên đường đi có chuyện gì thì không ai toàn mạng cả. Chung cô nương, từ đây đến tôn phủ đi về mất bao nhiêu ngày?
Chung Linh đáp:
- Nếu đi nhanh thì hai ngày là tới, chỉ chừng bốn ngày là về lại đây.
Tư Không Huyền nghe thế cũng yên tâm vội giục:
- Thôi đi nhanh lên.
Chung Linh nói:
- Để tôi chỉ đường cho Đoàn đại ca, các ngươi đi ra chỗ khác, không ai được nghe lén.
Tư Không Huyền vẫy tay, các bang chúng đều lánh ra xa. Chung Linh nói:
- Cả ông cũng đi khỏi nữa.
Tư Không Huyền căm tức nghĩ thầm: “Để đến khi ta khỏi rồi nếu không cho con nhãi này một mẻ thì Tư Không Huyền này không phải là người”. Y đứng lên đi ra chỗ khác. Chung Linh thở dài nói:
- Đoàn đại ca, hai đứa mình hôm nay gặp nhau không ngờ lại chia tay sớm thế.
Đoàn Dự cười:
- Đi về chỉ bốn ngày cũng không lấy gì làm lâu lắc.
Đôi mắt to của Chung Linh chăm chăm nhìn chàng một hồi rồi nói:
- Anh đến gặp mẹ em trước, nói cho bà ấy biết rõ sự tình, rồi để mẹ em nói với cha em, như thế thì dễ hơn.
Nàng nói rồi giơ ngón chân ra vạch trên đất đường đi nước bước. Thì ra Chung Linh ở tại một sơn cốc tây ngạn sông Lan Thương, lộ trình không xa nhưng địa thế cực kỳ khó tìm, qua khỏi cửa rồi còn phải biết thêm mấy ám hiệu, nếu không được chỉ minh bạch thì người ngoài khó lòng mà vào được thung lũng. Đoàn Dự có trí nhớ rất tốt, Chung Linh vạch đường quẹo qua đông, vòng qua tây, xiên xuống nam, ngược lên bắc vậy mà chàng chỉ nghe một lần là nhớ hết. Đợi khi Chung Linh chỉ dẫn xong chàng bèn nói:
- Được rồi, thôi tôi đi.
Quay mình đi khỏi. Chung Linh đợi chàng đi độ mươi bước, đột nhiên nghĩ ra một chuyện gọi giật lại:
- Này, anh quay lại đã.
Đoàn Dự hỏi:
- Gì thế?
Rồi quay trở lại. Chung Linh nói:
- Anh đừng nói mình họ Đoàn, lại chớ nên nói là cha anh biết Nhất Dương Chỉ để ... để ... cha em khỏi nghĩ ngợi.
Đoàn Dự cười:
- Được rồi.
Chàng nghĩ bụng cô gái này tuổi còn nhỏ nhưng sao bụng dạ thật sâu xa, cao hứng cất tiếng hát thẳng đường đi ra.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:44 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Nghê Thường chưa trọn dây đà đứt,
Loan phượng chia tay cuộc chửa tàn.
Thoang thoảng hương thừa vương gót hạc,
Đìu hiu gương lạnh bóng mênh mang.
*
* *

Chuyện dây dưa một lúc lâu nên lúc này mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu. Đoàn Dự chuyển qua hướng tây mà đi, tuy chàng không biết võ công nhưng đang sức trai khỏe mạnh nên đi nhanh lắm được hơn chục dặm đã vòng qua đến hậu sơn của ngọn núi chính trong dãy Vô Lượng Sơn, nghe thấy tiếng nước chảy róc rách hóa ra đằng trước có một ngọn suối. Chàng đang khát nên lần đến cạnh khe nước, dưới ánh trăng sáng thấy dòng suối trong trẻo lạ thường toan thò tay vào bỗng nghe đằng xa có tiếng ai đạp vào cành cây khô nghe cách một tiếng, kế đó là tiếng bước chân của hai người. Đoàn Dự vội vàng nằm phục bên bờ suối, không dám động đậy.
Chỉ thấy một người nói:
- Ở đây có suối nước, uống xong mình lại đi tiếp.
Giọng nghe rất quen thuộc, Đoàn Dự liền nhận ra ngay đây là đệ tử của Tả Tử Mục Can Quang Hào khiến chàng lại càng không dám cử động. Chỉ thấy hai người đi đến bên trên dòng nước, tiếp theo nghe thấy tiếng tạt nước và tiếng người uống. Một lát sau Can Quang Hào nói:
- Cát sư muội, chúng mình đã thoát hiểm cảnh rồi, em đi cũng đã mệt, mình ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi tiếp.
Có tiếng một người đàn bà ừ một tiếng rồi tiếng loạt soạt ở bên bờ suối, hẳn là hai người đã ngồi xuống. Lại nghe người đàn bà nói:
- Sư huynh liệu Thần Nông Bang có cho người canh ở chỗ này không?
Nghe giọng hơi run run, xem chừng sợ hãi lắm. Can Quang Hào an ủi:
- Sư muội an tâm. Sơn đạo này rất là kín đáo, ngay cả trong Đông Tông chúng ta cũng chẳng mấy người đi tới, Thần Nông Bang không thể nào biết được đâu.
Người đàn bà lại hỏi:
- Thế sư huynh làm sao biết được con đường mòn này?
Can Quang Hào đáp:
- Cứ năm ngày một lần sư phụ lại dẫn đệ tử đến nghiên cứu khối Vô Lượng Ngọc Bích xem có gì bí áo, thế nhưng bao năm qua chúng ta chỉ cứ chăm chăm nhìn khối đá này, chưa nhìn ra được điều gì. Sư phụ lão nhân gia nói cái gì “người muốn làm nên đại công nghiệp thì phải có nghị lực bền bỉ”, lại thêm rằng “có chí thì nên”. Thế nhưng quả thực ta nhìn mãi chán lắm rồi, có khi giả vờ đi đại tiện rồi ra ngoài chạy lăng quăng nên mới tìm ra được tiểu lộ này.
Cô gái kia cười khúc khích nói:
- Thì ra anh không dụng công, chỉ trốn học đi chơi. Xem ra trong các đồng môn, sư huynh là người kém nghị lực hơn cả.
Can Quang Hào cười nói:
- Cát sư muội, năm năm trước tỉ kiếm trên Kiếm Hồ Cung ta bị thua sư muội rồi...
Cô gái ngắt lời:
- Thôi đừng nói “ta bị thua sư muội”. Lúc đó sư huynh giả vờ nội lực không đủ, cố ý nhường cho tiểu muội, người ngoài thì không thấy nhưng chẳng lẽ chính em cũng không biết hay sao?
Đoàn Dự nghe thấy thế nghĩ thầm: “Thì ra người đàn bà này thuộc về Tây Tông của Vô Lượng Kiếm”. Can Quang Hào đáp:
- Ta vừa thấy mặt em trong lòng đã phát trọng thệ, thể nào cũng phải được cùng nhau ăn ở suốt đời. May sao hôm nay mới gặp được cơ hội nghìn năm một thuở, Thần Nông Bang đột nhiên đến tấn công, lại thêm có hai đứa nhãi nhép đem con chồn độc đến, làm loạn cả lên khiến cho người trong Kiếm Hồ Cung nhốn nháo, hai đứa mình mới thừa cơ bỏ chạy, thế chẳng phải ‘có chí thì nên” thì là gì?
Cô gái kia cười khúc khích nhỏ nhẹ đáp:
- Em cũng thật là “có chí thì nên”.
Can Quang Hào nói:
- Cát sư muội, em đối với anh tốt như thế, một đời anh sẽ mãi mãi chiều theo em.
Nghe giọng nói thấy y vui sướng không để đâu cho hết. Cô gái kia thở dài một tiếng nói:
- Chúng mình lần này phản thầy rủ nhau đi trốn, thật không còn chỗ đứng trong võ lâm nữa. Mình phải đi càng xa càng tốt, kiếm chỗ nào thật là kín đáo mà ở, đừng để sư phụ và đồng môn biết được mới xong. Càng nghĩ đến sao em càng thêm sợ.
Can Quang Hào đáp:
- Em chớ lo làm gì. Ta xem phen này Thần Nông Bang đã chuẩn bị rồi mới đến, hai phái Đông Tây ngoài anh và em ra e rằng chẳng một ai thoát khỏi độc thủ của chúng được.
Người đàn bà lại thở dài nói:
- Cũng mong là thế.
Đoàn Dự nghe xong tức khí xông lên nghĩ thầm: “Hai đứa chúng bay muốn thành vợ chồng, thấy sư môn có nạn thừa cơ bỏ trốn thì cũng đành, nhưng sao lại mong sư trưởng đồng môn của mình đều bị độc thủ? Tâm địa chúng bay tàn độc thật.” Chàng nghĩ đến hai người tính tình thâm hiểm như thế, nếu như chúng phát giác ra mình, thể nào cũng giết đi diệt khẩu, thành thử đến thở mạnh cũng không dám.
Cô gái lại nói:
- Cái phiến Vô Lượng Ngọc Bích kia có cái gì lạ lùng khác thường, bên anh ở đây đã mười năm, không lẽ vẫn chưa tìm ra chút manh mối nào hay sao?
Can Quang Hào đáp:
- Mình đã là một nhà, lẽ nào anh lại còn dối em hay sao? Sư phụ nói, nhiều năm trước, lúc đó thái sư phụ của ngu huynh làm chưởng môn Đông Tông, những đêm trăng thấy trên bức tường ngọc có hình người múa kiếm, khi thì đàn ông, khi thì đàn bà, có khi đàn ông đàn bà đấu kiếm với nhau, đâm chém kịch liệt. Kiếm pháp trên khối ngọc bích dó tinh diệu lắm, chính thái sư phụ anh bình sinh chưa thấy bao giờ, dù có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi, hẳn là do tiên trên trời biểu diễn. Thái sư phụ anh chỉ mong học được vài chiêu tiên kiếm, thế nhưng kiếm ảnh trên vách núi quá ư là kỳ lạ, quá ư là lanh lẹ, lại mờ ảo khi có khi không, không cách nào coi cho rõ được, có muốn học nửa chiêu cũng không xong. Hình ảnh của tiên kiếm lại đâu phải lúc nào cũng có, có khi thì thật khuya mới có, có khi một hai tháng mới thấy một lần. Thái sư phụ mê say kiếm ảnh trên ngọc bích sao lãng cả việc luyện tập kiếm pháp bản môn, cũng lơ là cả việc đốc thúc đệ tử luyện tập nên về sau mới bị Tây Tông của em đánh bại. Cát sư muội, thái sư phụ em cùng đệ tử vào ở trong Kiếm Hồ Cung rồi có thấy cái gì không?
Cô gái nói:
- Cứ như sư phụ em nói, kiếm ảnh trên tường đó thái sư phụ em cũng thấy nhưng về sau chỉ thấy một người đàn bà múa kiếm, còn vị kiếm tiên đàn ông kia không còn đâu nữa. Chắc là vì thái sư phụ em là đàn bà nên chỉ có một nữ kiếm tiên hiện ra chỉ dạy thôi. Thế nhưng chỉ được hai năm thì vị nữ kiếm tiên kia cũng biến mất. Thái sư phụ có nói rằng, thân pháp kiếm pháp của những vị tiên hiện ra trên ngọc bích tuy thật là kỳ diệu, nhưng mơ hồ mông lung, lại quá nhanh không thể quan sát kỹ càng.
Bức tường ngọc đó lại cách khoảng kiếm hồ và một vực sâu thành thử không cách gì liều mạng đến gần mà coi được. Thái sư phụ tuy được thiên duyên nhưng lại không đủ phúc trạch nên không học được nửa chiêu, bán thức để có thể dương oai nơi võ lâm, trong lòng uất ức thế nào chẳng nói thì cũng biết.
Sau khi tiên ảnh biến mất rồi, thái sư phụ em ngày đêm ở trên đỉnh núi bàng hoàng, chăm chăm nhìn vào bức tường ngọc kia mà xuất thần, càng ngày càng thêm tiều tụy, chỉ nửa năm sau bệnh mà chết. Khi lâm chung lão nhân gia còn đang ở trên đỉnh núi, tuy hơi thở chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn không cho đệ tử đem về Kiếm Hồ Cung. Sư phụ em nói rằng khi thái sư phụ tắt thở, hai mắt vẫn còn trừng trừng nhìn vào ngọc bích.
Cô ta ngừng lại một chút nói tiếp:
- Can sư ca, anh nghĩ trên đời này có tiên thật chăng? Hai là hai vị thái sư phụ của anh và của em nói thế để đánh lừa người khác?
Can Quang Hào đáp:
- Nếu bảo hai vị thái sư phụ tạo ra câu chuyện đó để đánh lừa đệ tử thì chắc không phải, có được gì đâu. Hơn nữa, ta nghe Thẩm sư bá nói rằng khi người còn nhỏ quả đã chính mắt trông thấy hình ảnh của kiếm tiên. Thế nhưng trên đời này có tiên thật hay không, ta không biết nữa.
Người đàn bà nói:
- Hay là có hai vị cao nhân múa kiếm ở trước hồ rồi bóng họ in lên bức tường ngọc đó chăng?
Can Quang Hào đáp:
- Hồi đó thái sư phụ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Thế nhưng trước bức tường ngọc là Kiếm Hồ, phía tây hồ lại là vực sâu, hai vị cao nhân kia dù có thể lăng ba đạp thủy múa kiếm ngay trên mặt hồ thì thái sư phụ cũng phải nhìn thấy rồi. Còn như nếu ở bên cạnh hồ mà múa kiếm thì cách xa như thế, cái bóng không sao có thể chiếu lên trên ngọc bích được.
Cô gái nói:
- Thái sư phụ em lìa đời rồi, các đệ tử đêm đêm thắp hương lễ bái trước bức tường ngọc, cầu xin khấn nguyện chỉ mong cái bóng của kiếm tiên hiện ra một lần nhưng không bao giờ thấy nữa. Sư phụ em chỉ mong được quay lại xem ra thế nào nhưng mười năm qua hai lần tỉ kiếm đều thua Đông Tông bên anh cả.
Can Quang Hào nói:
- Từ nay trở đi, hai đứa mình không còn phân biệt Đông Tông, Tây Tông gì nữa. Hai tông bây giờ đã hợp làm một ...
Chỉ nghe cô gái cười rúc rích, ứ hự mấy tiếng, nói sẽ:
- Đừng ... đừng làm thế.
Hiển nhiên Can Quang Hào có hành động sàm sỡ nên cô nàng mới ngúng nguẩy. Can Quang Hào nói:
- Em đi theo anh, nếu như sau này anh phụ bạc thì nguyện sẽ biến thành thằng chó má ngay ở cạnh hồ này.
Thiếu nữ cười khanh khách, nũng nịu nói:
- Nếu anh là tên chó má thì có khác gì anh rủa em là đứa hư thân mất nết chẳng ra gì?
Đoàn Dự nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười lên một tiếng. Tiếng cười vừa thoát ra chàng biết ngay là không xong vội vàng nhỏm lên, bỏ chạy thục mạng. Chỉ nghe phía sau Can Quang Hào quát lớn:
- Ai đó?
Rồi thấy tiếng người rầm rập đuổi theo. Đoàn Dự kêu khổ thầm càng hết sức đào tẩu. Chỉ trong giây lát, phía bên tây đã có ánh sáng lấp loáng, một người đàn bà tay cầm trường kiếm chạy về phía sườn núi hẳn là định chặn đường của chàng. Đoàn Dự kêu lên:
- Ối chao!
Chàng liền quay sang hướng đông, trong bụng lẩm bẩm: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm bồ tát, cứu cho đệ tử Đoàn Dự thoát được tai kiếp này”. Tai chàng vẫn nghe thấy tiếng Can Quang Hào tiếp tục đuổi theo, chỉ được một lát Đoàn Dự đã thở hồng hộc thì nghe Can Quang Hào quát lớn:
- Cát sư muội! Mau chặn sơn khẩu.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta chết cũng không có gì quan trọng, ngặt là làm lụy cả Chung cô nương cũng không sống nổi, lại hại thêm bao nhiêu mạng người trong Thần Nông Bang, tội nghiệt thật nhiều. A Di Đà Phật! Quan Thế Âm bồ tát!”.
Chàng lại nghĩ tiếp: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, bọn chúng có thành chó má cũng đâu có sao, thành đứa chẳng ra gì cũng mặc kệ nó, có liên can gì đến ngươi? Việc gì mà phải cười người ta làm gì? Tiếng cười đó chẳng phải là giết đến mấy chục mạng hay sao? Người ta có là tuyệt sắc mỹ nhân thì một nụ cười mới nghiêng thành, còn ngươi Đoàn Dự là cái quái gì mà cũng cười làm chi? Nghiêng được cái gì đây không biết nữa?”.
Trong bụng tự oán tự trách như thế nhưng chân không chậm lại chút nào, chẳng cần chọn đường đi nước bước cứ chạy bừa vào phía rừng sâu rậm rạp.
Chạy thêm một lúc nữa, hai chân đã mỏi nhừ, hơi thở phì phò bỗng thấy tiếng nước chảy ào ào, gầm rú chẳng khác gì sóng biển đang xô tới, ngửng đầu nhìn lên thấy phía tây bắc như một dòng sông bạc treo ngược, chính là một ngọn thác lớn từ trên cao đổ xuống. Ở phía sau Can Quang Hào kêu lên:
- Đằng trước là cấm địa của bản phái, người ngoài không được tiến vào. Nếu ngươi còn đi sâu thêm vài trượng, phạm vào cấm kỵ thì chết không có đất mà chôn.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta không vào cấm địa của phái Vô Lượng, chẳng lẽ ngươi tha chết cho ta hay sao? Thì cùng lắm cũng đến chết là cùng, có hay không có đất chôn thì khác gì bao nhiêu”. Chàng chân càng thêm gắng sức cố chạy nhanh hơn. Can Quang Hào quát lớn:
- Mau ngừng lại, ngươi muốn chết hay sao? Trước mặt là ...
Đoàn Dự cười nói:
- Ta không muốn chết, thế mới chạy ...
Nòi chưa dứt câu, đột nhiên chân bước hụt một cái đạp vào chỗ không. Chàng không biết võ công đang chạy nhanh làm sao lùi lại cho kịp thân hình liền rơi thẳng xuống, chỉ mới kêu lên “Ối trời!” thì đã cách chỗ mỏm núi đến mấy chục trượng rồi. Chàng đang ở trên không, hai tay quơ loạn lên, chỉ mong nắm được vật gì, múa may như thế đã rơi thêm mấy trăm trượng nữa, độ nhiên nghe bùng một tiếng, mông đụng vào một cây cổ tùng thò từ vách núi ra, thân hình liền bắn trở lên. Lách cách lách cách mấy tiếng, cành tùng to lớn đã gãy lìa nhưng sức rơi xuống đã giảm bớt.
Đoàn Dự vừa rơi xuống tiếp hai tay liền chồm ra, ôm chặt lấy một cành tùng khác, đánh đu bông bênh giữa lưng trời, không ngừng lay động. Chàng cúi đầu nhìn xuống, trong thâm cốc mây mù che phủ, không thấy đâu là đáy. Chàng đong đưa thân hình một cái đã chạm vào sườn núi, vội vàng thò tay ra ôm chặt lấy một cành cây nhỏ, hai châm mò được một chỗ tựa, mới hơi bình tĩnh lại một chút, lần theo vách đá về phía cây tùng miệng nói:
- Ông thông già ơi, may nhờ hôm nay ông đại hiển thần thông, cứu được mạng cho Đoàn Dự này. Tổ tiên ông được Tần Thủy Hoàng trú mưa ngày xưa nên phong cho làm Ngũ Đại Phu. Che mưa so với cứu mạng người thì có đáng gì? Ta sẽ phong cho ông làm Lục Đại Phu, không, phải là Thất Đại Phu, Bát Đại Phu mới xứng.
Chàng xem kỹ thấy vách đá có một đường nứt lớn, nếu cố gắng có thể leo xuống được. Chàng thở một hồi nghĩ thầm: “Can Quang Hào và Cát sư muội của y chắc nghĩ mình đã nát như tương rồi, đâu có ngờ mình được “Bát Đại Phu” cứu. Giờ này chắc bọn chúng đã bỏ xuống dưới núi, hai người đang chàng chàng thiếp thiếp, Đông Tông Tây Tông hợp thành một rồi. Dưới đáy sơn cốc này chắc nguy hiểm lắm, nhưng dẫu rằng mình có đi đời nhà ma thì ở đây cũng thế thôi. Biết đâu may được Quan Thế Âm bồ tát phù hộ nên có khi không chết”.
Chàng men theo khe đá, từ từ tuột xuống. Cái khe đó có rất nhiều đá và cây cỏ nên không bị trượt. Có điều hang núi tưởng như vô cùng vô tận, một hồi sau quần áo bị gai xé rách, bên này một miếng bên kia một mảnh, chân tay cũng bị mấy nơi bầm dập. Không biết mất bao nhiêu thời giờ, chàng vẫn chưa xuống được tới đáy hang. May sao càng xuống sâu, vách núi càng thoai thoải không còn thẳng đứng như trước nên chàng bèn nằm phục tại sườn núi vừa trườn vừa lăn từ từ trượt xuống nên nhanh hơn nhiều.
Tiếng thác nước ỳ ầm ỳ ầm mỗi lúc một lớn khiến chàng không khỏi kinh hãi, nghĩ thầm: “Nếu dưới này sóng nước chảy xiết thì thật là nguy hiểm biết bao”. Chỉ thấy những giọt nước bắn tung tóe đầy mặt, đầy đầu khiến chàng hơi nhức nhối.
Thế nhưng Đoàn Dự đâu có thì giờ suy nghĩ, chỉ giây lát đã đến đáy vực rồi. Chàng đứng lên đột nhiên hét lên một tiếng, thấy phía bên trái trên sườn núi là một cái thác lớn chẳng khác gì một con rồng ngọc treo lơ lửng, cuồn cuộn tuôn xuống, chảy vào một chiếc hồ lớn nước trong trẻo lạ thường. Ngọn thác đó năm này tháng khác, chảy mãi không ngừng nhưng mặt hồ vẫn không đầy tràn hẳn là có chỗ nước thoát đi. Chỗ thác nước chảy xuống nước vỗ bập bềnh nhưng chỉ ra ngoài chừng mươi trượng thì mặt hồ lặng êm như gương. Dưới ánh trăng chiếu xuống, đáy hồ cũng có một vầng nguyệt sáng vằng vặc.
Đoàn Dự nhìn thấy kỳ cảnh của tạo hóa không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, nửa mừng nửa lo liếc chung quanh thấy bờ hồ mọc đầy những bụi hoa trà, lung linh trong ánh đêm. Hoa trà đất Vân Nam đứng đầu thiên hạ, Đoàn Dự vốn đã yêu thích, có ngờ đâu thân lạc vào nơi nguy hiểm lại thấy nó nên đến gần xem kỹ, lẩm bẩm:
- Nơi đây hoa trà tuy nhiều, nhưng cũng thường thường, chỉ có vài bụi Vũ Y Nghê Thường, so với ở nhà ta thì khá hơn. Còn mấy bụi Bộ Bộ Sinh Liên, phẩm chủng lại không thuần.
Chàng thưởng ngoạn hoa trà một hồi rồi đi đến bên bờ hồ, vốc lên uống vài ngụm. Nước trong vắt, vào đến miệng ngon ngọt lạ thường, mát rượi chạy tuột thẳng vào trong bụng. Chàng định thần đi men theo bờ hồ tìm lối ra khỏi vực sâu.
Cái hồ đó hình bầu dục quá nửa nằm ẩn trong những bụi hoa, tàn cây, chàng đi từ tây sang đông, lại từ đông sang tây đi giáp một vòng, phải đến ba dặm, phía đông nam và tây bắc là hai bên vách đá dựng đứng, không có lối nào ra, chỉ có chỗ chàng rơi xuống là tương đối thoai thoải còn nơi khác không cách nào có thể leo lên được.
Chàng ngửng đầu nhìn lên thấy mây mù che phủ miệng hang, đi xuống đã thấy biết bao gian nan, nghĩ đến việc trèo lên lại càng ngán ngẩm, nghĩ thầm: “Dù có là người võ công tuyệt đính cũng chưa chắc đã lên được. Có hay không có võ công thì cũng thế thôi”.
Khi đó trời đã hửng sáng nhưng trong thâm cốc vẫn lặng như tờ, không thấy vết tích con người ngay vết chân thú cũng không thấy có, chỉ có tiếng chim kêu ríu rít, đối đáp lẫn nhau. Chàng thấy tình cảnh như thế trong bụng buồn rầu, nghĩ thầm mình có chết đói nơi đây cũng không sao nhưng làm lụy tới cả Chung cô nương thì thật không phải chút nào, còn cha mẹ mình sẽ ngày đêm khắc khoải nhớ thương.
Chàng ngồi phịch xuống bên bờ hồ rầu rĩ, trong bụng chưa biết tính sao. Trong khi thất vọng lòng nảy ra một huyễn tưởng: "Giá như mình biến thành con cá, theo thác nước mà bơi ngược lên thì mới may ra thoát khỏi được vách đá dựng đứng này". Chàng đưa mắt nhìn theo dòng nước từ dưới đi lên, thấy bên phía phải của dòng thác có một vách đá nhẵn bóng, sáng loáng như ngọc, nghĩ thầm muôn ngàn năm trước chắc dòng thác lớn hơn bây giờ nhiều, qua không biết bao nhiêu thời gian mới mài cho nửa bên vách đá thành nhẵn nhụi đến thế, về sau lượng nước giảm ít mới lộ ra phiến đá lưu ly khiến cho vách núi trong như hình một mặt gương.
Ngay lúc đó chàng nhớ lại những lời mà Can Quang Hào và Cát sư muội của y nói chuyện, nghĩ thầm: “Xem ra đây chính là cái mà họ nói là Vô Lượng Ngọc Bích rồi. Họ kể lại năm xưa các chưởng môn Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm thường nhìn thấy trong những đêm trăng thấy trên vách núi này bóng các vị tiên hiện ra. Ngọc bích này dựng đứng bên cạnh cái hồ, nếu có chiếu lên thì phải ở trên mặt hồ còn không thì phải ở bờ hồ phía đông mà múa kiếm thì bóng mới chiếu lên trên đó được. Thế nhưng phía đông cũng lại là vách đá thẳng tắp phản chiếu ánh sáng, nếu không có ánh trăng thì không thể có bóng người. A, đúng rồi, chắc tại mặt hồ có chim bay qua lượn lại, bóng nó chiếu lên trên sơn bích, nhìn xa thấp thoáng thì thấy thân pháp linh động, vừa nhanh nhẹn, vừa kỳ lạ. Bọn họ trong đầu đã có chủ ý nên tưởng là tiên đang múa kiếm, mờ mờ tỏ tỏ không nhìn thấy rõ vì sao nên phải đi vào ma đạo”.
Chàng nghĩ ra rồi không khỏi bật cười. Từ lúc ăn uống ở trong Kiếm Hồ Cung tới giờ cũng đã bảy tám giờ nên bụng đói meo, thấy bên bờ hồ có một lùm cây đầy trái xanh xanh đỏ đỏ nên đến hái một chùm, cho vào miệng nhai thử thấy trái chua lè nhưng đang đói nên cũng không coi vào đâu, ăn luôn một hơi đến hơn chục chùm mới lưng lửng dạ, thấy toàn thân xương cốt mỏi nhừ nên lăn ra cỏ nằm thiu thiu ngủ.
Chàng ngủ một giấc thật say, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã ngả về phương tây, mặt hồ hiện ra một hình cầu vồng, đẹp không thể tả được. Đoàn Dự biết rằng hơi nơi thác nước xông lên gặp ánh mặt trời chiếu vào nên hiện ra hình cầu vồng, nghĩ thầm mình sắp chết đến nơi nhưng được thưởng thức mỹ cảnh, phúc lộc quả không phải nhỏ, lại được chết dưới bóng hoa nơi bờ hồ thật phong lưu biết bao, ánh hồ sáng loáng diễm lệ, chỉ hiềm hoa trà không phải là giai chủng nên có phần mỹ trung bất túc.
Chàng ngủ được một giấc rồi tinh thần phấn chấn, nghĩ thầm: “Không chừng sơn cốc có lối ra, ẩn sau cây cối nham thạch, đêm qua trời tối mình lật đật vội vã nên không thấy chăng”. Chàng lại cất tiếng hát véo von, cao hứng đi vòng quanh hồ tìm lần nữa. Lần này chàng chăm chú tìm kiếm ở những nơi kín đáo, thế nhưng phía sau những tùm cây hoa cỏ chỉ toàn là nham thạch cứng chắc, tảng nào cũng liền với bức vách núi cao vút tận mây, chẳng nói gì đường đi ra mà ngay cả hang thỏ lỗ rắn cũng chẳng có.
Tiếng hát của chàng càng lúc càng nhỏ dần, trong lòng càng lúc càng uể oải, đến lúc quay lại chỗ nằm ngủ hồi nãy thì chân đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống nghĩ thầm: “Chung cô nương vì cứu ta mà đâm ra chết oan”.
Nghĩ đến Chung Linh, chàng thò tay vào túi lấy đôi giày hoa ra ngắm nghía, hình dung đôi chân bé nhỏ, khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhịn không nổi đưa đôi giày lên miệng hôn mấy cái rồi lại bỏ vào bọc nghĩ thầm: “Phen này ta chắc không thoát chết được rồi, Chung cô nương cũng bỏ mạng. Giá như nàng cũng ở nơi đây, hai đứa chết chung nơi bờ hồ này thì quả thật đẹp biết bao. Chỉ tiếc nàng giờ đây lại ở bên cạnh lão râu dê Tư Không Huyền thật là chán ngắt. Giờ đây ta đang nghĩ đến nàng chắc hẳn nàng cũng đang nghĩ đến ta”.
Chàng không có việc gì làm đành đi hái mấy quả chua kia ăn tạm, bỗng nghĩ ra: “Chỗ nào mình cũng tìm hết rồi, chỉ còn chỗ này chưa mò đến, không chừng cột nhà không nhìn nhìn trôn kim sờ sờ trước mắt mà không thấy”. Chàng liền vạch bụi cây ra lập tức lắc đầu. Đằng sau cái cây chỉ là một vách núi trơ trơ, bám đầy dây leo, làm gì có lối nào ra? Thế nhưng phiến thạch bích đó phẳng lạ thường, chẳng khác gì một tấm gương đồng nhưng so với vách đá bên phía tây hồ nước thì nhỏ hơn nhiều, trong lòng chợt động: “Hay đây mới thực là Vô Lượng Ngọc Bích?”. Chàng bèn gỡ hết các dây leo bám trên phiến đá, nhưng chỉ thấy đó là một bản đá phẳng lì tuyệt nhiên không có gì khác lạ. Chàng nghĩ bụng: “Ta chết nơi thâm cốc này vĩnh viễn không ai hay biết, chi bằng khắc vài chữ trên phiến đá này, à, khắc tám chữ Đại Lý Đoàn Dự chết tại nơi đây xem ra cũng thú”.
Chàng bèn dọn sạch các dây leo bám trên mặt đá, cởi trường bào ra, xuống dưới hồ nhúng nước, đem lên rửa thật sạch cho hết rong rêu khiến phiến đá đó trở nên trắng bóng như ngọc. Chàng nhặt một hòn đá nhọn lên vẽ chữ lên trên thạch bích, thế nhưng vách đá cứng rắn lạ thường, một hồi lâu mới xong một chữ Đoàn vừa nông vừa méo xẹo, chẳng ra trò trống gì, nghĩ thầm: “Người sau nhìn thấy sẽ cho rằng Đoàn Dự chữ không biết viết, viết tám chữ này có khác nào để tiếng xấu đến muôn đời”. Chàng thấy cổ tay mỏi nhừ, đau nhức nên liệng hòn đá đi không viết nữa.
Đến khi trời tối, chàng lại ăn thêm ít trái cây dại rồi nằm xuống ngủ. Trong giấc mơ chàng thấy một đôi giày bay qua lượn lại trước mắt, vải xanh thêu hoa vàng, chính là đôi giày của Chung Linh, vội vươn tay ra cầm lấy nhưng đôi giày chẳng khác gì bướm dại, chập chờn lên xuống, không sao bắt được. Một lúc sau, đôi giày hoa mỗi lúc một cao, Đoàn Dự kêu lên:
- Giày kia đừng bay nữa.
Chàng bàng hoàng tỉnh dậy thì mới hay là một giấc mộng, giơ tay dụi mắt, đưa tay ra sờ, đôi giày hoa vẫn còn trong túi bèn đứng lên ngửng đầu thấy mặt trăng tròn văng vặc, chiếu xuống chẳng khác gì tráng lên một lớp bằng bạc lên mặt hồ, đưa mắt nhìn khắp nơi đột nhiên giật mình thấy ở bức vách bên kia quả nhiên có một bóng người.
Chàng kinh hãi không để đâu cho hết, nhưng cũng xiết đỗi vui mừng, kêu lên:
- Các vị tiên ơi! Cứu tôi với! Các vị tiên ơi! Cứu tôi với!
Hình người kia hơi rung động nhưng không trả lời. Đoàn Dự định thần, chăm chú xem lại cho kỹ nhưng bóng người kia không rõ ràng, chỉ thấy áo dài, khăn nho sinh quả là một người đàn ông.
Chàng vội vàng tiến lên mấy bước đã đến bên cạnh hồ kêu to:
- Vị tiên ơi! Cứu tôi với!
Bóng người trên vách ngọc lắc lư mấy cái, lớn thêm lên nhiều. Đoàn Dự vội đứng lại, cái bóng đó cũng không di chuyển nữa. Chàng ngạc nhiên lập tức hiểu ra: “Thì ra đó là bóng của chính mình!” Chàng nghiêng qua bên trái, cái bóng đó cũng nghiêng qua bên trái, chàng bước qua bên phải cái bóng trên vách núi cũng qua bên phải, không còn hoài nghi gì nữa nhưng vẫn còn điều chưa hiểu được: “Vầng trăng từ tây nam chiếu qua làm sao lại chiếu được bóng ta lên bức tường trước mặt nhỉ?”.
Chàng quay đầu lại thấy chữ Đoàn chàng khắc lúc ban ngày cũng có một cái bóng in lên trên thạch bích, nhưng chữ đó bé và đâm nét hơn nhiều. Chàng nghĩ ra ngay: “ Thì ra bóng trăng chiếu bóng của ta lên trên phiến đá trước, sau đó mới rọi lên trên vách núi chẳng khác gì mình đứng giữa hai tấm gương, tấm gương lớn phản ảnh hình của ta trên tấm gương nhỏ”.
Chàng suy nghĩ thêm một chút, hiểu ra ngay cái si mê “ngọc bích tiên ảnh” của Vô Lượng Kiếm mấy chục năm qua chẳng có gì thần kỳ: “Năm xưa quả có ai đó đứng nơi đây múa kiếm, bóng chiếu lên trên bức vách đá. Đầu tiên có một nam một nữ, sau đó người đàn ông bỏ đi đâu hay chết rồi không biết, chỉ còn lại người đàn bà ở lại u cốc này tịch mịch cô đơn, hai năm sau cũng từ trần”.
Chàng nghĩ đến giai nhân lẻ bạn, sống vò võ nơi hang sâu, uất hận mà chết không khỏi ngậm ngùi. Thế nhưng sau khi hiểu được lý lẽ đó rồi, nỗi vui mừng biến mất không còn tăm hơi đâu nữa. Nỗi buồn kéo đến khiến chàng giơ tay múa chân, tay đấm chân đá, nghĩ thầm: “Giá như Tả Tử Mục, Song Thanh hai người đang ở trên mỏm núi kia bỗng thấy ngọc bích có hình bóng tiên hiện hiện ra, chắc tưởng là đang biểu diễn võ công thần kỳ, thể nào chẳng hết sức cố gắng học, vùi đầu nghiên cứu để truyền cho hậu thế, ha ha, ha ha!”. Chàng càng nghĩ càng khoái chí, nhịn không nổi cười lên sằng sặc.
Cười chán chê rồi, chàng bỗng nghĩ ra một việc: “Hai vị tiền bối kia ngày xưa thường thường cùng nhau múa kiếm, nếu như không ở ngay dưới đáy vực này thì cũng phải có đường đi ra đi vào. Dù cho hai người võ công cao đến đâu nhưng leo lên leo xuống để múa kiếm thì thật là phiền nhiễu hết sức, một hai lần thì được chứ ngày nào cũng làm thì xem ra không ổn”.
Chàng bỗng thấy một tia hi vọng trước mắt, nghĩ thầm: “Ngày mai mình sẽ cố gắng tìm đường ra. Gã Can Quang Hào đã chẳng nói: Có chí thì nên đấy ư? Ha ha! Ha ha! Y lập chí quyết lấy cho bằng được Cát sư muội làm vợ, còn ta lập chí nhất định phải thoát khỏi nơi đây”.
Chàng ngồi ôm gối, thản nhiên nhìn ánh trăng trên mặt hồ, bốn bề thanh tĩnh nghĩ thầm: “Có chí thì nên” câu đó tuy không phải là sai nhưng Khổng phu tử có nói: Người biết không bằng người hiền, người hiền không bằng người vui. Câu này xem ra hợp với bụng ta hơn.
Cha mẹ ta vẫn bảo ta là “si nhi”, từ thuở bé đã thích cái gì là mê mẩn như điên như cuồng. Năm ta bảy tuổi, ta mê một cây hoa trà Thập Bát Học Sĩ, từ sáng đến tối, đến nửa đêm còn len lén trở dậy nhìn ngơ ngẩn, bỏ ăn bỏ uống, quên cả học hành đến khi hoa tàn khóc mấy ngày chưa thôi. Lúc ta học đánh cờ cũng không ăn không ngủ, suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến bàn cờ, chẳng còn thiết gì khác.
Một hôm kia gia gia bảo ta luyện võ, thế nhưng lúc đó ta đang nghiên cứu Dịch Kinh, ngay cả khi ăn cơm giơ đũa ra gắp đồ ăn cũng nghĩ phương vị chiếc đũa bên này là Đại Hữu hay là Đồng Nhân . Ta không chịu học võ, không hiểu vì không muốn bỏ Kinh Dịch qua một bên hay thực sự không thích cái môn đánh nhau giết người này? Cha ta bảo ta “cưỡng từ đoạt lý” chắc hẳn quả ta có cãi chầy cãi cối thật không chừng. Mẹ ta hiểu bụng dạ tính nết ta lắm mới khuyên gia gia: “Thằng con “si” này một mai thích học võ rồi, ông có bảo nó bớt luyện đi một chút, nó cũng chẳng nghe đâu. Bây giờ nó không chịu học, cứng đầu không chịu có ép cũng không xong”. Ôi! Bảo ta lập chí làm điều gì quả là khó, nếu như một ngày nào đó ta mê luyện võ thì gia gia, má má, bá phụ hẳn sung sướng biết bao nhiêu. Ta luyện võ cho giỏi rồi, không đánh ai cũng chẳng giết ai, luyện võ đâu phải chỉ là để giết người. Bá phụ võ công cao cường biết bao nhưng tính tình nhân từ, e rằng xưa nay chưa từng giết qua một người nào. Có điều nếu như ông ấy muốn giết ai đâu có cần phải tự mình ra tay”.
Chàng ngồi bên bờ hồ, đầu óc suy nghĩ miên man không biết thời giờ trôi qua, bỗng chợt thấy vách đá bên cạnh dường như có ánh sáng đủ màu di động, vội chăm chú nhìn thấy bên dưới chữ Đoàn chàng khắc có bóng một thanh kiếm, hình ảnh rõ ràng lạ thường, có cả cán, cả vòn che tay, thân kiếm, mũi kiếm mọi thứ đều đâu ra đấy. Mũi kiếm nghiêng nghiêng chỉ xuống còn thanh kiếm có màu cầu vồng tỏa ra, lấp loáng chuyển động không ngừng. Chàng lấy làm lạ tự hỏi: “Sao bóng thanh kiếm lại hiện màu cầu vồng?”. Chàng ngửng đầu lên nhìn nhưng không thấy vầng trăng đâu thì ra bóng nguyệt đã chìm về phương tây, ẩn ở đằng sau vách núi rồi. Thế nhưng vách núi đó có một lỗ hổng, ánh trăng chiếu theo đó mà rọi xuống, trong cái hang đó có ánh sáng lấp lánh mới vỡ lẽ ra: “Đúng rồi! Thì ra trên vách núi kia có treo một thanh kiếm, trên thanh kiếm này có nạm các loại bảo thạch đủ màu, ánh trăng chiếu vào in hình thanh kiếm và các loại châu báu thành đủ màu sắc thành ra mới rực rỡ đến thế”.
Chàng nghĩ tiếp: “Như thế ắt phải đục được lưỡi kiếm ra rồi nạm bảo thạch cho ánh trăng chiếu qua được thành hình đủ màu. Còn như không đục được lưỡi kiếm thì ánh trăng đâu có thể chiếu xuyên qua bảo thạch. Người chế tạo ra chiếc kiếm quái lạ này thật là tốn nhiều công sức”.
Chàng thấy cái hang đó cách mặt đất đến mấy chục trượng không cách nào có thể trèo tới mà xem cho kỹ được, từ dưới trông lên, chỉ thấp thoáng thấy ánh sáng của mấy viên đá quí chiếu lên thạch bích vừa huyền ảo, vừa đẹp đẽ, nhìn mà mê mẩn tâm thần.
Chàng chỉ mới xem được một lát chừng thời gian uống một chén trà, ánh trăng đã di động, cái bóng đó mờ dần rồi biến mất, vách đá chỉ còn một màu trắng bệch. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thanh bảo kiếm này chắc là của hai vị cao nhân kia để trên đó. Sơn cốc thâm hiểm thế này, người của phái Vô Lượng Kiếm chẳng một ai dám mạo hiểm trèo xuống xem xét, cứ đứng trên đỉnh núi thì đâu có thấy được tiểu thạch bích, cũng không nhìn thấy cái hang trên bức vách bên kia có treo một thanh kiếm, thành ra phái Vô Lượng Kiếm có đứng trên đầu núi ngơ ngẩn một trăm năm nữa thì cũng không sao thấy được cái bí mật này. Thế nhưng lấy được thanh bảo kiếm kia thì có ích lợi gì?”. Chàng nghĩ ngợi một hồi rồi ngủ thiếp đi.
Trong giấc ngủ đột nhiên chàng choàng tỉnh dậy, nghĩ thầm: “Để có thể treo được thanh kiếm trên bức tường đá kia quả là một việc thực khó khăn, dẫu võ công có cao cường cũng không dễ gì làm được. Xếp đặt mất nhiều công lao như thế, phải có thâm ý gì. Hẳn là trong cái hang này còn cất dấu võ học bí cập chi đó”. Chàng nghĩ đến võ công thấy không còn gì hứng thú: “Võ công bí cập kia người của Vô Lượng Kiếm coi là quí giá chứ còn như ta, dù có để ngay trước mặt ta cũng chẳng thèm liếc mắt đến làm gì”.
Hôm sau chàng lại đi men theo chung quanh hồ, tính ra từ hôm rơi vào cái vực này đã đến ngày thứ ba, nghĩ thầm chỉ còn bốn ngày nữa, chất kịch độc của đoạn trường tán trong ruột phát tác, lúc đó có tìm được lối ra cũng thành vô dụng.
Đêm hôm đó chàng ngủ đến nửa đêm liền tỉnh dậy, đợi cho bóng trăng chìm về phương tây. Đến khoảng canh tư, ánh trăng chiếu vào cái hang núi, lại chiếu lên trên thạch bích hình thanh kiếm đủ màu. Chỉ thấy thanh kiếm trên bức vách xéo vào hướng bắc, mũi kiếm chỉ đúng vào một khối đá lớn, Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Không lẽ khối nham thạch này có gì khác thường?”
Chàng đi đến bên tảng đá đẩy thử, tay chạm vào rêu xanh trơn tuồn tuột nhưng khối đá dường như hơi lắc lư. Chàng ra sức đẩy hai tay, lại thấy tảng đá rung rinh. Khối đá đó cao đến ngực, không hai nghìn cũng phải một nghìn cân, đúng ra không thể nào nhúc nhích được. Chàng đưa tay mò dưới đáy khối đá, thì ra tảng đá này không sát đất mà để ở trên một tảng đá nhỏ hơn, không biết trời sinh như thế hay là do người sắp đặt. Tim chàng đập thình thình nghĩ thầm: “Khối đá này quả có điều gì khác lạ!”.
Chàng dùng hai tay đẩy phía bên phải tảng đá, hòn đá lại lắc lư nhưng rồi lại trở về, nghe như có tiếng dây leo bị nghiến đứt biết là có các loại cây cỏ quấn chặt hai tảng đá với nhau. Lúc bấy giờ ánh trăng đã lặn, chàng chỉ thấy mờ mờ, nghĩ bụng: “Tối thế này nhìn không rõ, để đến sáng mai mình xem kỹ thử coi thế nào”.
Chàng nằm xuống bên cạnh tảng đá chợp mắt một lúc, đến khi sáng rõ mới trở dậy xem kỹ chung quanh rồi cúi xuống gỡ sạch các dây leo, cỏ dại quấn giữa hai tảng đá, lại vét cả đất cát ra sau đó mới giơ tay đẩy lần nữa, quả nhiên khối nham thạch từ từ chuyển động chẳng khác gì một cái cánh cửa lớn, xê dịch mới một nửa đã thấy để lộ ra một cái hang cao chừng ba thước.
Chàng mừng lắm, không kịp nghĩ xem trong động có gì nguy hiểm, liền khom lưng chui vào, đi được mươi bước thì cái hang đã tối om không còn chút ánh sáng nào. Chàng đành giơ hai tay ra, mỗi bước lại mò thử xem có gì không nhưng thấy dưới chân vững chãi chẳng khác gì đi trên một con đường đá, hẳn là hang này do tay người tu sửa nên càng mừng hơn. Thế nhưng cái hang đi xeo xéo xuống dưới, càng lúc càng thấp. Đột nhiên tay chàng sờ phải một vật gì hình tròn lạnh ngắt, vội buông ra nghe keng một tiếng, âm thanh trong trẻo, đưa tay ra mò lại lần nữa thì ra là một cái vòng cửa.
Đã có vòng cửa ắt là cửa lớn, chàng hai tay sờ thấy đến hơn một chục cái đinh đồng to bắng cái bát, trong lòng vừa sợ vừa mừng: "Nếu bên trong cửa này có người ở thì thật là kỳ quái". Chàng cầm môn hoàn gõ mạnh ba cái keng keng keng, đợi một lát thấy không có ai trả lời, chàng lại gõ thêm ba cái nữa, rồi mới đưa tay đẩy cửa.
Cái cửa đó dường như đúc bằng đồng bằng sắt, rất nặng nề nhưng bên trong không cài then, chàng vừa ra sức đẩy cánh cửa đã từ từ mở ra. Chàng lớn tiếng gọi:
- Tại hạ Đoàn Dự, không được mời mà đến tự tiện xông vào quí phủ, mong được chủ nhân thứ tội.
Chàng đợi một lúc, không thấy bên trong có âm hao gì, liền cất bước tiến vào. Mặc dù chàng mở mắt trừng trừng nhưng không nhìn thấy gì cả, chỉ thấy mùi ẩm mốc xông vào mũi dường như nơi đây đã lâu không có người ở. Chàng đi tiếp về phía trước, đột nhiên bình một tiếng, trán đã đụng phải vật gì. Cũng may chàng đi rất chậm nên cũng không đau mấy, giơ tay sờ thử thì ra nơi đây lại có một cái cửa khác. Chàng vận sức vào tay từ từ đẩy cửa mở ra, thấy bên trong là một thạch thất hình tròn, ánh sáng từ bên trái chiếu qua nhưng chỉ mờ mờ không phải ánh sáng mặt trời.
Chàng đi đến chỗ có ánh sáng, bỗng thấy có một con tôm lớn bơi ngoài cửa sổ. Chàng lấy làm lạ, đi thêm mấy bước nữa, lại thấy một con cá chép hoa vằn vện bơi qua. Chàng nhìn kỹ cái cửa sổ đó thì ra là một khối thủy tinh lớn nạm vào trong đá, to phải bằng cái mâm, ánh sáng chính là từ khối thủy tinh đó chiếu vào.
Chàng ghé mắt nhìn qua khối thủy tinh ra ngoài thấy nước xanh biếc cuồn cuộn chảy qua, các loài cá tôm thủy tộc bơi qua bơi lại, nhìn tới cùng cũng không thấy đâu là bờ là bến. Chàng hiểu ngay, thì ra nơi chàng đang đứng là dưới đáy hồ, năm xưa người kiến tạo thạch thất này hao tốn không biết bao nhiêu công sức mới đem được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, khối thủy tinh này là một bảo vật thật khó kiếm.
Chàng định thần suy nghĩ bỗng dưng kêu khổ thầm: “Chết rồi, chết rồi! Ta chạy vào dưới đáy hồ, đường đi chỉ toàn giơ tay lần mò không biết qua bao nhiêu chỗ quẹo, chui xuống đây rồi làm thế nào mà trở ra?”.
Chàng quay đầu lại, chỉ thấy trong gian phòng này có để một chiếc bàn đá, đằng trước có một chiếc ghế con, trên bàn là một chiếc gương đồng , bên cạnh còn để lược, thoa các loại, xem ra là nơi ở của người khuê các. Chiếc gương đồng đã hoen rỉ xanh lè, trên bàn cũng đóng bụi dầy cả tấc, không biết đã bao lâu chưa hề có người lui tới.
Chàng thấy tình cảnh đó không khỏi sững sờ, nghĩ thầm: “Nhiều năm trước hẳn là có một người đàn bà ở chốn hẻo lánh này, không hiểu vì sao mà lại đau lòng rời xa nhân gian lui về ở ẩn. Ôi! Chắc hẳn là người đàn bà đứng múa kiếm bên vách đá kia”. Chàng nghĩ ngợi một hồi, coi kỹ lại thấy trong gian phòng hai phía đông tây treo đầy những gương đồng, đếm lại có đến hơn ba mươi tấm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc hẳn người đàn bà này là một giai nhân tuyệt thế, bạn tình chết đi rồi, sống lẻ loi vò võ ở chốn phòng khuê, ngày ngày chỉ còn biết cùng hình bóng của chính mình than thở. Tình cảnh đó thật là đau lòng xót dạ”.
Chàng đi đi lại lại trong gian phòng, khi thì tắc lưỡi, lúc thì thở dài thương cảm cho người chủ cũ. Một lúc sau, đột nhiên trong lòng chợt động: “Ồ, ta chỉ nghĩ đến cái đau lòng của người xưa, quên rằng chính mình thân lâm tuyệt cảnh”. Chàng lẩm bẩm một mình: “Đoàn Dự này quả là một thằng đàn ông thối tha, nếu như chết ở đây có phải là đường đột với giai nhân không, chết ở bên ngoài bờ hồ mới đúng. Kẻo rồi hậu nhân tìm đến, thấy khô lâu của ta, lại tưởng là nắm xương tàn của người đẹp, chẳng hóa ra ... chẳng hóa ra ...”.
Chàng chưa nghĩ ra “chẳng hóa ra” cái gì, thấy bên phía đông có một tấm gương treo hơi lệch phản chiếu ánh sáng, có hình góc tường phía tây nam, trên tường đá dường như có vết nứt. Chàng liền tiến đến, cố gắng đẩy bức tường đó, quả nhiên là một cánh cửa, từ từ mở ra, để lộ một cái hang. Chàng nhìn vào trong động, thấy có những bậc thang bằng đá.
Chàng vỗ tay reo lên, hoa chân múa tay một hồi rồi theo những bậc thang đó mà đi. Đi xuống chừng mươi bậc, mờ mờ phía trước dường như có một cánh cửa. Chàng giơ tay đẩy bỗng thấy sáng lòa, thất thanh kêu lên:
- Ối chao!
Trước mắt là một mỹ nữ ăn mặc theo lối người ở trong cung vua, tay cầm trường kiếm, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực chàng.
Qua một lúc lâu, chỉ thấy người đàn bà đó đứng yên không cử động, chàng định thần nhìn kỹ thấy nàng tuy hình dáng nghi biểu thật giống nhưng dường như không phải người sống, thu hết can đảm đến gần xem kỹ thì ra là một pho tượng bằng ngọc trắng. Pho tượng đó cũng to bằng người thật, tà áo lụa màu vàng nhạt hơi rung động, lạ nhất là đôi mắt trong sáng, thần thái linh hoạt. Đoàn Dự chỉ biết ấp úng:
- Xin lỗi! Xin lỗi! Tôi nhìn cô nương chăm chăm, thật là vô lễ.
Tuy biết là khiếm lễ nhưng mắt chàng vẫn không thể rời xa đôi mắt, không biết ngẩn ngơ đứng nhìn bao lâu, mới biết hai con ngươi tạc bằng bảo thạch màu đen, trong mắt tưởng như có quang thái lưu chuyển càng nhìn càng sâu thăm thẳm. Pho ngọc tượng này sở dĩ giống người thật như hệt, chỉ vì đôi mắt thật là linh động.
Những vân trên khuôn mặt pho tượng ngọc lại ẩn ẩn sắc hồng chẳng khác gì da dẻ người sống. Đoàn Dự nghiêng đầu ngó pho tượng, thấy ánh mắt của người đẹp cũng nhìn theo chẳng khác gì người thật. Chàng kinh hãi, nghiêng qua phía phải, đôi mắt của pho tượng dường như cũng đi theo. Dù chàng đứng ở phía nào thì đôi mắt pho tượng ngọc cũng chuyển hướng, ánh mắt thật là khó hiểu, không ra buồn mà cũng chẳng vui, dường như tràn đầy tình ý mà lại có vẻ ngậm ngùi.
Chàng ngơ ngẩn đứng nhìn, vái một cái thật sâu nói:
- Thần tiên tỉ tỉ, tiểu sinh Đoàn Dự hôm nay được trộm thấy phương dung, có chết cũng không có gì ân hận. Tỉ tỉ xa rời nhân thế một mình vò võ nơi đây, không tịch mịch lắm sao?
Bảo thạch trên đôi mắt pho tượng lung linh biến huyễn, tưởng như nghe được lời chàng nên tỏ ra chua xót. Lúc này Đoàn Dự đã mê mẩn tâm hồn, chẳng khác gì bị ma nhập, mắt như dính chặt vào pho tượng không rời nói. Chàng nghĩ thầm: “Không biết thần tiên tỉ tỉ xưng hô ra thế nào? Để coi chung quanh xem có lưu lại phương danh của tỉ tỉ chăng?”.
Chàng tra xét bốn bề, thấy bức tường bên phía đông viết đầy chữ nhưng không có bụng dạ nào mà xem, lại quay trở lại ngắm pho tượng ngọc bấy giờ mới hay tóc trên đầu pho tượng là tóc người thật, tóc mây từng cuộn bồng bềnh, lại rủ một chùm cong cong, bên cạnh cài một cái vòng ngọc, trên nạm hai hạt minh châu lấp lánh to bằng ngón tay. Trên tường cũng nạm đầy minh châu bảo thạch, chiếu sáng lẫn nhau, bên vách phía tây có sáu khối thủy tinh lớn, nhìn ra thấy nước thấp thoáng khiến cho gian phòng này so với gian phòng trước còn sáng hơn nhiều.
Chàng lại say sưa ngắm pho tượng ngọc một hồi rồi mới quay ra, thấy bức tường phía đông được mài nhẵn nhụi, trên khắc mấy hàng chữ đều lấy từ trong sách Trang Tử, các thiên Tiêu Dao Du, Dưỡng Sinh Chủ, Chí Lạc ... bút pháp phiêu dật dường như do một người nào đó có sức cổ tay rất mạnh dùng một vật nhọn khắc thành, nét nào nét nấy sâu vào trong đá đến nửa tấc. Cuối bài văn đó là một hàng lạc khoản đề: “Tiêu Dao Tử vi Thu Thủy muội thư. Động trung vô nhật nguyệt, nhân gian chí lạc dã”.
Đoàn Dự nhìn hàng chữ đó mà thừ người một hồi, nghĩ thầm: “Vị Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội hẳn là hai vị cao nhân nam nữ mấy chục năm trước cùng nhau múa kiếm dưới sơn cốc. Pho tượng ngọc có lẽ là người mà ông ta gọi là Thu Thủy muội, Tiêu Dao Tử được sống với bà ta ở nơi mật động dưới u cốc này, đúng là cực lạc của nhân gian. Thực ra thì đâu phải chỉ là chỗ cực lạc của nhân gian, mà ngay cả trên trời dễ gì có chỗ nào hơn”.
Mắt chàng nhìn đến mấy hàng chữ trên vách:
Miểu cô xạ chi sơn, hữu thần nhân cư yên. Cơ phu nhược băng tuyết, xước ước nhược xử tử, bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ.
(Ở nơi núi xa xăm mờ mịt, có thần nhân ở. Da trắng như tuyết, giữ mình như ngọc, không ăn ngũ cốc, hút gió uống sương)
Chàng lại quay đầu qua nhìn pho tượng nghĩ thầm: “Mấy câu này của Trang Tử đem ra để hình dung vị thần tiên tỉ tỉ quả thật đúng quá”. Chàng đi đến trước pho tượng, ngây ngất đứng nhìn, xem có đúng là nàng có da thịt trắng như tuyết không, chỉ tiếc là không được đưa một ngón tay ra vuốt ve thử, lòng như mê đi, thoang thoảng dường như ngửi thấy mùi lan xạ thơm ngát, vì yêu mà đâm ra kính trọng, từ kính trọng trở thành say đắm.
Một lúc sau chàng không nhịn nổi phải kêu lên:
- Thần tiên tỉ tỉ, tỉ tỉ có thể sống lại nói chuyện với ta một câu chăng, dù ta phải vì nàng mà chết một nghìn lần, một vạn lần thì cũng thực là vui sướng, hoan hỉ vô cùng.
Đột nhiên hai gối gập lại, quì xuống vái lạy. Chàng quì xuống rồi mới phát giác trước mặt pho tượng đã sẵn hai chiếc bồ đoàn, hẳn là để cho người ta chiêm bái, chỗ chàng quì là cái bồ đoàn lớn, dưới chân tượng còn một chiếc bồ đoàn nhỏ hơn, chắc để cho người ta rập đầu. Chàng rập đầu xuống mới thấy bên trong đôi giày của pho tượng hình như có thêu gì đó, nheo mắt xem kỹ mới thấy bên phải chiếc giày có những chữ:
Lạy ta nghìn lạy đi thôi,
Để ta sai khiến một đời chẳng sai.
Còn bên trái thì viết:
Hãy mau theo lệnh của ta,
Dù cho trăm chết chớ hề thở than.
Những chữ đó thêu bằng chỉ màu xanh đậm còn nhỏ hơn đầu con ruồi, hơi sậm hơn màu giày xanh lục một chút, trong ánh sáng mông lung của thạch thất nếu không rập đầu lại chăm chú nhìn cho kỹ thì không thể nào thấy được. Thế nhưng giá có phải lạy một nghìn lần thì âu cũng phải, còn để cho nàng sai phái thì cầu còn chưa được, huống chi tuân hành mệnh lệnh một mỹ nhân như thế này, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy cũng đâu có hối hận gì. Thành thử chàng không do dự, tâm thần mê mẩn cứ thế mà “năm, mười, mười lăm, hai mươi ...” mồm thì đếm, còn người thì cung kính lạy cho đủ số.
Chàng rập đầu đến năm, sáu trăm rồi thấy lưng đã mỏi, xương cốt đau nhức, cổ đã thấy cứng nhưng nghĩ thầm bằng giá nào mình cũng phải làm cho kỳ xong mới thôi. Mệnh lệnh đầu tiên của thần tiên tỉ tỉ đã không xong thì còn nói gì đến chuyện “dẫu chết trăm lần cũng không hối hận?”.
Đến lúc được trên tám trăm cái, mặt chiếc bồ đoàn nhỏ đã sờn, lộ ra bên dưới có vật gì đó. Chàng không để ý đến, vẫn cứ cung cung kính kính lên gối xuống gối cho đủ một nghìn lần. Khi xong rồi thấy lưng mỏi nhừ, vừa ngóc đầu đã khuỵu ngay xuống.
Chàng nằm lăn ra nghỉ cho lại sức, thấy mình đã tuân hành được một chuyện của người ngọc, chân càng chồn, gối càng mỏi thì trong lòng càng sung sướng. Qua một lúc sau chàng mới từ từ trở dậy, giơ tay mò vào chỗ rách của cái tiểu bồ đoàn thấy vật gì trơn nhẵn hóa ra là một cái túi bằng lụa nghĩ thầm: “Thì ra thần tiên tỉ tỉ đã sắp xếp, nếu ta không lạy đủ một nghìn cái thì cái đệm nhỏ này đâu có rách, vật báu của nàng tặng cho ta đâu có lộ ra được”. Chàng xưa nay châu báu ngọc ngà có coi vào đâu nhưng cái túi này là của thần tiên tỉ tỉ ban cho, dẫu bên trong chỉ là lá khô, cỏ mục, vải rách giấy vụn thì chàng cũng coi như quí giá nhất đời. Chàng lôi cái túi ra, hai tay bưng lên ngang ngực.
Cái túi đó dài chừng một thước, trên nền lụa trắng viết mấy chữ nhỏ:
“Ngươi đã lạy ta đủ một nghìn lần thì hãy tuân theo mệnh lệnh của ta suốt đời không hối hận, cuộn này là tinh yếu võ công của phái Tiêu Dao, mỗi ngày ba lần những giờ mão, ngọ, dậu cố gắng tu tập, nếu như biếng nhác thì ta thật đau lòng. Thần công thành tựu rồi, hãy tới Lang Hoàn Phúc Địa đọc cho kỳ hết các điển tịch nơi đây để biết hết gia số các môn phái trong thiên hạ mà dùng. Đừng gấp gáp, cứ thư thả, học xong rồi hạ sơn, giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, nếu sót một người thì ta ở trên trời dưới đất cũng khắc khoải chưa tiêu mối hận”.
Hay tay chàng run rẩy cầm cái bọc lụa nghĩ thầm: “Như thế là thế nào? Ta vốn đã không muốn học võ, còn việc giết sạch người của phái Tiêu Dao thì lại càng không thể làm được. Thế nhưng mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ lẽ nào không tuân hành? Ta đã rập đầu đủ một nghìn lần nghĩa là bằng lòng tuân theo mệnh lệnh của nàng ta, để cho người sai sử. Thế nhưng nàng bảo ta học võ giết người, biết làm sao đây?”.
Trong đầu chàng lúc này thật rối như tơ vò, nghĩ tiếp: “Nàng bảo ta học võ của phái Tiêu Dao, rồi lại bảo ta đi giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, thật là lạ lùng thay. Ôi, chắc là sư huynh sư đệ, sư tỉ sư muội trong phái Tiêu Dao của nàng làm nàng khốn khổ cho nên nàng mới mong báo thù. Nàng đến lúc chết vẫn chưa nguôi mối hận nên mới tính chuyện thu đệ tử để thay mình hoàn thành tâm nguyện. Những kẻ đó làm hại thần tiên tỉ tỉ đến điều như thế, hẳn là xấu xa, gian ác nhất trên đời có giết cho hết thì cũng phải. Khổng phu tử có nói: Dĩ trực báo oán , chính là như thế. Cha ta cũng nói rằng, nếu gặp kẻ xấu xa gian tà, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nếu như không biết võ công thì có khác gì để cho người ta đâm chém gì cũng được. Câu đó xem ra không sai chút nào”.
Khi cha chàng ép chàng học võ, chàng đem ra đủ các đạo lý của nhà nho, nhà Phật nhất định không chịu học. Cha chàng sách vở không thông hiểu bằng chàng nên không sao biện giải được. Lúc này chàng vì say mê pho tượng ngọc mới nhận rằng lời cha là đúng.
Chàng nghĩ tiếp: “Thần tiên tỉ tỉ qui tiên đã mấy chục năm, chắc gì trên đời này còn phái Tiêu Dao? Người đời có nói: “Ác hữu ác báo” biết đâu những kẻ ác quán mãn doanh kia chẳng cần phải ta ra tay giết cũng đã chết cả rồi. Nếu không còn đệ tử phái Tiêu Dao, tâm nguyện của thần tiên tỉ tỉ đã hoàn thành, nàng ở trên trời dưới đất đâu có còn canh cánh khắc khoải nữa”.
Chàng nghĩ ra như thế rồi trong lòng cảm thấy dịu lại, khấn thầm: “Thần tiên tỉ tỉ, những việc tỉ tỉ sai bảo, Đoàn Dự này dĩ nhiên phải tuân theo không dám lỡ làng, nhưng mong rằng tỉ tỉ pháp lực vô biên, đệ tử phái Tiêu Dao ai nấy đều không bệnh hoạn mà chết cả rồi”.
Chàng hồi hộp mở cái bọc gấm ra, bên trong là một cuộn lụa cuốn tròn. Chàng mở cuộn lụa, hàng chữ đầu tiên viết “Bắc Minh thần công”, nét chữ mềm mại nhưng có lực, so với hàng chữ bên ngoài túi không khác gì. Bên dưới viết tiếp:
Trang Tử Tiêu Dao Du có viết:
Ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn vài nghìn dặm, không ai nhìn thấy bao giờ.
Lại viết:
Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ một chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn.
Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu nghĩa đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn. Những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập.
Đoàn Dự khen ngợi:
- Đoạn này thần tiên tỉ tỉ viết thật là rõ ràng.
Chàng nghĩ thầm: “Bắc Minh thần công là công phu tu luyện nội lực, có học cũng không sao”. Tay trái chàng lần từ từ giở cuộn vải ra, đột nhiên “A” lên một tiếng, tim đập thình thình rồi mặt đỏ bừng, người nóng hổi. Thì ra trên tấm lụa là hình vẽ một người con gái nằm ngang, thân thể không một mảnh vải, diện mạo chẳng khác gì pho tượng ngọc. Đoàn Dự cảm thấy nếu như mình còn nhìn lâu thêm không khỏi coi thường thần tiên tỉ tỉ nên vội vàng cuộn lại không coi nữa. Một hồi sau chàng mới nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ có dặn là những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập, ta cũng chỉ theo lệnh mà làm không thể coi là bất kính”.
Chàng run run đưa tay mở cuộn vải ra, thấy bức hình người con gái khỏa thân kia như mỉm cười, đầu mày cuối mắt, trên môi trên má thật là kiều mị, so với pho tượng khuôn mặt trang nghiêm tuy dung mạo có giống nhưng thần tình khác hẳn. Chàng tưởng như thấy ngực mình rộn ràng, nghe được cả tiếng tim đập, liếc mắt nhìn trộm bức hình, thấy có một đường chỉ nhỏ màu xanh từ trên vai trái vòng xuống dưới cổ rồi chạy xéo xuống vú bên phải.
Chàng nhìn đến đôi nhũ hoa đầy đặn của người đẹp trong lòng thảng thốt, vội vàng nhắm mắt lại, một lát sau mới he hé nhìn thấy sợi chỉ xanh đó chạy xuống dưới nách rồi kéo dài đến tận cánh tay phải, qua cổ tay tới ngón tay cái mới ngừng. Chàng càng nhìn càng yên bụng, nghĩ thầm mình nhìn bàn tay, ngón tay của thần tiên tỉ tỉ thì không sao nhưng nghĩ đến cánh tay trắng muốt trong lòng không khỏi rộn ràng.
Lại có một sợi chỉ xanh khác từ cổ đi xuống, qua bụng rồi đi tiếp nữa tới cách rốn mấy tấc mới ngừng. Đoàn Dự không dám nhìn sợi dây đó lâu, chăm chú nhìn đường trên cánh tay, thấy bên cạnh sợi dây ghi đầy những chữ nhỏ, nào Vân Môn, Trung Phủ, Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế ... đến Thiếu Thương ở ngón tay cái thì ngừng lại. Chàng bình thời thường nghe cha mẹ bình luận võ công, tuy không lưu ý nhưng vào tai cũng đã nhiều biết ngay Vân Môn, Trung Phủ ... đều là tên các huyệt đạo trên thân thể con người.
Chàng mở thêm một chút thấy bên dưới có một hàng chữ:
Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình. Nước lớn biển bắc không phải tự nhiên mà có. Lời rằng: Trăm sông đổ vào biển, nước của biển sở dĩ có là vì dung chứa nước của trăm sông. Biển cả bao la cũng là vì biết tích tụ. Thủ Thái Âm Phế Kinh này là bài học đầu tiên của Bắc Minh thần công.
Bên dưới viết kỹ phương pháp luyện môn công phu này. Sau cùng chép:
Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình vào tới các huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta tức là nước biển chảy ngược vào sông hồ cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận. Bàng chi trong bản phái không biết được đạo lý này nên chỉ biết làm tiêu hao nội lực kẻ địch mà không biết đưa vào để dùng cho mình, khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì chẳng nực cười ru!”.
Đoàn Dự thở dài một tiếng, mang máng thấy công phu này dường như không được quang minh, lấy nội lực của người làm của mình có khác gì ăn cắp tài vật người ta ư? Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Cái thí dụ của thần tiên tỉ tỉ thật là đúng, trăm sông đổ vào biển đấy là do tự ý chảy vào chứ biển cả có cướp đoạt nước của sông đâu. Ta lại cho rằng thần tiên tỉ tỉ đi lấy của người khác, thật là lếu láo, đáng đánh đòn!”.
Chàng giơ tay lên, vả ngay vào mặt mình một cái, má trái liền sưng lên thật là đau, lại vả bên phải một cái nữa nhưng nhẹ hơn, nghĩ thầm: “Kẻ xấu xa tàn ác dám mạo phạm đến thần tiên tỉ tỉ, thần tiên tỉ tỉ bèn lấy nội lực của chúng để dùng chính là bẻ nanh bẻ vuốt bọn chúng, có khác gì cướp con dao trong tay tên đồ tể ch


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:44 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
sang bước kia có một đường dây xuyên qua, trên đường đó có dấu mũi tên xem ra là một loại bộ pháp phức tạp. Sau cùng là một hàng chữ viết:
Nếu gặp phải cường địch, thì dùng cái này để bảo vệ chính mình, tích thêm nội lực sau đó sẽ quay lại giết kẻ địch.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bộ pháp của thần tiên tỉ tỉ để lại ắt thật là tinh diệu, khi gặp cường địch đào tẩu thoát thân thật tốt biết bao còn như việc “sau đó sẽ quay lại giết kẻ địch” bất tất phải nghĩ đến”.
Chàng cuộn tấm lụa lại, để lên vái hai cái rồi trịnh trọng bỏ vào trong túi, quay sang nói với pho tượng ngọc:
- Thần tiên tỉ tỉ dặn ta sáng trưa chiều ba lần luyện công, Đoàn Dự này không dám trái lời. Từ nay trở đi đối với người khác sẽ hết sức nể nang để cho người khác khỏi đánh, khỏi phải hút nội lực của người ta. Còn Lăng Ba Vi Bộ kia ta sẽ gia tâm luyện cho thành thục, nếu thấy không xong, lập tức chạy ngay khỏi phải hút nội lực của họ”.
Còn lời dặn “giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao” chàng không dám nghĩ đến. Chàng thấy bên trái có một cái cửa hình tròn nên chậm rãi đi vào, bên trong lại là một gian thạch thất khác, trong đó có một chiếc giường đá, trước giường để một cái nôi bằng gỗ nho nhỏ. Chàng ngơ ngẩn nhìn chiếc nôi đó nghĩ thầm: “Không lẽ thần tiên tỉ tỉ lại có con ư? Không phải, không phải, một cô nương xinh đẹp như thế, làm sao lại sinh con được?”. Chàng nghĩ đến người thần tiên tỉ tỉ “giữ mình như ngọc” kia lại có con không khỏi cực kỳ thất vọng, nhưng lại nghĩ ngay: “A, đúng rồi! Đây chắc là cái nôi của thần tiên tỉ tỉ nằm khi nàng còn bé, do cha mẹ nàng làm cho nàng. Hai người Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội chắc là song thân, đúng rồi, chắc là thế đó”. Chàng cũng không thèm nghĩ thêm xem những điều mình suy đoán có gì sơ xuất hay không nên tinh thần lại trở nên cao hứng.
Trong gian phòng này không có chăn gối quần áo gì, trên tường có treo một cây thất huyền cầm, dây đã đứt cả. Bên cạnh giường lại có một cái bàn đá, trên bàn khắc mười chín đường bàn cờ, trên còn sắp xếp đến hơn hai trăm quân, trắng đen đang kịch liệt xem ra chưa rõ được thua.
Đàn còn đó, cờ chưa xong mà giai nhân mờ mịt nơi nào. Đoàn Dự đứng sững sờ trong gian thạch thất, không khỏi bi thương, hai hàng lệ chảy dài trên má. Bỗng dưng chàng lại hoảng hốt: “Trời ôi! Nếu có bàn cờ, ắt phải có hai người giao đấu, e rằng thần tiên tỉ tỉ chính là Thu Thủy muội, cùng chồng là Tiêu Dao Tử ngồi đây đánh cờ. Ôi thôi! Thật là ... thật là ... Ồ, đúng rồi! Bàn cờ này không phải hai người đánh mà là thần tiên tỉ tỉ ở một mình nơi u cốc, tịch mịch không có gì làm, nên đánh cờ một mình. Thần tiên tỉ tỉ, năm xưa sao nàng không gọi lên vài tiếng? Đoàn Dự này nghe tiếng oanh êm ả, thể nào chẳng vào trong sơn cốc hầu cờ cùng tỉ tỉ?”. Chàng đến bên coi kỹ lại cuộc cờ, không ngờ càng xem càng kinh hãi.
Cuộc cờ đó biến hóa phiền phức không đâu sánh kịp, là thế cờ mà dịch nhân vẫn gọi là Trân Lung, hai bên tuy hết sức tranh đoạt nhưng vẫn có đường sống lại có kế lâu dài. Đoàn Dự đã từng nghiên cứu về cờ vây mấy năm qua, có lúc mê mẩn đã từng đánh cờ với Thôi tiên sinh trong nhà. Chàng vốn thông minh nên lúc đầu Thôi tiên sinh chấp chàng bốn quân mà sau một năm đã chấp lại ông ta ba quân, kỳ lực có thể nói là một tay cao thủ trong nước Đại Lý. Thế nhưng bàn cờ trước mắt rồi sẽ ra sao vẫn không thể nào nghĩ cho ra, bên đen trông như thắng mà bên trắng lại cũng có cách lật ngược lại. Chàng đứng trông hồi lâu, thế cờ càng lúc càng mờ mịt, thấy có hai chân đèn trên còn hai cây nến cháy dở, bên cạnh có cả hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi nên đánh lửa lên đốt đèn coi cho rõ. Chàng xem đến khi đầu váng mắt hoa, trong bụng bực bội.
Đoàn Dự đứng lên, vặn lưng cho bớt mỏi bỗng giật mình: “ Bàn cờ thế này khó quá, dù ta có nghĩ thêm tám ngày mười ngày chưa chắc đã giải nổi, đến lúc đó tính mạng mình đã không còn mà Chung cô nương thì cũng đã bị Thần Nông Bang chôn sống”. Chàng biết rằng nếu còn ngồi coi nữa thì không biết bao giờ mới nhãng ra được nên đành quay ra, tiện tay cầm luôn cây đèn không để mắt vào bàn cờ nữa, trong lòng đột nhiên mừng như điên cuồng: “Đúng rồi! Đúng rồi! Bàn cờ này phức tạp đến thế, chắc là thần tiên tỉ tỉ tự mình sắp đặt một thế Trân Lung, chứ nào có phải hai người đánh với nhau mà thành, quả thật hay quá!”.
Chàng ngửng đầu lên thấy dưới chân giường lại cũng có một cái cửa hình tròn, tường bên cạnh có bốn chữ Lang Hoàn Phúc Địa. Chàng nhớ đến câu thần tiên tỉ tỉ viết bên ngoài cuộn lụa, nghĩ thầm: “Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa ở ngay đây. Thần tiên tỉ tỉ có nói là điển tịch các môn phái trong thiên hạ đều có ở trong này. Ta đâu muốn học võ công, những điển tịch đó không xem là hơn. Thế nhưng thần tiên tỉ tỉ đã dặn đâu có thể nào trái lời”. Chàng bèn cầm đuốc tiến vào trong phòng đó.
Vừa bước chân vào Đoàn Dự đưa mắt nhìn bốn phía thở hắt ra khoan khoái, trong lòng nhẹ hẳn đi. Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa là một cái thạch động thật lớn, to gấp mấy lần những phòng ở bên ngoài, trong bày đầy những giá sách bằng gỗ có điều trên những kệ đó trống trơn, không còn một quyển nào. Chàng bưng cây nến lại gần thấy trên giá có cắm đầy những thẻ, nào là “Côn Lôn Phái”, “Thiếu Lâm Phái”, “Tứ Xuyên Thanh Thành Phái”, “Sơn Đông Bồng Lai Phái” ... bên trong có cả “Đại Lý Đoàn Thị”. Thế nhưng trong chiếc thẻ đề “Thiếu Lâm Phái” thì có chú thích “Thiếu Dịch Cân Kinh”, trong thẻ đề “Cái Bang” thì chú thích “Thiếu Hàng Long Thập Bát Chưởng”, còn thẻ đề “Đại Lý Đoàn Thị” thì ghi chú “Thiếu Nhất Dương Chỉ, Lục Mạch Thần Kiếm Kiếm Pháp, thật đáng tiếc”.
Như vậy hẳn là năm xưa trên những kệ sách này chất đầy đồ phổ, kinh sách của các môn phái nhưng nay đã bị người nào đó khuân đi hết rồi chỉ còn giá không. Thấy thế lòng Đoàn Dự tưởng như trút được tảng đá, vui sướng không để đâu cho hết: “Nếu như không còn võ công điển tịch nữa thì ta không học võ công cũng không thể nói là không tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ”. Thế nhưng trong lòng chàng bỗng cảm thấy hổ thẹn: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi vì không phải tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ mà lấy làm vui thì đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công điển tịch đáng lẽ phải thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung sướng là sao? Thần tiên tỉ tỉ trên trời dưới đất nếu có linh thiêng ắt sẽ không bằng lòng”.
Chàng thấy Lang Hoàn Phúc Địa này không có cửa ra, bèn quay lại gian phòng có pho tượng ngọc, vừa mới nhìn vào đôi mắt người đẹp, tâm hồn lại say mê điên đảo, ngơ ngẩn một hồi mới vái một cái thật sâu nói:
- Thần tiên tỉ tỉ, hôm nay ta có việc quan trọng đành phải tạm biệt, sau khi cứu xong Chung cô nương rồi, sẽ quay lại tụ hội với tỉ tỉ.
Chàng đành cầm chúc đài hăng hái ra khỏi thạch thất, vừa mới toan tìm đường đi thấy bên cạnh có một hàng bậc thang bằng đá chênh chếch đi lên, lúc đầu mắt vẫn còn dán chặt vào pho tượng ngọc nên không để tâm đến những thạch cấp. Mỗi bước đi lại dùng dằng do dự, biết bao nhiêu lần chàng toan quay lại nhìn pho tượng mỹ nhân, nhưng rồi nghiến răng hạ quyết tâm mới khắc chế được nỗi thèm muốn.
Đi được chừng hơn một trăm bước, qua ba khúc quẹo, nghe văng vẳng tiếng rì rầm ỳ ào của nước chảy, lại thêm hai trăm bậc nữa thì ầm ầm điếc cả tai, trước mắt có ánh sáng chiếu vào. Chàng càng đi nhanh hơn đến hết các bậc thang, trước mặt là một cái lỗ hổng chui lọt người, thò đầu ra thăm dò bỗng sợ đến tim đập thình thình.
Chàng vừa nhìn ra thấy bên ngoài sóng nước cuồn cuộn gầm rú, nước chảy rất xiết chính là một con sông lớn. Hai bên bờ sông là vách đá dựng, đứng sừng sững xem tình hình này đã đến bờ sông Lan Thương. Chàng vừa kinh hoàng, vừa vui sướng, từ từ chui ra khỏi động thấy chỗ đang đứng cao hơn mặt nước sông đến mươi trượng, nước sông có dâng lên cũng không thể nào tràn vào được nhưng nếu muốn đến được bờ sông cũng không phải dễ dàng. Chàng bèn dùng cả tay lẫn chân bò men lên, đồng thời đưa mắt nhìn tứ phía ghi nhớ kỹ cảnh vật để khi cứu người xong sẽ quay lại chốn này. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ nay mỗi năm ta để vài tháng vào trong hang này làm bạn với thần tiên tỉ tỉ”.
Bờ sông toàn là đá núi, không có đường đi, chập choạng leo lên leo xuống đi được chừng bảy, tám dặm. Chàng trông thấy một cây đào hoang, trên cành đầy trái nên hái ăn thật no, tinh thần phấn chấn đi thêm được mươi dặm nữa mới gặp một con đường mòn nhỏ. Chàng men theo con đường đó mãi đến lúc chiều tối mới gặp một chiếc cầu treo bằng xích sắt ngang qua sông, trên tảng đá bên cạnh cầu có khắc ba chữ lớn “Thiện Nhân Độ”.
Chàng rất mừng, con đường Chung Linh chỉ cho phải qua cầu treo Thiện Nhân Độ, như vậy đường chàng đang đi là đúng rồi. Chàng bèn bám sợi dây xích bước lên trên cầu. Cây cầu đó có cả thảy bốn sợi dây xích, hai sợi bên dưới để lát gỗ để đi qua, còn hai sợi ở hai bên là để vịn. Chàng vừa đặt chân, cây cầu đã đong đưa, đến giữa sông lại càng chao đảo, hé mắt nhìn thấy nước sông cuồn cuộn, sủi lên bao nhiêu là bọt nước, chẳng khác nào một bầy ngựa hoang chạy dưới chân, chỉ lỡ bước một cái là lộn nhào xuống sông dù bơi lội giỏi đến chừng nào cũng không sao thoát chết được.
Chàng không dám nhìn xuống nữa, chăm chăm hướng về phía trước, lập cập niệm tụng: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” từng bước từng bước lần mãi cũng qua được bên kia.
Chàng ngồi nghỉ một lát rồi cứ theo đường Chung Linh chỉ mà đi cho nhanh. Đi chừng hơn nửa giờ thấy trước mặt là một khu rừng rậm biết là đã đến cửa Vạn Kiếp Cốc, nơi Chung Linh ở. Chàng đến gần quả nhiên thấy một hàng chín cây cổ tùng vươn lên cao vút. Chàng đếm từ bên phải đến cây thứ tư, theo đúng lời Chung Linh chỉ điểm, vòng qua phía sau vạch đám cỏ dài, quả nhiên trên cây có một cái hang, nghĩ thầm: “Cái Vạn Kiếp Cốc này quả thật kín đáo, nếu không được Chung cô nương cho hay thì nào ai biết được cửa cốc lại ở ngay một cây tùng”.
Chàng tiến vào cửa hang, một tay vạch cỏ ra tay phải mò thấy một cái vòng sắt lớn, dùng sức kéo lên, mộc bản liền mở bên dưới là một hàng bực thang bằng đá. Chàng đi xuống mấy bậc rồi hai tay lại nâng cánh cửa gỗ để lại chỗ cũ, tiếp tục đi xuống, khoảng chừng ba mươi bước thì đường ngoặt qua phía phải, sau mấy trượng lại trồi trở lên nghĩ thầm: “Ở đây làm bậc đá so với thần tiên tỉ tỉ kiến tạo những nấc thang trong hang thật dễ hơn nhiều”. Chàng đi lên chừng ba mươi bậc thì đến một khoảng đất bằng.
Trước mắt chàng thấy một bãi cỏ rộng, xa xa là những cây tùng. Chàng đi qua cánh đồng thấy một cây tùng lớn trên bạt đi một mảng vỏ dài chừng một trượng, ngang chừng một thước trên sơn trắng viết một hàng chữ lớn: “Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha”. Những chữ khác đều màu đen, riêng chữ “giết” lại màu đỏ.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao cốc chủ lại hận thù họ Đoàn ta đến thế? Dẫu như có người họ Đoàn đắc tội với y nhưng trên đời này người họ Đoàn hàng nghìn, hàng vạn, đâu phải gặp ai cũng giết”. Khi đó trời đã tối, những chữ đó trông như giơ nanh, múa vuốt, chữ giết kia màu đỏ chói trông chẳng khác gì rải đầy máu tươi, trông thật ghê rợn. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung cô nương bảo ta đừng xưng mình họ Đoàn thì ra là thế. Cô ta bảo mình gõ vào chữ thứ ba ba lần, tức là phải gõ vào chữ Đoàn. Lúc đó nàng không nói rõ ra, sợ ta nổi giận. Gõ thì đã sao, đánh cũng còn được. Nàng cứu mạng ta chẳng nói chi gõ vào chữ Đoàn ba lần mà có đánh cho Đoàn Dự này ba cái cũng không hề hấn gì”.
Chàng thấy trên cây có đóng một cái đinh, trên đinh treo một cái búa nhỏ, liền lấy xuống gõ vào chữ Đoàn một cái. Cái búa gõ xuống nghe tiếng kim loại vang lên, Đoàn Dự không đề phòng phải giựt nảy người, mới hay bên dưới chữ đoàn là một miếng sắt, phía sau rỗng, chỉ vì bên ngoài sơn trắng nên không nhìn ra. Chàng gõ thêm hai lần nữa rồi treo cái búa lại chỗ cũ.
Qua một lát đằng sau cây tùng có tiếng một thiếu nữ kêu lên:
- Tiểu thư về rồi!
Giọng nói nghe đầy vẻ vui mừng. Đoàn Dự nói:
- Tôi nhận lời ủy thác của Chung cô nương đến xin được gặp cốc chủ.
Cô gái kia “Ồ” một tiếng xem chừng như kinh ngạc lắm, ấp úng:
- Ngươi ... ngươi là người ngoài ư? Tiểu thư nhà ta đâu?
Đoàn Dự không nhìn thấy người cô ta, nói:
- Chung cô nương gặp phải hung hiểm tôi tới đây báo tin.
Thiếu nữ kinh hãi hỏi lại:
- Nguy hiểm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Chung cô nương bị người ta bắt giữ, e rằng nguy hiểm đến tính mạng.
Thiếu nữ kêu lên:
- Trời ơi! Ngươi ... ngươi ... ngươi chờ một chút, để ta vào báo cho phu nhân.
Đoàn Dự đáp:
- Thế thì hay lắm.
Chàng nghĩ thầm: “Chung cô nương vốn dĩ muốn mình gặp mẹ nàng trước”. Chàng đứng đó một hồi thì nghe đằng sau cây có tiếng chân người gấp gáp, rồi giọng thiếu nữ hồi nãy nói:
- Phu nhân xin mời.
Cô gái bước ra, trông chừng mười sáu mười bảy, ăn mặc theo lối a hoàn nói:
- Tôn khách ... công tử xin đi theo tôi.
Đoàn Dự hỏi:
- Chẳng hay tỉ tỉ tên gọi thế nào?
Cô gái xua tay, ý nói không thể tiết lộ. Đoàn Dự thấy cô gái có vẻ sợ hãi nên không dám hỏi thêm nữa. Người tớ gái đó dẫn Đoàn Dự đi ngang qua một khu rừng cây, theo một con đường mòn đi về hướng trái đến trước một gian nhà ngói. Cô ta đẩy cửa quay sang vẫy Đoàn Dự rồi đứng tránh qua một bên nhường chàng đi trước. Đoàn Dự đi đến bên cửa thấy đó là một gian sảnh nhỏ, trên bàn có để một đôi nến lớn. Sảnh tuy nhỏ nhưng bày biện tinh nhã. Chàng ngồi xuống rồi, người a hoàn kia liền bưng trà lên nói:
- Mời công tử dùng trà, phu nhân sẽ ra gặp ngay.
Đoàn Dự nhấp hai ngụm thấy ở phía đông treo một bộ tứ bình trên vẽ mai lan cúc trúc bốn loại hoa cỏ nhưng thứ tự lại xếp thành lan, trúc, cúc, mai; bên phía tây có bốn bức tranh vẽ xuân hạ thu đông nhưng lại treo thành đông, hạ, xuân, thu nghĩ thầm: “Cha mẹ của Chung cô nương là con nhà võ, không rành thư họa, cũng không có gì lạ”.
Chỉ nghe thấy tiếng vòng leng keng, từ bên trong đi ra một người đàn bà mặc áo dài màu xanh nhạt, tuổi chừng ba mươi sáu, ba mươi bảy, mặt mày thanh tú, rất giống Chung Linh nên biết ngay đó là Chung phu nhân. Đoàn Dự đứng lên vái một cái thật sâu nói:
- Vãn sinh Đoàn Dự, bái kiến bá mẫu.
Chàng vừa nói xong, mặt liền biến sắc, bụng kêu thầm: “Chao ôi! Sao ta lại xưng tên thật của mình thế này? Ta chỉ chăm chăm xem bà ta có giống Chung Linh hay không, quên bẵng đi là mình phải dùng tên giả".
Chung phu nhân ngạc nhiên, kéo vạt áo lên đáp lễ nói:
- Công tử vạn phúc.
Rồi lập tức hỏi lại ngay:
- Cậu ... cậu họ Đoàn?
Vẻ mặt có chiều khác lạ. Đoàn Dự đã báo tính danh rồi, có muốn nói láo thì cũng đã muộn, đành nói:
- Vãn sinh họ Đoàn.
Chung phu nhân nói:
- Công tử quê quán ở đâu? Lệnh tôn xưng hô thế nào?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hai việc này ta phải nói láo mới được để bà ta khỏi tìm ra thân thế mình”. Chàng bèn nói:
- Vãn sinh người ở phủ Lâm An, đất Giang Nam, gia phụ tên chỉ có một chữ Long.
Mặt Chung phu nhân lộ vẻ hoài nghi nói:
- Thế sao giọng nói của công tử nghe như tiếng người Đại Lý?
Đoàn Dự đáp:
- Vãn sinh đã ở Đại Lý ba năm rồi, học nói khẩu âm bản địa e rằng không được giống lắm, mong phu nhân đừng cười.
Chung phu nhân hừ một tiếng nói:
- Nghe giọng giống lắm, thật chẳng khác gì người chính gốc ở đây đủ biết công tử quả là thông minh. Mời công tử ngồi.
Hai người ngồi xuống rồi, Chung phu nhân nhìn trái nhìn phải chăm chăm đánh giá chàng khiến cho Đoàn Dự đâm ra ngượng nghịu nói:
- Vãn sinh trên đường đi gặp hung hiểm khiến cho áo quần rách rưới, quả thực thất lễ. Lệnh ái đang gặp hiểm nguy vãn sinh vội đến báo tin, việc quá gấp gáp không kịp thay đổi y quan xin phu nhân thứ tội.
Chung phu nhân thần sắc đang hoảng hốt nghe thấy thế như từ một giấc mơ choàng tỉnh dậy, lật đật hỏi:
- Tiểu nữ ra sao?
Đoàn Dự lấy trong túi ra đôi giày hoa của Chung Linh nói:
- Chung cô nương đưa cho vãn sinh vật này để làm tin đến bái kiến phu nhân trước.
Chung phu nhân cầm lấy đôi giày nói:
- Đa tạ công tử, không biết tiểu nữ gặp phải chuyện gì?
Đoàn Dự bèn đem chuyện chàng gặp Chung Linh ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng như thế nào, mình xen vào việc của Thần Nông Bang ra sao để Chung Linh bị bắt buộc phải sai con thiểm điện điêu ra cắn người rồi nàng phải nhờ mình đi cầu cứu, bị rơi vào hang núi mấy ngày qua nhưng không nhắc đến pho tượng ngọc trong động đá.
Chung phu nhân lặng lẽ ngồi nghe, vẻ mặt mỗi lúc một thêm lo lắng, đợi Đoàn Dự nói xong mới chậm rãi thở dài một tiếng nói:
- Cái con bé cứ ra khỏi nhà là gây chuyện.
Đoàn Dự nói:
- Chuyện này toàn do vãn sinh mà ra, không thể trách Chung cô nương được.
Chung phu nhân chăm chăm nhìn chàng, khẽ nói:
- Đúng thế, cũng chẳng nên trách nó làm gì, năm xưa ... năm xưa ta cũng thế ...
Đoàn Dự hỏi:
- Cái gì?
Chung phu nhân đôi má ửng hồng, bà ta tuy tuổi đã trung niên nhưng nét e thẹn cũng không khác gì một cô gái nhỏ, bẽn lẽn nói:
- Ta ... ta nhớ đến một chuyện cũ.
Bà nói tới đây, mặt càng đỏ hơn vội nói trớ ra:
- Ta ... ta nghĩ chuyện này .... xem ra ... thật khó lòng.
Đoàn Dự thấy bà ấp úng nghĩ thầm: “Thì chuyện này quả khó lòng, nhưng có gì đâu mà sao bà ta lại thẹn thùng đến thế. Con gái bà xem ra còn già dặn hơn nhiều”.
Ngay lúc đó, từ bên ngoài cửa có tiếng một người đàn ông ồm ồm nói:
- Hay nhỉ, Tiến Hỉ Nhi lại bị người ta giết là sao?
Chung phu nhân giật mình kinh hãi, nói nhỏ:
- Ngoại tử đến rồi, ông ta ... ông ta đa nghi lắm, Đoàn công tử tạm tránh qua một bên.
Đoàn Dự nói:
- Vãn sinh thể nào cũng phải bái kiến tiền bối, chi bằng ...
Chung phu nhân giơ tay ra bịt miệng chàng lại, tay kia cầm chàng kéo qua căn phòng phía đông, nói:
- Cậu trốn ở đây, tuyệt đối không được mở miệng nói năng. Ngoại tử tính nóng như lửa, có gì sơ xẩy tính mạng cậu e khó mà bảo toàn, dẫu ta cứu cũng không được.
Bà ta tuy hình dung mảnh dẻ nhưng một thân đầy võ công, vừa nắm vừa lôi, Đoàn Dự không sao kháng cự được, chỉ đành chịu một phép, trong bụng hơi bực bội: “Ta đường xa tới đây báo tin, dẫu sao cũng là một người khách, lấp lấp ló ló trốn nơi đây, có khác gì thằng ăn trộm vặt?”.
Chung phu nhân quay sang nhìn chàng mỉm cười vẻ thật ôn nhu. Đoàn Dự thấy nụ cười đó liền hết giận, gật đầu. Chung phu nhân quay mình đi ra khép cửa phòng trở lại khách sảnh.
Chỉ nghe thấy tiếng bước chân hai người đi vào trong phòng, một giọng đàn ông cất tiếng chào:
- Phu nhân!
Đoàn Dự nhìn qua khe tường thấy một người chừng ba mươi tuổi ăn mặc theo lối gia nhân, vẻ mặt kinh hoàng. Một người đàn ông khác mặc áo đen, vừa cao vừa gầy, mặt quay ra ngoài nên chàng không nhìn rõ tướng mạo chỉ thấy hai bàn tay to như hai cái quạt nan xuôi theo mình, trên lưng bàn tay nổi đầy gân xanh, nghĩ thầm: “Bàn tay cha Chung cô nương to thật”.
Chung phu nhân hỏi:
- Tiến Hỉ Nhi chết rồi ư? Có chuyện gì thế?
Người kia đáp:
- Lão gia sai Tiến Hỉ Nhi và tiểu nhân đến Bắc Trang đón khách. Lão gia nói là tất cả có bốn người, hôm nay lúc trưa mới có một vị, nói là họ Nhạc. Lão gia từng dặn nếu gặp họ Nhạc thì chào là “tam lão gia”. Tiến Hỉ Nhi tiến lên cung kính gọi “tam lão gia”. Ngờ đâu người đó bỗng nổi cơn lôi đình, quát lớn: “Ta là Nhạc lão nhị, cớ gì lại gọi ta là tam lão gia? Ngươi coi thường ta phải không?” Nghe bộp một cái đã đánh cho Tiến Hỉ Nhi sứt đầu chảy máu, lăn ra ngay.
Chung phu nhân nhíu mày:
- Trên đời này sao lại có kẻ ngang ngược đến thế! Nhạc lão tam trở thành Nhạc lão nhị từ bao giờ?
Chung cốc chủ nói:
- Nhạc lão tam xưa nay tính tình nóng nảy, lại điên điên rồ rồ.
Nói xong y bèn quay mình lại. Đoàn Dự từ bên kia bức vách nhìn ra không khỏi giật mình kinh hãi, thấy y mặt dài như mặt ngựa, mắt ở thật cao, cái mũi tròn xoay thì lại như dính liền với miệng, thành thử từ mắt xuống mũi có một khoảng trống bèn bẹt chẳng đâu vào đâu. Chung Linh dung mạo xinh đẹp như thế, ngờ đâu phụ thân lại cực kỳ khó coi, cũng may nàng chỉ giống mẹ không có chút nào giống cha.
Chung cốc chủ vốn dĩ mặt mày đăm đăm nhưng vừa mới gặp nương tử, lập tức chuyển sang nhu hòa, khuôn mặt xấu xa cũng có vài phần dễ chịu, nói:
- Nhạc lão tam tính tình ngang ngược, ta cũng sợ y kinh động đến phu nhân, nên không để cho y vào trong cốc. Chuyện nhỏ nhặt kia nàng đừng để tâm làm gì.
Đoàn Dự hơi cảm thấy khác lạ: “Khi nãy phu nhân nghe thấy chồng đến bỗng sợ đến tái người nhưng xem điệu bộ Chung cốc chủ thì y vừa yêu thương, vừa kính trọng”.
Chung phu nhân nói:
- Sao lại là chuyện nhỏ nhặt được? Tiến Hỉ Nhi trung thành chăm chỉ hầu hạ mình bao nhiêu năm nay, nay bị gã trư bằng cẩu hữu kia giết chết, trong lòng ta thật đau đớn xiết bao.
Chung cốc chủ cười gượng:
- Đúng, đúng lắm! Nàng thương xót kẻ ăn người làm, quả là tốt bụng.
Chung phu nhân hỏi gã gia nhân:
- Lai Phúc Nhi, rồi sau ra sao?
Lai Phúc Nhi đáp:
- Tiến Hỉ Nhi bị y đánh ngã xuống vốn đâu đã chết. Tiểu nhân vội vàng chào “Nhị lão gia, nhị lão gia, xin lão nhân gia đừng nóng nảy”. Y liền cười hề hề rất là cao hứng. Tiểu nhân bèn đỡ Tiến Hỉ Nhi dậy, rồi dọn một mâm rượu cho gã họ Nhạc kia ăn.
Y hỏi: “Chung ... Chung ... sao không ra tiếp ta?”. Tiểu nhân trả lời: “Lão gia chúng tôi chưa biết nhị lão gia đại giá quang lâm, nếu không thì đã ra nghinh tiếp rồi. Để tiểu nhân quay vào bẩm báo”.
Người đó gật đầu, thấy Tiến Hỉ Nhi khép na khép nép đứng bên cạnh hầu hạ, liền hỏi: “Hồi nãy ta đánh ngươi một chưởng, trong bụng ngươi thể nào cũng rủa thầm ta, có đúng không nào?”. Tiến Hỉ Nhi vội đáp: “Không, không, tiểu nhân đâu dám thế! Vạn lần không dám!”.
Người đó nói: “Ngươi trong bụng nhất định bảo ta là một đại ác nhân, ác không ai ác hơn, hà hà!”. Tiến Hỉ Nhi nói: “Không, không! Nhị lão gia là một người rất tốt, không ác một tí nào”. Người kia dựng ngược lông mày quát: “Ngươi bảo ta không ác chút nào ư?”.
Tiến Hỉ Nhi sợ đến toàn thân run rẩy, nói: “Ngài ... nhị lão gia ... không ác tí nào, chẳng ... hoàn toàn chẳng ác”. Người kia gầm lên một tiếng, đột nhiên giơ tay ra vặn cổ Tiến Hỉ Nhi ...”.
Y giọng vẫn còn run rẩy hiển nhiên chưa lại hồn. Chung phu nhân thở dài một tiếng, vẫy tay nói:
- Ngươi đã sợ hãi lắm rồi, thôi xuống nhà nghỉ ngơi đi.
Lai Phúc Nhi đáp lời:
- Vâng, để tiểu nhân ra xem Nhạc lão tam xem có gây thêm chuyện gì không.
Chung phu nhân nói:
- Ta khuyên ngươi nên gọi hắn là Nhạc lão nhị cho xong.
Chung cốc chủ nói:
- Hừ, tuy Nhạc lão tam hung ác thật nhưng ta lại không sợ, nghĩ tình y vạn dặm xa xôi đến đây giúp một tay, cũng là nể mặt ta lắm, việc giết Tiến Hỉ Nhi thôi cũng đừng tra hỏi làm gì.
Chung phu nhân lắc đầu:
- Hai người chúng ta ăn yên ở lành nơi đây, trong mười năm qua, ta chưa hề đặt chân ra khỏi cốc, phu quân cũng chưa vừa ý hay sao? Việc gì còn tính chuyện đi mời “Tứ Đại Ác Nhân” đến để một phen long trời lở đất? Bình thời ... chàng nói với ta những lời ngon ngọt thật dễ nghe, thực ra a! chàng có coi ta ra gì đâu.
Chung cốc chủ vội nói:
- Ta ... ta có làm gì mà bảo không coi nàng vào đâu? Ta mời bốn người đó tới đây chẳng phải vì nàng hay sao!
Chung phu nhân hừ một tiếng nói:
- Vì tôi ư? Thế thì cảm ơn ông. Nếu quả thực vì tôi thì hãy ra bảo Tứ Đại Ác Nhân đi về đi.
Đoàn Dự ở bên kia vách nghe thế bụng lấy làm lạ lùng: “Gã Nhạc lão tam kia chẳng duyên cớ gì ra tay giết người, thật ác không đâu bằng, không lẽ trên đời này còn có ba người cũng hung ác như y hay sao?”.
Chỉ thấy Chung cốc chủ hầm hầm giận dữ đi qua đi lại trong phòng khách, thở hổn hển nói:
- Gã họ Đoàn kia làm nhục ta quá lắm, thù này không báo, Chung Vạn Cừu này còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?
Đoàn Dự nghĩ bụng: “Thì ra tên ngươi là Chung Vạn Cừu. Cái tên đó xem ra không ổn. Người đời thường nói “Oan gia nên cởi không nên buộc”, nhớ một mối thù cũng đã không hay, huống chi lại Vạn Cừu? Thảo nào mặt ngươi mới dài thoòng như thế. Cứ như hình dung nhà ngươi, lấy được một người vợ như hoa như ngọc thì quả là một đại hạnh trên đời, phải đổi tên thành Chung Vạn Hạnh mới phải”.
Chung phu nhân nhướng mày lên, lạnh lùng đáp:
- Thực ra ông trong lòng hận tôi chứ đâu phải là hận người khác. Nếu quả như ông muốn gây chuyện với người ta, sao không tự mình đến kiếm y, một quyền một cưới so cao thấp? Nhờ người đến giúp, dẫu có thắng thì cũng đâu có vinh dự gì.
Gân xanh trên trán Chung Vạn Cừu cuồn cuộn nổi lên quát lớn:
- Người ta binh tôm tướng cá đông như thế, bà không biết hay sao? Ta muốn một chọi một y không chịu gặp, còn làm thế nào được bây giờ.
Chung phu nhân cúi đầu không nói, nước mắt tuôn tràn rơi xuống vạt áo. Chung Vạn Cừu vội nói:
- Ta xin lỗi, ta xin lỗi. A Bảo, A Bảo, xin nàng đừng giận, ta đúng ra không nên to tiếng với nàng như thế.
Chung phu nhân vẫn không nói gì, nước mắt càng thêm đầm đìa. Chung Vạn Cừu vò đầu bứt tai, thật là quýnh quáng, chỉ biết luôn miệng:
- A Bảo, nàng đừng giận, ta nhất thời không tự chế được, thật đáng chết.
Chung phu nhân nói nhỏ:
- Thì ra trong lòng ông chẳng bao giờ quên được chuyện cũ, tôi có sống cũng thật là vô vị. Chi bằng ông một chưởng đánh chết tôi đi, thế là kết thúc mọi chuyện, để trong bụng ông khỏi ấm ức. Sau đó ông ra ngoài kiếm một bà nào xinh đẹp làm vợ là xong.
Chung Vạn Cừu giơ bàn tay lên, vả luôn vào mặt mình hai cái, bốp bốp nói:
- Ta đáng chết! Ta đáng chết!
Đoàn Dự thấy bàn tay to như cái quạt của y đánh vào bộ mặt dài như ngựa, trông thật hoạt kê, nhịn không nổi phải cười hộc lên một tiếng. Tiếng cười vừa ra chàng biết ngay lần này mình gây họa còn lớn gấp mấy, chỉ mong Chung Vạn Cừu không nghe thấy nào ngờ đã nghe y quát tháo:
- Đứa nào đó?
Tiếp theo nghe bình một tiếng cửa phòng đã bị đá tung ra, ai đó đã bước vào. Đoàn Dự chỉ thấy bị nắm cổ lôi ra, giáng một cái mạnh trên sàn nhà, mắt tối sầm, bao nhiêu xương cốt tưởng như gãy hết.
Chung Vạn Cừu lại nắm cổ áo chàng kéo lên, quát hỏi:
- Ngươi là ai? Sao trốn ở trong phòng phu nhân làm gì?
Y thấy chàng dung mạo thanh tú, trong lòng nổi cơn nghi ngờ, quay sang hỏi Chung phu nhân:
- A Bảo, nàng ... nàng ... lại ... lại ...
Chung phu nhân giận dỗi nói:
- Cái gì mà lại với chẳng lại? Lại cái gì? Mau bỏ y ra, y tới báo tin cho mình đó.
Chung Vạn Cừu hỏi:
- Báo tin gì?
Y nhắc Đoàn Dự lên khỏi mặt đất, quát lớn:
- Thằng thối tha này, ta xem ngươi mặt trơ trán bóng, quyết không tốt lành gì. Ngươi lấp la lấp ló trốn trong phòng phu nhân là sao? Khai mau, khai mau! Ngươi chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ đánh cho cái sọ ngươi nát như tương.
Y một quyền đấm xuống, nghe lách lách lách cách, chiếc bàn bằng gỗ lê đã vạt đi một nửa. Đoàn Dự bị quật một cái vốn đã đau, lại bị y nhấc bổng lên không sao vùng vẫy được, nghe giọng y xem chừng nghi mình có chuyện thậm thụt gì với vợ y, trong lòng không còn sợ mà hóa giận, lớn tiếng đáp:
- Ta họ Đoàn, ngươi muốn giết thì mau mau ra tay. Không biết gì thì đừng có nói bậy nói bạ.
Chung Vạn Cừu giơ tay lên, hầm hầm nói:
- Tên tiểu tử này cũng lại họ Đoàn ư? Lại cũng họ Đoàn nữa, lại ... lại cũng họ Đoàn nữa.
Nói đến câu sau, giọng phẫn nộ của y biến thành thê thảm, đôi mắt tròn xoe ứa nước mắt ra. Đoàn Dự bỗng nổi lòng thương xót đại hán này, dường như y biết tài mạo mình không xứng với vợ cho nên chuyện gì cũng dễ ghen tuông, thực ra y đáng thương biết bao. Chàng quên rằng mạng mình đang ở trong tay người, cất tiếng an ủi:
- Tôi họ Đoàn, trước đây chưa từng gặp mặt phu nhân, cốc chủ chớ có nghi ngờ cho khổ vào thân.
Chung Vạn Cừu mặt lộ vẻ vui mừng, nghẹn ngào nói:
- Thật thế sao? Ngươi trước nay chưa hề ... chưa hề gặp A Bảo ư?
Đoàn Dự nói:
- Tôi đến đây chỉ chưa đầy nửa giờ.
Chung Vạn Cừu ngoác mồm cười hề hề mấy tiếng nói:
- Đúng lắm, đúng lắm! A Bảo mười năm nay chưa ra khỏi cốc, mười năm trước ngươi chỉ mới chín mười tuổi, không thể nào ... không thể nào ... không thể nào...
Thế nhưng y vẫn xách Đoàn Dự lên chưa thả xuống. Chung phu nhân mặt đỏ lên, nói:
- Mau thả Đoàn công tử ra!
Chung Vạn Cừu vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Y nhẹ nhàng để Đoàn Dự xuống, đột nhiên mặt lại lộ vẻ ngờ vực, hỏi:
- Đoàn công tử? Đoàn công tử? Thế ... thế cha ngươi là ai?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta còn nói láo chẳng hóa ra mình quả có tà ý hay sao?”. Chàng ngang nhiên đáp:
- Hồi nãy tôi không nói thật với Chung phu nhân, thực ra chẳng có gì phải dấu diếm. Tôi tên Đoàn Dự, tự Hòa Dự, chính người Đại Lý. Cha tôi tên trên Chính dưới Thuần.
Chung Vạn Cừu thoạt đầu chưa nghĩ ra trên Chính dưới Thuần là gì, Chung phu nhân đã run run hỏi lại:
- Cha ngươi là ... là Đoàn ... Đoàn Chính Thuần ư?
Đoàn Dự gật đầu:
- Đúng thế!
Chung Vạn Cừu gào lên:
- Đoàn Chính Thuần!
Ba tiếng đó y hét lên long trời lở đất, đột nhiên mặt đỏ bừng, toàn thân run lên bần bật:
- Ngươi là ... ngươi là con thằng cẩu tặc Đoàn Chính Thuần đấy sao?
Đoàn Dự giận quá, quát lại:
- Sao ngươi dám lớn mật chửi mắng cha ta?
Chung Vạn Cừu bực bội nói:
- Có gì mà không dám? Đoàn Chính Thuần, ngươi là tên cẩu tặc, là đồ khốn nạn.
Đoàn Dự bấy giờ mới rõ, y viết ở ngoài cửa cốc: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” chính là vì y cực kỳ căm hận cha mình, nên mới giận lây ra tất cả những người họ Đoàn khác nên thản nhiên đáp:
- Chung cốc chủ, nếu ông có thù với cha tôi thì nên quang minh chính đại kết thúc mối hận này. Ông có giỏi thì tới gặp tận mặt cha tôi mà chửi, còn chửi sau lưng thì đâu có gì là anh hùng hảo hán? Cha tôi ở trong thành Đại Lý, ông muốn kiếm thật dễ như trở bàn tay, việc gì mà phải để một tấm biển trước cửa nhà: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” làm gì?
Chung Vạn Cừu mặt lúc xanh, lúc đỏ xem ra những gì Đoàn Dự nói ra câu nào cũng trúng vào tim đen. Đôi mắt y trợn ngược lộ hung quang, xem chừng định ra tay giết người, đứng sừng sững một hồi, đột nhiên đấm bình bình hai cái, đánh vỡ tan hai chiếc ghế ngồi, giơ chân đá ra, trên vách liền vỡ một mảng lớn, kêu lên:
- Ta không sợ không đánh lại cha ngươi, ta ... ta chỉ sợ ... chỉ sợ cha ngươi biết được ... biết được A Bảo đang ở đây thôi ...
Nói tới mấy câu đó thanh âm đã lẫn tiếng nức nở, hai tay ôm mặt, kêu lên:
- Ta là đứa nhát gan! Ta là đứa nhát gan!
Y cắm đầu cắm cổ chạy ra, chỉ nghe bình bành, loảng xoảng liên tiếp không ngừng, hẳn là trên đường đụng phải các thứ kệ, bồn hoa, ghế đá. Đoàn Dự ngạc nhiên hồi lâu nghĩ thầm: “Cha ta biết được phu nhân của ngươi ở đây thì đã sao? Không lẽ đến đây giết bà ta chăng?”. Nghĩ lại lời mình nói ra quả có nặng nề, khơi dậy mối đau lòng của Chung Vạn Cừu nên chàng cảm thấy ăn năn, quay đầu lại thấy Chung phu nhân đang chăm chăm nhìn mình.
Hai người ánh mắt chạm nhau, Chung phu nhân lập tức quay đi chỗ khác, trên khuôn mặt xanh xao kia ẩn ẩn hiện lên sắc hồng, một hồi sau, hạ giọng hỏi:
- Đoàn công tử, lệnh tôn mấy năm nay có được khỏe không? Mọi việc vẫn trôi chảy chứ?
Đoàn Dự thấy bà ta hỏi thăm cha mình, vội vàng đứng lên, cung kính đáp:
- Gia nghiêm lúc này vẫn khỏe, mọi việc đều bình thường.
Chung phu nhân nói:
- Thế thì hay lắm. Ta ... ta cũng ...
Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của bà rưng rưng mấy giọt nước mắt, nói chưa dứt lời đã quay đi, giơ tay chùi lệ, trong lòng không khỏi thương cảm, an ủi bà ta:
- Chung cốc chủ tuy tính tình nóng nảy, đối với bá mẫu kính yêu biết mấy. Hai vị hôn nhân mỹ mãn, nếu có đôi khi lỡ lời thất hòa, bá mẫu cũng đừng phải đau lòng.
Chung phu nhân quay đầu lại, miệng mỉm cười nói:
- Cậu mới bấy nhiêu tuổi đầu, biết thế nào là nhân duyên mỹ mãn hay không mỹ mãn.
Đoàn Dự thấy nụ cười của bà xem ra có chiều ngây thơ, trong lòng chợt động, lập tức nghĩ đến Chung Linh, mắt liền quay qua nhìn đôi giày hoa của nàng trên ghế, nghĩ thầm: “Chung cô nương bị gã râu dê kia bắt giữ, một giờ một khắc cũng đau đớn biết bao, phải mau mau cứu nàng ra mới được”. Chàng bèn nói:
- Vãn sinh mới rồi ngôn ngữ vô lễ, xin bá mẫu chuyển lời tạ tội đến cốc chủ, xin cốc chủ sớm lên đường đi cứu lệnh ái.
Chung phu nhân đáp:
- Ngoại tử hiện đang bận tiếp những bằng hữu từ xa tới đây, thật khó có thể phân thân được. Công tử đã nghe qua rồi, những người khách đó tính tình cổ quái, ra tay không nói năng gì đã giết người, nếu như đối đãi với họ lễ số không chu toàn, không khỏi hậu hoạn vô cùng. Ôi! Sự đã đến nước này, ta đi theo công tử vậy.
Đoàn Dự mừng rỡ nói:
- Bá mẫu đích thân ra đi, thật tốt biết mấy.
Chàng nhớ lại lời của Chung Linh nên hỏi thêm:
- Bá mẫu có trị được chất độc của thiểm điện điêu chăng?
Chung phu nhân lắc đầu nói:
- Ta không trị được.
Đoàn Dự phân vân nói:
- Thế thì ... e rằng ...
Chung phu nhân quay vào phòng ngủ, lật đật viết một lá thư, vừa xong liền lấy trên tường xuống một thanh trường kiếm đeo vào lưng, quay trở lại sảnh đường nói:
- Thôi mình đi.
Bà ta xoay mình đi trước. Đoàn Dự thuận tay nhặt luôn đôi giày của Chung Linh bỏ vào túi. Chung phu nhân lặng lẽ lắc đầu, định nói gì, nhưng lại thôi.
Hai người ra khỏi cái hang sau thân cây, Chung phu nhân liền gia tăng cước bộ, nếu chỉ thấy thân hình mảnh dẻ của bà ta không ai dám bảo rằng bà ta chạy nhanh hơn Đoàn Dự nhiều. Đoàn Dự vẫn không yên tâm, nói:
- Bá mẫu nếu không biết trị chất độc của con chồn, e rằng Thần Nông Bang không chịu thả lệnh ái ra đâu.
Chung phu nhân thản nhiên nói:
- Ai cần chúng phải thả người? Thần Nông Bang dám bắt giữ con gái ta để uy hiếp chẳng phải không muốn sống hay sao? Ta không cứu người được, chẳng lẽ cũng không biết giết người?
Đoàn Dự không khỏi nổi da gà, nghe bà ta nói thản nhiên như không, tưởng như chỉ giết loài cây loài cỏ thật nào có kém gì gã Nhạc lão tam hung thần ác sát kia. Chung phu nhân hỏi lại:
- Cha cậu có tất cả bao nhiêu thị thiếp?
Đoàn Dự đáp:
- Chẳng có ai cả, một người cũng không. Mẹ cháu không chịu.
Chung phu nhân hỏi thêm:
- Cha cậu sợ mẹ cậu lắm sao?
Đoàn Dự cười nói:
- Cũng chẳng phải sợ, có lẽ là vì yêu mà đâm ra kính, cũng như cốc chủ đối với bá mẫu vậy thôi.
Chung phu nhân nói:
- Ồ, thế cha cậu hàng ngày có luyện võ không? Bao nhiêu năm nay, công lực chắc tiến triển rất nhiều rồi?
Đoàn Dự đáp:
- Cha cháu mỗi ngày đều luyện công nhưng công lực đến đâu thật cháu không biết tí gì.
Chung phu nhân nói:
- Nếu công phu ông ta không kém sút, ta ... ta cũng yên lòng. Sao cậu không biết chút võ công nào là sao?
Hai người vừa đi vừa nói chuyện đã đi hơn một dặm, Đoàn Dự đang định trả lời bỗng nghe đằng sau có tiếng người gầm gừ gọi tới:
- A Bảo, nàng ... nàng đi đâu đó?
Đoàn Dự quay đầu lại chỉ thấy Chung Vạn Cừu từ sau gốc cây đang đuổi tới như bay. Chung phu nhân giơ tay đỡ vào nách Đoàn Dự, quát lớn:
- Chạy cho nhanh.
Bà ta nhấc chàng lên lao vụt về phía trước. Đoàn Dự hai chân rời khỏi mặt đất, bị Chung phu nhân lôi đi không sao cưỡng lại được. Hai người chạy trước, một người đuổi theo ba người chỉ giây lát đã chạy được mấy chục trượng. Chung phu nhân khinh công tuy không kém trượng phu nhưng vì phải đỡ thêm một người thành thử Chung Vạn Cừu dần dần đuổi kịp. Lại chạy thêm vài chục trượng nữa, Đoàn Dự xem chừng hơi thở gấp rút của Chung Vạn Cừu đã ở ngay sau lưng. Đột nhiên soẹt một tiếng, chàng thấy lưng lạnh toát, áo đã bị Chung Vạn Cừu xé toạc một mảng.
Chung phu nhân tay trái vận kình ném Đoàn Dự ra xa hơn trượng, quát lên:
- Chạy mau!
Tay phải rút phắt trường kiếm đâm ngược về sau. Cứ như võ công của Chung Vạn Cừu, nhát kiếm đó không thể nào trúng y được, huống chi Chung phu nhân hoàn toàn không có ý đả thương trượng phu, chỉ cốt ngăn y khỏi đuổi tới. Ngờ đâu bà ta đâm ra, thấy mũi kiếm chạm phải vật gì ngăn lại đã đâm trúng ngay ngực chồng.
Thì ra Chung Vạn Cừu không né tránh cũng không đỡ gạt, lại ưỡn ngực tới để nhận nhát kiếm. Chung phu nhân giật mình kinh hãi, quay đầu lại, thấy chồng sắc mặt thê thảm, nước mắt rưng rưng, trên ngực trúng kiếm máu chảy túa ra, giọng run run nói:
- A Bảo, nàng ... rồi cũng bỏ ta mà đi sao?
Chung phu nhân thấy nhát kiếm đó ngay chính giữa ngực, tuy không trúng tim, nhưng mũi kiếm đâm vào mấy tấc, sống chết không biết ra sao, trong cơn khẩn cấp vội vàng rút kiếm ra, nhào tới giơ tay chặn vết thương lại, chỉ thấy máu chảy như suối, theo kẽ ngón tay mà cuồn cuộn ra ngoài.
Chung phu nhân giận dữ nói:
- Tôi nào có định giết ông, sao không tránh né?
Chung Vạn Cừu gượng cười đáp:
- Nàng ... nàng ... muốn bỏ ta mà đi, ta ... ta chết cho xong.
Nói xong liên tiếp ho sù sụ. Chung phu nhân nói:
- Ai bảo tôi bỏ ông mà đi? Tôi ra ngoài đi cứu con gái chúng mình, vài ngày sẽ quay lại, trên giấy đã viết rõ như thế đấy thôi?
Chung cốc chủ nói:
- Tôi có thấy tờ giấy nào đâu.
Chung phu nhân nói:
- Ôi, sao ông đểnh đoảng thế.
Bà ta vội vàng nói sơ qua việc Chung Linh bị Thần Nông Bang bắt giữ. Đoàn Dự thấy tình cảnh đó, sợ đến mất vía, cố gắng định thần, xé áo ra, lật đật đến băng bó cho Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu bỗng nhiên giơ chân đá phốc một cái khiến chàng lăn chòng chọc, quát lớn:
- Thằng chó đẻ, tao không muốn thấy cái mặt mày.
Y quay lại nói với Chung phu nhân:
- Bà lừa tôi, tôi không tin. Rõ ràng là nó ... nó đến gọi bà đi. Thằng khốn kiếp này là con nó ... Nó lại còn mở miệng chửi tôi ...
Nói xong y lại ho khúc khắc, mỗi lần ho máu trên ngực lại tuôn ra xối xả. Y quay sang Đoàn Dự:
- Giỏi thì lên đây. Ta bị thương nhưng cũng không sợ Nhất Dương Chỉ của ngươi đâu! Cứ tiến lên động thủ.
Đoàn Dự bị ngã đập vào một hòn đá, lồm cồm đứng lên, một bên mặt đầy máu nói:
- Tôi không biết sử dụng Nhất Dương Chỉ mà dẫu có biết, tôi cũng không đánh nhau với ông.
Chung Vạn Cừu lại ho thêm mấy tiếng, giận dữ nói:
- Thằng chó đẻ, ngươi còn giả vờ nữa sao? Ngươi ... ngươi đi gọi thằng bố mày tới đây.
Y nổi giận càng ho như xé phổi. Chung phu nhân nói:
- Cái bệnh ghen của ông sao không sao đổi được. Nếu ông không tin được y, thôi để tôi chết trước mặt ông cho xong.
Chung Vạn Cừu nghe nói thế vẻ mặt liền vui mừng, run run hỏi:
- A Bảo, có thật nàng không đi theo tên tiểu tạp chủng này chứ?
Chung phu nhân giận dữ nói:
- Người ta rõ ràng là một công tử họ Đoàn, cái gì mà tiểu tạp chủng, lão tạp chủng là sao? Tôi đi theo Đoàn công tử là để giết sạch Thần Nông Bang, cứu đứa con gái cưng của mình về.
Chung Vạn Cừu thấy vợ không tính chuyện bỏ mình, trong lòng vui mừng không sao kể xiết, nhìn nàng hờn dỗi lại càng thương hơn, vội cười:
- Nếu đã thế thì ta quả không ra gì. Chẳng qua ... chẳng qua, sao ta đuổi theo nàng lại không đứng lại nói cho ba mặt một nhời.
Chung phu nhân mặt hơi đỏ lên nói:
- Tôi không muốn ông gặp lại Đoàn công tử.
Chung Vạn Cừu đột nhiên lại nổi nghi ngờ, hỏi dồn:
- Thằng tiểu ... à Đoàn công tử, không phải là con bà đấy chứ?
Chung phu nhân vừa thẹn vừa giận, hứ một cái nói:
- Ông nói lăng nói nhăng gì đó? Lúc thì nghi y là tình lang của tôi, lúc lại nghi y là con tôi. Nói thực cho ông hay, y là cha tôi, là bố vợ ông đó.
Chung Vạn Cừu ngơ ngẩn nhưng hiểu ngay ra là vợ mình nói đùa, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Y cười khiến cho máu ở vết thương lại túa ra, Chung phu nhân sụt sùi nói:
- Làm ... làm sao bây giờ đây?
Chung Vạn Cừu vui sướng, đưa tay ra ôm lưng vợ nói:
- A Bảo, nàng quan tâm đến ta như thế, dẫu có chết ngay ta cũng cam lòng.
Chung phu nhân hai má đỏ hồng, nhẹ nhàng đẩy y ra nói:
- Có Đoàn công tử ở đây, ông đừng có điên điên rồ rồ như thế.
Chung Vạn Cừu vẫn cười hà hà, cực kỳ hoan hỉ, cười mấy tiếng lại ho mấy tiếng. Chung phu nhân thấy trượng phu thần tình ủ rũ, sắc mặt nhợt nhạt nên thật lo lắng nói:
- Thôi tôi không đi cứu Chung Linh nữa, tự nó gây chuyện, thôi đành phó thác cho trời.
Bà ta đỡ chồng lên, quay sang nói với Đoàn Dự:
- Đoàn công tử, cậu đi nói với Tư Không Huyền chồng ta là kẻ năm xưa tung hoành giang hồ Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu, còn ta là Cam Bảo Bảo, có cái ngoại hiệu chẳng dễ nghe chút nào là Tiếu Dược Xoa, nếu y dám động đến một sợi tóc Chung Linh thì đừng trách vợ chồng ta ra tay độc ác vô tình.
Bà ta nói câu nào Chung Vạn Cừu cũng gật gù:
- Đúng thế, không sai.
Đoàn Dự thấy tình hình như thế biết rằng Chung Vạn Cừu không thể nào đi được mà cả Chung phu nhân cũng chẳng thể bỏ mặc trượng phu để cứu con, chỉ với hai cái tên Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu và Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo liệu có đủ làm cho Tư Không Huyền khiếp sợ hay không, quả không sao biết được. Xem ra chất độc đoạn trường tán trong bụng mình thật không có cách gì giải cứu. Chàng nghĩ thầm: “Sự tình đã đến nước này, có nói nhiều cũng vô ích”. Chàng bèn nói:
- Vâng, vậy để vãn sinh đi chuyển lại những lời đó.
Chung phu nhân thấy chàng nói là làm, lập tức bỏ đi, hành sự quả thật tiêu sái không chấp trước khiến bà nhớ đến người xưa kêu lên:
- Đoàn công tử, ta còn một câu nữa.
Bà nhẹ nhàng bỏ Chung Vạn Cừu xuống, chạy đến bên cạnh Đoàn Dự, lấy trong túi ra một vật nhét vào tay chàng nói nhỏ:
- Cậu đem vật này về giao lại cho cha cậu, nhờ ông ta ra tay cứu con chúng ta.
Đoàn Dự đáp:
- Nếu như cha cháu chịu ra tay, thể nào cũng cứu được Chung cô nương. Chỉ có điều ở đây với Đại Lý chẳng phải gần, e rằng không kịp.
Chung phu nhân nói:
- Để ta đi mượn cho cậu một con ngựa, cậu chờ nơi đây. Đừng quên nói với cha cậu rằng: “Xin ông ta ra tay cứu con chúng ta”.
Bà không đợi Đoàn Dự đáp lời, quay mình chạy lại bên trượng phu, đỡ y dậy, dìu nhau đi. Đoàn Dự mở tay ra, thấy Chung phu nhân nhét vào tay mình là một cái hộp trang sức nhỏ bằng vàng, điêu khắc rất tinh mỹ, mở ra xem thấy bên trong có một mảnh giấy, sắc đã úa vàng, hiển nhiên đã cũ lắm rồi. Mảnh giấy có lấm tấm điểm mấy giọt máu, trên viết mười chữ: “Canh Thân Niên, Nhị Nguyệt, Sơ Ngũ, Sửu Thời, Nữ” nét bút mềm mại dường như do tay đàn bà, thư pháp xem chừng vụng về lắm, ngoài ra không còn gì khác. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Đây là ngày sinh tháng đẻ của ai đây? Chung phu nhân nói ta đem về đưa cho gia gia, không hiểu có dụng ý gì? Năm Canh Thân ...” Chàng bấm đốt ngón tay tính toán thì ra là mười sáu năm trước “ ... không lẽ lại là niên canh bát tự của Chung cô nương? Hay là Chung phu nhân muốn gả con gái cho ta nên nhờ cha ta đi cứu con dâu mình?”.
Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe tiếng một người đàn ông gọi:
- Đoàn công tử!


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:45 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Hương trinh thoang thoảng đâu đây,
Vó câu muôn dặm càng say càng nồng.
*
* *

Đoàn Dự quay đầu lại thấy một hán tử ăn mặc theo lối gia nhân đang hấp tấp đi tới, chính là Lai Phúc Nhi, người lúc nãy chàng nhìn thấy qua khe vách. Y đi đến gần, hành lễ nói:
- Tiểu nhân Lai Phúc Nhi, phụng mệnh phu nhân hầu công tử đi mượn ngựa.
Đoàn Dự gật đầu:
- Hay lắm, thật phiền quản gia.
Lai Phúc Nhi liền đi trước dẫn đường, qua khỏi rừng tùng rồi, chuyển qua hướng bắc, đi vào một con đường nhỏ chừng sáu bảy dặm đến trước một tòa nhà lớn. Lai Phúc Nhi tiến lên cầm vòng cửa gõ nhẹ hai tiếng, ngừng lại một chút, lại gõ thêm bốn tiếng rồi lại gõ thêm ba tiếng. Cánh cửa kêu kẹt một cái rồi mở ra. Lai Phúc Nhi đứng ngoài cùng người mở cửa nói với nhau một hồi mật ngữ. Lúc này trời đã tối, Đoàn Dự nhìn lên những vì sao sớm trên bầu trời, bỗng nhớ đến thần tiên tỉ tỉ trong sơn động.
Chỉ nghe từ bên trong cửa một tiếng ngựa hí dài, Đoàn Dự không khỏi khen thầm: “Ngựa tốt thật!”. Cửa mở toang một con ngựa thò đầu ra, đôi mắt trong bóng đêm lấp lánh, chỉ thoáng nhìn đã biết ngay là loại thần tuấn phi phàm. Lộp cộp mấy tiếng một con ngựa ô đi ra, tiếng chân thật nhẹ, thân hình thon gầy nhưng bốn vó đều dài, hùng vĩ hiên ngang. Người dắt ngựa là một tiểu tì tóc thắt bím, trong đêm tối không nhìn rõ mặt mũi, xem ra chừng mười bốn, mười lăm tuổi.
Lai Phúc Nhi nói:
- Đoàn công tử, phu nhân sợ công tử không trở về Đại Lý kịp, nên đặc biệt đến mượn tuấn mã của tiểu thư đây. Tiểu thư nơi đây là bằng hữu của Chung cô nương chúng tôi, biết được công tử đi cứu bạn mình nên mới cho mượn ngựa, thực là vẻ vang hết sức.
Đoàn Dự đã từng thấy nhiều tuấn mã, chỉ cần nghe tiếng hí của con ngựa này cũng biết là loại lương câu trong nghìn vạn con mới có một bèn nói:
- Đa tạ!
Chàng đi đến nhận lấy dây cương. Con tiểu hoàn vỗ nhẹ lên bờm con vật, dịu dàng nói:
- Hắc Mai Côi hỡi Hắc Mai Côi, cô nương cho công tử gia này mượn ngươi để cưỡi, ngươi phải ngoan ngoãn nghe lời, đi sớm về sớm nghe chưa.
Con ngựa quay đầu lại, cọ cọ vào cánh tay cô gái, thần thái thật là thân mật. Con tiểu tì đưa giây cương cho Đoàn Dự nói:
- Con ngựa này không thích roi vọt, công tử tốt với nó chừng nào, nó càng chạy nhanh chừng đó.
Đoàn Dự nói:
- Vâng!
Chàng nghĩ thầm: “Con ngựa tên Hắc Mai Côi hẳn là ngựa cái” bèn nựng nói:
- Hắc Mai Côi tiểu thư ơi, tiểu sinh xin ra mắt.
Nói xong vái con ngựa một cái. Con tiểu tì cười khúc khích nói:
- Công tử thú vị thật. Này, cưỡi ngựa đừng có ngã đấy nhé!
Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy lên lưng ngựa, quay sang nói với con tiểu tì:
- Đa tạ tiểu thư nhà các cô.
Con tiểu tì cười:
- Thế không cám ơn tôi sao?
Đoàn Dự chắp tay:
- Đa tạ tỉ tỉ, khi trở lại tôi thể nào cũng mang cho các cô thật nhiều mứt mà ăn.
Con tiểu tì nói:
- Mứt thì không dám mong chỉ mong công tử cẩn thận đừng làm con ngựa bị thương.
Lai Phúc Nhi nói:
- Cứ thẳng hướng bắc mà đi sẽ đến được đại lộ để về Đại Lý. Xin công tử bảo trọng.
Đoàn Dự giựt cương, con ngựa phóng bốn chân, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã ở xa vài mươi trượng. Con Hắc Mai Côi này không cần phải thúc giục trong đêm tối vẫn chạy như bay, Đoàn Dự chỉ thấy cây cối trên đường vùn vụt chạy lùi về sau, đưa mắt liếc ngang lạ thay lưng ngựa bình ổn lạ thường không thấy nhấp nhô chút nào. Chàng nghĩ thầm: “Con ngựa này chạy nhanh thế, chỉ xế trưa mai là mình đã đến Đại Lý rồi!”.
Chỉ chưa đầy thời gian uống một chén trà chàng đã đi được đến trên mười dặm, trong đêm gió thổi vù vù, hơi cây cỏ mát mẻ bốc vào mũi. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cưỡi ngựa đêm khuya quả là một cái thú trên đời”. Đột nhiên trước mặt có tiếng người quát lên:
- Con giặc cái, đứng lại!
Trong bóng đêm có ánh đao lấp loáng, một thanh đơn đao nhắm ngay chàng chém tới. Thế nhưng con ngựa ô chạy nhanh quá, đao chém xuống tới nơi thì con vật đã chạy khỏi cả trượng rồi. Đoàn Dự quay đầu lại nhìn thấy hai đại hán một người cầm đơn đao, một người cầm hoa thương đang hung hăng chạy tới. Hai người cất tiếng chửi:
- Con giặc cái kia, định mặc giả trai đánh lừa chúng ông đấy hử?
Chỉ nhún một cái con ngựa đã bỏ hai người một quãng xa. Hai đại hán kia tuy chạy nhanh thật nhưng chỉ chốc lát thì đến tiếng kêu la cũng không còn nghe thấy nữa. Đoàn Dự tự hỏi:
- Sao hai gã này lại chửi mình là “con giặc cái”, nói ta là gái giả trai? Chắc chúng định đi tìm chủ nhân con Hắc Mai Côi này để thanh toán, họ nhìn ra con ngựa nhưng không nhìn ra người, thật là đoảng vị.
Chàng chạy được thêm chừng một dặm nữa bỗng nghĩ ra: “Chao ôi! Không được rồi, ta nhờ có ngựa chạy nhanh nên thoát được ổ phục kích của hai gã nọ, trông những người này xem chừng võ công khá cao, nếu như tiểu thư cho mình mượn ngựa không biết chuyện này, chẳng đề phòng mà lại đi ra thể nào chẳng bị ám toán. Ta đành phải quay về báo tin vậy”. Chàng bèn gò cương ngựa lại nói:
- Hắc Mai Côi, có kẻ toan ám toán tiểu thư nhà ngươi, mình phải qua lại báo tin ngay nói cô ta cẩn thận đừng ra khỏi cửa.
Nói xong chàng quay đầu ngựa theo dúng đường cũ quay về, tới gần chỗ hai gã nọ phục kích liền giục ngựa:
- Nhanh lên! Nhanh lên!
Con Hắc Mai Côi dường như hiểu ý người, nghe thấy hai tiếng “Nhanh lên” thôi thúc liền chạy nhanh hơn thế nhưng hai gã kia không biết đã đi đâu mất rồi. Đoàn Dự càng nóng ruột: “Nếu bọn chúng đến trang viện tập kích cô gái kia rồi, chẳng phải nguy lắm sao?”. Chàng luôn miệng kêu : “Nhanh lên”, con ngựa tưởng chừng như bốn vó không còn chạm đất lao vút đi.
Vừa đến trước nhà bỗng đâu có hai cây gậy vụt ngang chân con vật, Hắc Mai Côi không đợi Đoàn Dự ra lệnh tự nhảy vọt qua, hai chân đá ngược về sau, nghe bình một tiếng, trúng một gã cầm côn văng ra ngoài.
Hắc Mai Côi vừa đến trước cửa thì trong bóng đêm ở đâu xông ra bốn năm người, giơ tay ra nắm cương ngựa. Đoàn Dự thấy tay bị giữ chặt lôi xuống dưới đất. Một gã quát lớn:
- Thằng nhỏ này, ngươi đến đây làm gì? Sao dám xông bừa vào?
Đoàn Dự kêu khổ thầm: “Thế là ôi thôi! Chung quanh nhà đã bị vây chặt rồi, không biết chủ nhân có bị độc thủ không?”. Tay phải chàng bị ai đó nắm lấy chẳng khác gì một cái kềm sắt, nửa thân trên tê đi liền nói:
- Ta đến đây kiếm chủ nhân căn nhà này, sao các ngươi lại hung hăng như thế?
Một người giọng già nua nói:
- Tiểu tử này cưỡi con ngựa ô của đứa tiện nhân, chắc là nhân tình nhân ngãi gì của nó đây, cứ thả nó vào mình làm một mẻ vét sạch, nhổ cỏ tận rễ.
Đoàn Dự trong bụng hoang mang, rối như tơ vò: “Thế thì có khác gì mình chui đầu vào rọ. Thế nhưng đến nước này, chỉ còn nước chạy vào rồi đến đâu hay đó”. Chàng thấy kẻ nắm mình lỏng tay ra, vội vàng sửa lại y phục rồi thản nhiên đi vào trong cửa.
Chàng đi qua một cái sân hai bên đường lát đá trồng đầy hoa hồng, mùi thơm ngào ngạt. Con đường vòng vèo đi qua một cái cửa hình tròn, Đoàn Dự cứ thuận đường mà đi nhưng thấy lấp ló hai bên, đây một người, kia một người chỗ nào cũng có mai phục. Bỗng thấy trên cao có tiếng ho khẽ, chàng ngẩng đầu nhìn lên, thấy trên đầu tường cũng đứng lố nhố bẩy tám người, dưới bóng đêm binh khí trong tay lấp loáng. Chàng trong bụng sợ hãi: “Trong trang viện chẳng biết có được bao nhiêu người, nhưng kẻ địch tới vây thì thật đông, chẳng lẽ họ muốn đuổi tận sát tuyệt chăng?”.
Chỉ thấy những người đó trong đêm tối gườm gườm nhìn chàng, có kẻ tay cầm cán đao ra vẻ dọa nạt. Đoàn Dự chỉ đành cố gắng trấn tĩnh, cố nở một nụ cười, thấy tận cùng con đường đá là một tòa đại sảnh, từng hàng cửa sổ dài đến tận đất rọi ánh sáng từ bên trong ra. Chàng đến gần bên cửa lớn tiếng nói:
- Tại hạ có chuyện xin được gặp chủ nhân.
Từ trong sảnh có tiếng ai đó khàn khàn quát hỏi:
- Ai đó? Vào ngay đây.
Đoàn Dự bực mình đẩy cửa vào, bước qua ngưỡng cửa đưa mắt nhìn quanh thấy trong sảnh kẻ đứng người ngồi phải đến mười bảy mười tám người. Chính giữa là một người đàn bà mặc áo đen, lưng hướng ra ngoài nên không thấy mặt. Người đó hình dáng thon thả, mái tóc đen nhánh chải theo kiểu còn con gái. Ngoài hai bà già ngồi trên ghế bành phía đông là tay không còn hơn chục người còn lại ai cũng cầm binh khí. Bên dưới hai mụ già có một người nằm lăn dưới đất, đã chết rồi nhưng máu tươi trên cổ còn chảy ròng ròng, chính là gã Lai Phúc Nhi đã đưa Đoàn Dự sang mượn ngựa.
Đoàn Dự nghĩ gã này đối với mình cung kính lễ độ, ngờ đâu phút chốc đã tử nạn, cũng vì mình mà ra nông nỗi, trong lòng thương xót không sao kể xiết.
Bà già ngồi trên tóc đã bạc trắng, dáng người bé nhỏ giọng khàn khàn quát:
- Này, thằng nhỏ kia, ngươi đến đây có chuyện gì?
Đoàn Dự từ lúc đẩy cửa vào đã định bụng: “Đằng nào thì mình cũng đã vào hang cọp, nếu thoát thân được thì tốt nhất, còn không thì bọn mặt mày hung thần ác sát thế này, có nói gì cũng chỉ phí lời”. Vào trong sảnh lại thấy Lai Phúc Nhi chết nằm đó chàng đâm ra phẫn nộ ngang nhiên trả lời:
- Lão bà bất quá sống lâu hơn vài tuổi, làm gì mà gọi người khác bằng thằng nọ thằng kia, ăn nói vô lễ thế?
Mụ già đó mặt ngắn bành bành đầy vết nhăn, lông mày trắng rủ xuống, đôi mắt nhỏ lóe hung quang, đưa mắt đánh giá Đoàn Dự là hạng người nào. Mụ già ngồi bên dưới mụ ta bèn quát:
- Thằng nhỏ thối tha kia, thật ngươi chẳng biết trời trăng gì! Thụy bà bà đích thân mở miệng hỏi quả đã coi trọng ngươi lắm rồi. Ngươi có biết vị lão bà bà này là ai không? Đúng là có mắt mà không thấy núi Thái Sơn.
Bà già đó người thật to béo, cái bụng ưỡn ra trông như người có chửa bẩy tám tháng, đầu tóc hoa râm, mặt đầy thịt, giọng nói so với đàn ông con trai thông thường còn khó nghe hơn mấy phần, hai bên hông đeo hai thanh đoản đao bản rộng, một thanh còn dính đầy máu tươi hiển nhiên Lai Phúc Nhi đã bị mụ ta giết chết.
Đoàn Dự trông thấy thanh đao nhuốm máu đó, nỗi căm tức xông lên, lớn tiếng nói:
- Nghe giọng mụ là người ở phương xa, sao đám đến Đại Lý giết người bừa bãi, có biết Đại Lý tuy là nước nhỏ thật nhưng cũng có vương pháp, Thụy bà bà lai lịch thế nào, tại hạ không hề hay biết, nhưng dẫu có là Hoàng Thái Hậu nước Đại Tống cũng không thể đến đây tùy tiện ra tay giết người được.
Mụ già mập giận dữ, đứng phắt lên hai tay vung ra, mỗi bên đã cầm một thanh đoản đao, quát lớn:
- Để ta giết ngươi xem ngươi làm gì nào? Nước Đại Lý này có đứa nào tốt lành gì đâu, đáng giết sạch cả.
Đoàn Dự ngẩng đầu cười ha hả nói:
- Ngang ngược không đâu, tức cười thật, tức cười thật!
Mụ già mập tiến lên hai bước, đao bên tay trái chém luôn vào cổ Đoàn Dự. Nghe keng một tiếng, một thanh quài trượng bằng sắt phóng ra gạt đao đi, chính là Thụy bà bà ra tay ngăn trở. Mụ nói nhỏ:
- Bình bà bà hãy hượm đã, hỏi y cho rõ ràng rồi giết cũng không muộn.
Nói xong để quài trượng dựa vào bên ghế hỏi Đoàn Dự:
- Ngươi là ai?
Đoàn Dự đáp:
- Ta là người Đại Lý. Mụ mập này nói người Đại Lý ai cũng đáng chết, vậy thì ta cũng đáng chết.
Bình bà bà bực tức nói:
- Ngươi gọi ta là Bình bà bà cũng được, cớ gì lại phải mập hay không mập?
Đoàn Dự cười:
- Mụ thử sờ bụng xem mập hay không thì biết?
Bình bà bà mắng liền:
- Con bà ngươi!
Mụ vung đao chém nhứ hai nhát cách mặt chàng chừng một thước, tiếng nghe vù vù. Đoàn Dự sợ đến lưng chảy mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch nhưng trên mặt cố làm ra vẻ dương dương tự đắc.
Thụy bà bà nói:
- Tên tiểu tử mặt mũi bảnh bao chắc ngươi là bạn trai của tiểu tiện nhân chứ gì?
Nói xong mụ giơ tay chỉ cô gái áo đen đang quay lưng lại. Đoàn Dự đáp:
- Vị cô nương này tôi chưa hề gặp bao giờ. Thế nhưng này Thụy bà bà, tôi khuyên mụ ăn nói cho khách khí một chút, ai đời mở miệng là chửi rủa người ta, vị cô nương này đại nhân đại lượng nên không đôi co làm chi chứ nhân phẩm như mụ cũng nào có cao quí gì.
Thụy bà bà hừ một tiếng nói:
- Thằng nhãi này bây giờ lại dạy ngược lại ta. Nếu ngươi không quen biết với con tiểu tiện nhân thì đến đây làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Ta đến đây báo tin cho chủ nhân căn nhà này.
Thụy bà bà hỏi:
- Báo tin gì?
Đoàn Dự thở dài đáp:
- Ta chậm mất một bước rồi, báo hay không báo thì cũng thế.
Thụy bà bà hỏi dồn:
- Báo tin gì nói mau.
Giọng mụ càng lúc càng gay gắt. Đoàn Dự nói:
- Ta gặp chủ nhân nơi đây sẽ nói, nói với mụ làm gì?
Thụy bà bà cười khẩy, một hồi sau mới nói:
- Ngươi muốn gặp mới nói thì nói đi chứ chỉ chốc lát hai đứa bay gặp nhau ở dưới âm rồi.
Đoàn Dự hỏi:
- Thế chủ nhân là ai? Tại hạ muốn cảm ơn đã cho mượn ngựa.
Lời của chàng vừa thốt ra bao nhiêu cặp mắt trong sảnh đều đổ dồn vào cô gái áo đen đang ngồi trên ghế. Đoàn Dự ngạc nhiên: “Không lẽ cô nương này là chủ nơi đây? Nàng ta là một cô gái mảnh mai, sao lại bị đông đảo cường địch vây quanh thế này, thật là nguy quá”.
Chỉ nghe cô gái chậm rãi nói:
- Ta cho ngươi mượn ngựa là vì nể mặt người khác, không cần gì ngươi phải tạ ơn. Ngươi không lo đi cứu người còn quay lại đây làm gì?
Nàng tuy nói nhưng mắt vẫn hướng vào trong không quay đầu lại. Đoàn Dự đáp:
- Tại hạ cưỡi con Hắc Mai Côi trên đường bị người ta phục kích, có kẻ ngộ nhận tôi là cô nương, mở miệng ăn nói hỗn hào xem ra bất ổn, không thể không quay lại báo cho cô nương hay.
Cô gái nói:
- Thế báo tin gì?
Tiếng nàng trong trẻo dễ nghe nhưng lạnh như băng chẳng có chút gì thân thiện, nghe không thoải mái chút nào, tưởng như nàng không hề quan tâm đến thế sự, lại giống như đối với ai cũng coi như kẻ thù, chưa giết sạch được mọi người trong thiên hạ thì chưa vừa lòng.
Đoàn Dự nghe cô ta ăn nói vô lễ cảm thấy không vui, nhưng nghĩ lại nàng đang bị kẻ thù bao vây, tình hình thực là nguy hiểm, tâm tình có khác lạ âu cũng là chuyện thường, thương người lại nghĩ đến mình nên ôn tồn nói:
- Tại hạ nghĩ rằng hai gã cường đồ có ý gia hại cô nương, phần mình vì nhờ có ngựa chạy nhanh nên thoát được nguy khốn, còn cô nương chắc chưa biết kẻ thù đến tấn công, nên quay lại báo tin, để xin cô nương tạm thời trốn tránh, ngờ đâu lại chậm một bước, kẻ thù đã tới rồi, thực đáng tiếc biết bao.
Cô gái cười khẩy hỏi:
- Ngươi giả đò xun xoe tới đây lấy lòng ta là có dụng ý gì?
Đoàn Dự nổi giận bừng bừng, lớn tiếng đáp:
- Tại hạ với cô nương vốn không quen biết, thấy có người định tâm gia hại, lẽ nào ngậm miệng làm thinh? Hai chữ “lấy lòng” ở đâu mà ra đây?
Cô gái hỏi:
- Thế ngươi biết ta là ai không?
Đoàn Dự đáp:
- Không biết.
Cô gái nói:
- Ta nghe Lai Phúc Nhi nói, ngươi hoàn toàn không biết võ công, vậy mà dám tới Vạn Kiếp Cốc nói toạc tội của cốc chủ ra, quả thực to gan. Bây giờ lại vướng vào cái vòng thị phi này, ngươi định thế nào?
Đoàn Dự ngạc nhiên nói:
- Tôi vốn chỉ muốn đến báo tin xong rồi lại lên đường về nhà.
Nói đến đây, chàng thở dài rồi tiếp:
- Xem ra cô nương gặp nguy nan đã đành mà tôi thì cũng họa lớn đến nơi rồi. Không biết cô nương thù oán gì với những người này thế?
Nữ lang áo đen cười khẩy một tiếng nói:
- Ngươi là cái thá gì mà dám hỏi ta?
Đoàn Dự lại thêm ngạc nhiên nói:
- Chuyện riêng của người khác đúng ra tôi chẳng nên hỏi tới. Thôi được, tin tôi đã báo rồi, với cô như thế là xong.
Cô gái áo đen nói:
- Ngươi có biết đâu lại mất mạng nơi đây phải không? Có hối hận chăng?
Đoàn Dự nghe miệng lưỡi nàng có ý diễu cợt, lớn tiếng nói:
- Đại trượng phu hành sự, thấy chuyện nghĩa thì làm, sao lại có chuyện hối hận?
Cô gái hừ một tiếng nói:
- Cỡ tài cán như ngươi mà cũng dám xưng là đại trượng phu hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Anh hùng hảo hán hay không đâu phải chỉ dựa vào võ công cao thấp? Dù là võ công đứng đầu thiên hạ mà hành sự đê tiện xấu xa thì cũng đâu có xứng đáng ba chữ “đại trượng phu”.
Cô gái áo đen cười:
- Ha ha, ngươi giữa đường gặp chuyện bất bình, trượng nghĩa đến đây báo tin, chẳng qua mong được làm đại trượng phu đấy thôi. Đến lúc đại trượng phu bị người ta chặt ra làm mười bảy, mười tám mảnh chỉ e lúc ấy hết còn anh hùng hảo hán gì được nữa.
Bình bà bà đột nhiên cất giọng ồm ồm:
- Tiểu tiện nhân định kéo nhì nhằng để làm gì? Có đứng dậy động thủ không thì bảo.
Mụ vung hai thanh đao đập vào nhau, tiếng choang choang nghe chói cả tai. Cô gái áo đen cười khẩy nói:
- Ngươi sống đã bấy nhiêu năm quá đủ nên muốn chết sớm một tí hay sao? Con mụ ác ôn họ Vương ở Tô Châu sao không đích thân tới đây cùng ta động thủ lại sai bọn đầy tớ chúng bay đến quấy hôi bôi nhọ là gì?
Thụy bà bà nói:
- Phu nhân bọn ta tôn quí dường ấy, con tiểu tiện nhân muốn gặp phu nhân một lần cũng đã khó bằng lên trời rồi. Ngươi có khôn hồn thì ngoan ngoãn đi theo chúng ta, rập đầu tạ tội với phu nhân, không chừng phu nhân chúng ta khoan hồng đại lượng, tha mạng cho ngươi, chuyện đào tẩu thì chớ có tơ tưởng đến. Sư phụ ngươi đâu?
Cô gái áo đen kêu rít lên:
- Sư phụ ta ở sau lưng các ngươi chớ đâu.
Thụy bà bà, Bình bà bà cả bọn giật mình kinh hãi cùng quay lại. Thế nhưng sau lưng nào có ai ?
Đoàn Dự thấy cả bọn ai nấy tưởng thật hoảng hồn thất sắc, nhịn không nổi cười lên khanh khách. Bình bà bà hầm hầm nói:
- Cười cái gì?
Đoàn Dự cười:
- Buồn cười quá! Buồn cười quá!
Bình bà bà hỏi lại:
- Cái gì mà buồn cười?
Đoàn Dự đáp:
- Ha ha, buồn cười quá đỗi.
Bình bà bà hỏi thêm:
- Cái gì mà buồn cười quá đỗi?
Đoàn Dự đáp:
- Hì hì, buồn cười quá đỗi, buồn cười đến chết mất thôi!
Bình bà bà bực mình:
- Cái gì mà buồn cười đến chết mất thôi?
Thụy bà bà nói:
- Bình bà bà, mặc xác thằng nhãi thối tha đó.
Mụ quay sang cô gái áo đen nói:
- Cô nương từ Giang Nam chạy tới Đại Lý, bọn ta vạn dặm xa xôi đuổi tới tận đây, liệu cô nghĩ chúng ta có bỏ qua không? Bọn ta dẫu có chết hết trong tay cô nương cũng phải nhất định bắt cô đem về. Thôi cô ra tay đi.
Đoàn Dự nghe giọng Thụy bà bà có vẻ e ngại cô gái này, không khỏi lạ lùng, thấy trong sảnh mười bảy mười tám người phùng mang trợn mắt, tay cầm binh khí, nhưng không một ai dám xông lên trước. Bình bà bà hai tay hai đao, mấy lần tiến đến gần sau lưng cô gái rồi lại rụt về.
Cô gái áo đen nói:
- Này, anh chàng đưa tin kia, bây nhiêu người toan xông vào đánh một mình ta, anh tính sao đây?
Đoàn Dự đáp:
- Ôi, con Hắc Mai Côi đang ở bên ngoài, nếu cô phá vòng vây chạy ra được cưỡi ngựa chạy đi, con ngựa này cước trình thật nhanh, bọn họ không đuổi kịp được.
Cô gái hỏi lại:
- Thế còn anh thì sao?
Đoàn Dự trầm ngâm rồi đáp:
- Tôi vốn không quen không biết gì họ, chẳng thù chẳng oán, chắc họ cũng chẳng làm gì tôi đâu, thế nhưng cũng chưa biết thế nào được.
Nữ lang áo đen cười khẩy mấy tiếng nói:
- Nếu họ biết điều phải quấy như thế thì đâu có bấy nhiêu người vây đánh một mình ta. Cái mạng của anh coi như không còn nữa rồi, nếu như ta chạy được, anh có tâm nguyện gì muốn ta làm giùm anh chăng?
Đoàn Dự trong lòng chua chát nói:
- Bạn của cô là Chung cô nương ở núi Vô Lượng bị Thần Nông Bang bắt giữ, mẹ cô ta đưa cho tôi cái hộp này, đưa đến cho cha tôi, nhờ ông ta đi cứu. Nếu như ... nếu như ... cô nương có thể thoát thân được thì làm dùm chuyện này, tại hạ thật là cảm kích.
Nói đến đây chàng tiến lên mấy bước, lấy cái hộp vàng ra đưa tới. Chàng tới gần cô gái chừng hai thước, bỗng ngửi thấy một mùi hương, như lan mà không phải lan, như xạ mà không phải xạ, tuy không đậm đà chỉ thoang thoảng dìu dịu nhưng ngửi thấy lòng không khỏi lâng lâng.
Cô gái áo đen không quay đầu lại hỏi:
- Chung Linh xinh đẹp lắm, là ý trung nhân của anh chăng?
Đoàn Dự đáp:
- Không đâu. Chung cô nương tuổi còn nhỏ, tính tình ngây thơ, tôi đâu dám có ... có ý đó.
Cô gái đưa tay trái về sau cầm lấy cái hộp vàng. Đoàn Dự thấy bàn tay cô ta đeo một bao tay bằng lụa đen mỏng, không để lộ ra ngoài chút da thịt nào bèn nói:
- Cha tôi ở nơi thành Đại Lý, cô chỉ cần ...
Cô gái chặn lại:
- Để từ từ rồi nói cũng được.
Nàng bỏ chiếc hộp vào túi nói:
- Lão họ Chúc kia, mau cút ra khỏi nơi đây.
Một ông già râu tóc bạc trắng run run hỏi lại:
- Ngươi nói sao?
Cô gái gằn giọng:
- Ngươi mau cút ra khỏi sảnh, hôm nay ta không muốn giết ngươi.
Ông già kia vung kiếm đâm ra, quát lên:
- Ngươi nói lếu láo gì đó?
Giọng y run run, không hiểu vì quá phẫn nộ hay vì sợ hãi. Cô gái áo đen nói:
- Ngươi không phải thủ hạ của ác bà nương họ Vương, chẳng qua bị hai mụ già này rủ lại đây coi trò vui. Trên đường đi ngươi đối với ta có chiều nể nang, tên khốn kiếp kia toan giở mạng che mặt ta ra xem, ngươi liên tiếp ngăn trở. Hừ, ngươi xem ra không đáng chết, vậy mau cút ra khỏi đây ngay.
Ông già kia mặt xám ngoét, mũi kiếm cầm trong tay từ từ chúc xuống. Đoàn Dự khuyên:
- Cô nương, cô bảo ông ta đi ra cũng đủ rồi, đâu cần phải dùng chữ “cút”. Cô nói năng chẳng nể nang chút nào, Chúc lão gia tử sao không khỏi bực tức?
Ngờ đâu ông già họ Chúc vẻ mặt lúc thì do dự, lúc thì hoảng hốt, đột nhiên nghe keng một tiếng, trường kiếm rơi xuống đất, hai tay ôm mặt, quả thực chạy bay chạy biến ra ngoài. Y vừa giơ tay đẩy cửa sảnh, Bình bà bà vung tay phải ra, một ngọn đoản đao phóng vụt ra trúng ngay giữa lưng. Ông già đó dãy dụa một hồi, lăn lộn dưới đất ra xa cả trượng mới chết hẳn.
Đoàn Dự giận dữ nói:
- Hừ, mụ mập kia, vị lão gia đó cũng là cùng bọn với ngươi, sao ngươi nỡ hạ độc thủ?
Bình bà bà tay phải rút trong lưng ra một thanh đoản đao, hai tay lại có mỗi tay một đao, hết sức chăm chú theo dõi thiếu nữ áo đen, những lời Đoàn Dự nói như nghe mà không biết. Trên sảnh ai nấy tiến lên mấy bước, ra thế dường như sắp xông lên cùng tấn công, xem chừng chỉ cần một người ra lệnh, cả chục món binh khí sẽ nhắm ngay cô gái chém tới.
Đoàn Dự thấy tình hình như thế không khỏi bừng bừng căm giận, quát lớn:
- Các ngươi đông người như thế, vây đánh một cô gái yếu đuối tay không, thật không còn biết gì đến vương pháp hay thiên lý nữa hay sao?
Chàng tiến lên mấy bước chặn sau lưng cô gái áo đen, quát lên:
- Các ngươi có giỏi thì ra tay đi!
Chàng tuy không biết chút võ công nào nhưng đường đường chính khí, trông cũng có chút uy phong. Thụy bà bà thấy chàng có vẻ bất cần đời như thế, trong bụng lại đâm hoang mang, liệu rằng nếu gã thanh niên này nếu không phải thân mang tuyệt nghệ, cố ý giả vờ thì hẳn có kẻ nào ghê gớm lắm đứng đằng sau. Mụ ta phụng mệnh dẫn đồng bọn từ Giang Nam đuổi theo cô gái áo đen tới tận Đại Lý, ở chốn đất khách quê người, thực không muốn gây thêm rắc rối bèn nói:
- Các hạ nhất định phải nhúng tay vào việc này hay sao?
Giọng điệu thật là khách khí, Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế, ta không thể nào để cho các người lấy đông đánh một, cậy mạnh hiếp yếu được.
Thụy bà bà đáp:
- Các hạ thuộc môn phái nào? Đối với con tiểu tiện nhân này là họ hàng hay quen biết? Do ai sai khiến mà đến đây can thiệp vào chuyện này?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Ta không quen biết cũng chẳng họ hàng gì với cô nương này cả, thế nhưng trên đời này, việc gì cũng không qua khỏi chữ “lý”, ta khuyên các vị nếu bỏ qua được thì nên bỏ qua, bây nhiêu người mà hiếp đáp một cô gái đơn côi, có gì là vinh hạnh đâu?
Chàng nói nhỏ:
- Cô nương mau chạy đi, để tôi tìm cách nói phải quấy với họ.
Cô gái áo đen cũng nói nhỏ:
- Anh vì tôi mà chịu chết, sau này không hối hận hay sao?
Đoàn Dự trả lời như đinh đóng cột:
- Chết không hối hận.
Cô gái lại hỏi:
- Anh không sợ chết à?
Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:
- Dĩ nhiên là tôi sợ, có điều ... có điều ...
Cô gái đột nhiên lớn tiếng:
- Anh trói gà không chặt sao lại anh hùng hảo hán đến thế?
Tay phải cô ta vung ra một cái, hai sợi dây lưng sặc sỡ tung ra, chia ra trói hay tay hai chân Đoàn Dự. Thụy bà bà, Bình bà bà thấy cô ta bất thình lình tấn công Đoàn Dự, quả thực ra ngoài dự tính, ai nấy còn đang kinh ngạc thì tay trái của cô gái liên tiếp vung lên. Đoàn Dự chỉ nghe thấy tiếng huỳnh huỵch, bình bành liên tiếp, chung quanh đều có người ngã xuống, trước mắt đao kiếm lấp loáng, trong đại sảnh bao nhiêu đèn nến đột nhiên tắt cả, chỉ thấy tối om, còn mình thì như đằng vân giá vụ bị ai đó nhắc bổng lên.
Mấy biến cố đó nhanh thực là nhanh, chàng không còn biết mình đang ở đâu nữa, chỉ nghe chung quanh có tiếng người la hét nhốn nháo:
- Đừng để con tiện nhân trốn được.
- Coi chừng độc tiễn của nó.
- Ném phi đao! Ném phi đao!
Thế rồi leng keng, loảng xoảng liên tiếp, thân chàng bay bổng lên, tiếng vó câu thật dòn, chàng đã ở trên lưng ngựa, có điều chân tay bị trói chặt không sao nhúc nhích gì được.
Chàng thấy cổ mình tựa vào người ai, mũi ngửi thấy một mùi hương nồng nàn chính là mùi hương từ trên người cô gái. Ngựa chạy lộp cộp, vừa nhẹ nhàng, vừa vững chãi, tiếng hò hét của kẻ địch đuổi theo mỗi lúc một xa. Con Hắc Mai Côi thân thể đen tuyền, cô gái lại mặc toàn một màu đen, trong đêm trời tối mịt, có mở to mắt cũng không thấy gì, chỉ thấy một mùi hương thoang thoảng xông vào mũi, càng thêm kỳ bí.
Con ngựa chạy một hồi thì tiếng kêu la của địch nhân không còn nghe thấy nữa, Đoàn Dự nói:
- Cô nương, tôi có ngờ đâu cô tài nghệ ghê gớm đến thế, xin cô thả tôi ngồi dậy.
Cô gái áo đen chỉ hừ một tiếng, không để ý gì đến chàng. Chân tay Đoàn Dự bị trói chặt, con Hắc Mai Côi chạy một bước thì sợi dây lại chặt thêm một tí, chân tay mỗi lúc một đau, lại thêm chân cao đầu thấp, treo chéo trên lưng ngựa, càng lúc càng thêm nhức đầu hoa mắt, quả thực khổ sở biết bao liền nói:
- Cô nương, mau thả tôi ra nào.
Nghe bốp một tiếng, má chàng đã ăn một cái tát đau điếng. Cô gái cất giọng lạnh như tiền:
- Không được léo nhéo, cô nương không hỏi thì đừng mở mồm.
Đoàn Dự giận quá nói:
- Sao vậy?
Lại bốp bốp lãnh thêm hai cái nữa, lần này còn mạnh hơn kỳ trước, khiến chàng tai như ù đi. Đoàn Dự lớn tiếng kêu lên:
- Sao cô cứ động một tí là đánh người, có thả tôi ra không nào, tôi không muốn đi chung với cô nữa.
Đột nhiên chàng thấy thân mình tung lên, nghe bình một tiếng đã rơi bịch xuống đất, có điều tay chân đều bị trói chặt, một đầu dây vẫn còn trong tay cô gái, Đoàn Dự liền bị con ngựa giựt mạnh, kéo lê trên đường mà đi.
Cô gái quát một tiếng nhỏ ra lệnh cho con ngựa đi chậm lại, hỏi:
- Ngươi đã phục chưa? Có chịu nghe lời ta không nào?
Đoàn Dự lớn tiếng:
- Không phục, không phục! Không nghe, không nghe! Dù ta có chết ngay ta cũng không sợ. Ngươi mới hành hạ ta một tí, ta sợ ... ta sợ ...
Chàng vốn dĩ định nói “ta sợ gì đâu” nhưng ngay lúc đó trên đường có một cái gò, cháng bị xóc lên hai lần thành ra hai chữ “gì đâu” không nói ra được. Cô gái cười khẩy hỏi:
- Ngươi sợ rồi ư?
Nàng ta giựt một cái, chàng lại bật tung lên trên yên. Đoàn Dự nói:
- Ta muốn nói “Ta sợ gì đâu?” lẽ dĩ nhiên là không sợ, mau thả ta ra. Ta không muốn để ngươi lôi đi như thế này nữa.
Cô gái hừ một tiếng nói:
- Trước mặt ta đâu có ai được quyền nói? Ta muốn hành hạ ngươi, hay muốn ngươi chết dở sống đở, chứ đâu phải chỉ là “hành hạ một tí” mà thôi đâu?
Nói xong hất tay trái một cái lại quăng Đoàn Dự khỏi lưng ngựa, kéo lê dưới đất. Đoàn Dự trong bụng tức quá, nghĩ thầm: “Những kẻ kia mở miệng ra là gọi ngươi “tiểu tiện nhân” âu cũng phải”. Chàng bèn kêu lên:
- Nếu ngươi không thả ta ra, ta chửi cho đấy.
Cô gái trả lời:
- Ngươi có gan thì cứ chửi, trong một đời ta, bị chửi chưa đủ hay sao?
Đoàn Dự nghe thấy nàng trả lời dường như chứa đựng một nỗi đau lòng thành ra ba chữ “tiểu tiện nhân” vừa ra đến cửa miệng, trong lòng thấy xót xa, vội vàng ngừng lại.
Cô gái chờ một lát thấy chàng không mở miệng liền hỏi:
- Ồ, thì ra ngươi không dám chửi.
Đoàn Dự đáp:
- Ta nghe cô nói thấy đáng thương nên không nỡ chửi chứ nào có sợ gì đâu?
Cô gái huýt một tiếng dục ngựa, con Hắc Mai Côi liền tung bốn vó chạy nhanh hơn. Lần này Đoàn Dự thật là khổ, đầu cổ tay chân bị đá nhọn trên đường làm cho máu me dầm dề. Cô gái kêu lên:
- Ngươi có đầu hàng chưa nào?
Đoàn Dự lớn tiếng chửi:
- Ngươi không biết tốt xấu, trái phải, một đứa con gái tàn ác độc địa chẳng ra gì.
Cô gái đáp:
- Ta vốn dĩ tàn ác độc địa, việc gì phải đợi ngươi nói? Tưởng ta không biết hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ta ... ta ... đối với ngươi ... đối với ngươi ... một lòng tử tế ...
Đột nhiên đầu chàng va vào một cục đá trồi lên, lập tức mê man không còn biết gì nữa. Không biết bao lâu, bỗng thấy đầu mát rượi, chàng liền tỉnh lại, tiếp theo nước òng ọc chảy vào mồm, chàng vội ngậm miệng lại, nhưng sặc sụa ho lên sù sụ khiến cho nước chảy vào mồm vào mũi càng nhiều. Thì ra chàng bị buộc dây kéo lê trên đường, cô gái thấy chàng hôn mê liền giục ngựa chạy ngang một con suối để cho chàng thấm nước mà tỉnh lại. Cũng may con suối đó rất hẹp, con ngựa chỉ bước vài bước đã qua, Đoàn Dự áo quần ướt đẫm, bụng uống đầy nước căng phồng, trên mình đầy vết thương, quả thật vừa đau đớn vừa khó chịu.
Cô gái kia hỏi:
- Ngươi đã phục chưa nào?
Đoàn Dự nghĩ thầm: "Trên đời này sao lại có đứa con gái ngang ngạnh không biết điều đến thế, quả thật đúng là trời già cay nghiệt, âu cũng là cái số kiếp mình phải chịu nên mới rơi vào tay cô ta, có nói thêm nữa cũng bằng thừa". Cô gái hỏi mấy lần:
- Ngươi đã phục chưa? Chịu khổ như thế đã đủ chưa nào?
Đoàn Dự chẳng nói chẳng rằng, làm như không nghe thấy. Cô gái sẵng giọng:
- Bộ tai ngươi điếc hay sao? Sao không trả lời ta hả?
Đoàn Dự vẫn không lên tiếng. Cô gái gò cương ngựa quay lại xem chàng đã tỉnh chưa. Khi đó trời sắp qua đêm, phương đông đã hừng sáng, nàng thấy Đoàn Dự hai mắt mở thao láo, hậm hực nhìn mình, bèn quát:
- Giỏi nhỉ, ngươi đâu có bất tỉnh, lại giả chết để dỡn mặt với ta. Để ta cho ngươi biết tay xem ngươi ghê gớm, hay ta ghê gớm.
Nói xong nàng nhảy xuống ngựa, nhẹ nhàng tung mình lên một cây lớn bẻ một cành cây, nghe vút một tiếng đã quất một roi ngay mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự lần đầu cùng nàng đối diện, thấy nàng che mặt bằng một miếng vải đen, chỉ để lộ đôi mắt đen láy nhìn mình, mỉm cười nghĩ thầm: “Dĩ nhiên ngươi ghê gớm hơn, con đàn bà độc ác này, ai còn lợi hại hơn ngươi được nữa?”.
Cô gái hỏi:
- Đến nước này mà ngươi còn cười được ư? Ngươi cười gì?
Đoàn Dự nhìn nàng nhăn mặt trêu chọc, lại nhếch mép cười khiến cô gái giận dữ giơ roi quất luôn bảy tám cái. Đoàn Dự lúc này đã coi sống chết không vào đâu, mặt nhơn nhơn không thèm nói gì cả, cố hết sức nở một nụ cười. Thế nhưng cô gái kia ra tay thật là âm độc, khúc cây đánh xuống toàn nhằm vào chỗ nhược, dễ đau nhất khiến chàng mấy lần nhịn không nổi toan kêu lên nhưng rồi cố nghiến răng mà chịu.
Cô gái kia thấy chàng bướng bỉnh đến thế, hung hăng nói:
- Giỏi lắm, ngươi giả câm giả điếc, để ta cho ngươi thành điếc thật.
Nàng ta cho tay vào túi, lấy ra một thanh chủy thủ, mũi dao dài chừng bảy tấc, hàn quang lấp lánh tiến về phía chàng, giơ dao nhắm ngay tai phải Đoàn Dự quát lên:
- Ngươi không nghe ta nói hay sao? Ngươi muốn giữ hay không muốn giữ cái tai này?
Đoàn Dự cũng không thèm trả lời, cô gái mắt lộ hung quang giơ tay lên, chủy thủ trong tay đâm luôn vào tai chàng. Đoàn Dự hoảng quá kêu lên:
- Này, ngươi định đâm thật hay sao chứ? Ngươi đâm điếc tai ta, liệu có tài chữa cho khỏi hay không thì bảo?
Cô gái hứ một tiếng nói:
- Cô nương giết người còn làm cho sống lại được, ngươi không tin thì thử cho biết.
Đoàn Dự vội đáp:
- Ta tin, ta tin, khỏi cần thử làm gì.
Cô gái thấy chàng mở mồm nói, xem chừng phục mình lắm rồi nên không hành hạ thêm nữa, nhắc Đoàn Dự lên để lên yên ngựa, chính nàng ta cũng nhảy lên yên nhưng lần này để đầu cao chân thấp tử tế hơn một chút. Đoàn Dự không còn bị treo ngược đầu, tay chân tuy vẫn còn đau vì bị trói chặt, nhưng so với bị kéo lê dưới đất cũng một trời một vực nên không dám mở mồm chọc cho nàng ta nổi cáu.
Chạy được chừng hơn nửa giờ, Đoàn Dự mắc tiểu quá, muốn nói cô gái cho mình đi giải nhưng tay bị trói không cách nào ra hiệu, hơn nữa dẫu tay có tự do cũng không biết làm sao cho cô ta hiểu được nên đành phải nói:
- Tôi đau bụng xin cô nương thả tôi ra một chút.
Cô gái đáp:
- Hay lắm, thế là bây giờ ngươi hết câm rồi? Có còn gì để nói nữa không?
Đoàn Dự nói:
- Sự đến nước này đâu có dám để dây bẩn vào cô nương, cô nương là “hương mỹ nhân”, còn nếu như tôi biến thành “xú tiểu tử” thì thật đâu có hay ho gì.
Cô gái nhịn không nổi cười khì một tiếng, nghĩ bụng thôi thì đành phải thả y ra vậy nên rút kiếm ra cắt đứt dây cho chàng còn chính mình cũng đi ra chỗ khác. Đoàn Dự bị cô gái trói cả nửa ngày, chân tay tê cứng không sao cử động được, nằn lăn lộn trên mặt đất hồi lâu mới đứng lên nổi, đi tiểu xong thấy con Hắc Mai Côi đứng ở một bên gặm cỏ trông thật thuần tính nghĩ thầm: “Lúc này không chạy thì còn lúc nào?”. Chàng rón rén nhảy lên yên, con ngựa không kháng cự gì cả. Đoàn Dự cầm cương giựt ngựa chạy về hướng bắc.
Cô gái nghe tiếng ngựa hấp tấp đuổi theo nhưng con Hắc Mai Côi chạy nhanh vô tỉ, khinh công nàng tuy cao nhưng sao đuổi kịp. Đoàn Dự vòng tay nói:
- Cô nương, có ngày gặp lại.
Chàng chỉ nói được thế, con ngựa đã vọt lên đến hơn hai chục trượng. Chàng quay lại thấy cô gái đã bị hàng cây che khuất, thoát được độc thủ của con nữ ma đầu này rồi, trong lòng sung sướng không đâu cho hết, miệng liên tiếp giục ngựa:
- Ngựa ngoan ơi, ngựa tốt ơi! nhanh lên nào, nhanh lên nào!
Hắc Mai Côi chạy được chừng một dặm, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mình lằng nhằng mất một ngày, không biết có còn kịp cứu Chung cô nương nữa hay không? Nếu mình chạy suốt, không ăn không ngủ không kể sống chết chẳng biết Hắc Mai Côi chịu nổi hay không?”. Chàng còn đang suy tính, bỗng nghe từ đằng sau xa xa truyền lại một tiếng hú thật trong trẻo.
Hắc Mai Côi nghe thấy tiếng hú, lập tức quay đầu, theo đường cũ chạy ngược về. Đoàn Dự hết sức hoảng hốt, vội kêu:
- Ngựa tốt ơi, ngựa ngoan ơi! Đừng có quay lại.
Chàng hết sức gò dây cương cố bắt con ngựa quay đầu. Thế nhưng tuy con Hắc Mai Côi bị kéo ngoẹo cả đầu sang một bên, thân hình vẫn cứ thẳng đường chạy tới, không nghe chàng chỉ huy nữa.
Chỉ trong giây lát, con ngựa đã chạy tới trước mặt cô gái đứng phắt lại. Đoàn Dự dở khóc dở cười, thần sắc thật là ngượng ngùng. Cô gái kia lạnh lùng hỏi:
- Ta vốn chẳng muốn giết ngươi, thế nhưng ngươi len lén bỏ trốn, lại còn ăn cắp con Hắc Mai Côi của ta, thế có phải là đại trượng phu chăng?
Đoàn Dự nhảy xuống ngựa, ngang nhiên đáp:
- Ta nào có phải là nô lệ của cô đâu, muốn đi đâu thì đi, làm gì có chuyện “len lén bỏ trốn”? Hắc Mai Côi là cô cho ta mượn, ta đã trả lại đâu, sao lại gọi là ăn cắp được. Cô muốn giết ta thì giết có sao. Tăng Tử nói: “Tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ”. Ta tự mình quay lại, có gì mà không phải đại trượng phu?
Cô gái nói:
- Cái gì mà “súc” với chả không “súc”? Ngươi có rụt đầu ta cũng cho ngươi một kiếm.
Nàng không hiểu Đoàn Dự dẫn kinh sách ra nói, tay cầm cán kiếm, rút ra nửa chừng nói:
- Ngươi lớn mật như thế, bộ tưởng ta không dám giết hay sao? Ngươi ỷ vào thế của ai mà dám ngang nhiên chống báng với ta?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi đối với cô nương không có điều gì phải hổ thẹn, việc gì phải dựa dẫm thế của người nào?
Đôi mắt lạnh như băng của cô gái nhìn thẳng vào Đoàn Dự, Đoàn Dự cũng giương mắt nhìn lại không hề hãi sợ chút nào. Hai người đứng nhìn nhau một hồi, nghe soạt một tiếng cô gái đã tra kiếm trở vào bao, quát lên:
- Ngươi đi đi! Ta tạm để cái đầu trên cổ ngươi, để khi nào cô nương cao hứng sẽ tới lấy.
Đoàn Dự vốn dĩ coi như mình chắc chết rồi, không ngờ nàng ta lại thả cho mình đi, hơi ngạc nhiên nhưng không dám nói thêm, quay mình khập khễnh bước đi.
Chàng đi được chừng mươi trượng, không nghe tiếng vó ngựa, quay đầu lại nhìn, thấy cô gái vẫn đứng đó ngơ ngơ ngẩn ngẩn, nghĩ thầm: “Chắc nàng ta đang tính toán chuyện gì thật ác độc như mèo vờn chuột, đùa rỡn với mình một hồi rồi mới giết. Thôi được, ta có chạy cũng không xong, chi bằng kệ nó đến đâu thì đến”. Ngờ đâu chàng càng đi càng xa nhưng vẫn không thấy cô gái cưỡi ngựa đuổi tới.
Chàng rẽ luôn qua mấy con đường nhánh bấy giờ mới thấy hơi yên tâm, những vết thương trên đầu trên cổ, trên chân trên tay lúc này mới thấy đau, nghĩ thầm: “Cô gái này bụng dạ thật là quái đản, hay là cô ta cha mẹ chết hết rồi, cuộc đời gặp phải biết bao nhiêu chuyện bất hạnh. Hay là cô ta mặt mũi thật xấu xa nên không dám lộ mặt ra nhìn ai, thế thì quả là đáng thương thật. Chao ôi! Cái hộp vàng của Chung phu nhân đưa cho ta nay ở bên nàng rồi”.
Chàng muốn quay lại đòi nhưng lại không dám, nghĩ thầm: “Ta gặp cha ta, cùng lắm là bằng lòng học võ công, cha ta thể nào cũng đi cứu Chung cô nương, còn như nếu cha ta không chính mình đi, cử người khác đi thì cũng được. Cái hộp đó cũng chẳng dùng được bao nhiêu nhưng ta không có ngựa cưỡi, điệu này đi về Đại Lý thì nửa đường đã bị chất độc phát tác chết rồi. Chung cô nương chờ đợi cứu viện mỏi mòn, một ngày dài như một năm, nàng không thấy ta quay lại, cha nàng cũng không tới chắc lại tưởng mình không đưa tin. Chi bằng mình quay lại núi Vô Lượng, cùng nàng chết chung một nơi để cho nàng hay ta không có ý phụ nàng”.
Chàng đã quyết ý như thế, lập tức nhắm kỹ phương hướng, hăng hái rảo bước, nhắm núi Vô Lượng mà đi. Bờ sông Lan Thương thật là hoang dã, đi đến mấy chục dặm vẫn không hề thấy một mái nhà. Hôm đó chàng đành hái một số trái cây dại ăn cho đỡ đói, đến đêm thì kiếm một cái hốc núi ngủ cho qua. Hôm sau quá trưa, lại đến một chiếc cầu làm bằng xích sắt, qua trở lại bờ sông bên kia, đi đến hơn ba chục dặm đến được một cái thị trấn nhỏ. Bao nhiêu tiền bạc khi chàng rơi xuống thâm cốc bên cạnh vách núi đã mất hết rồi. Nhìn lại toàn thân y phục rách bươm, bụng lại đói quá, chỉ còn miếng bích ngọc trên mũ là quí giá bèn lấy xuống đến một tiệm bán gạo trong thị trấn gạ đổi. Tiệm gạo nào có phải nơi đổi ngọc nhưng ở đây chỉ có tiệm này là lớn nhất, người chủ tiệm thấy chàng khí khái hiên ngang, không dám coi thường nhưng không biết giá trị của viên ngọc, chỉ trả có hai lạng bạc. Đoàn Dự cũng chẳng kèo nài, cầm tiền định đi mua áo mũ, nhưng thị trấn nhỏ quá không có chỗ bán y phục nên đành đến quán mua cơm ăn.
Chàng vừa ngồi xuống ghế, hai đầu gối theo chỗ rách thò ra, trường bào vạt trước vạt sau rách mất cả rồi, quần thì sau đũng cũng có mấy cái lỗ lớn, lộ cả mông ra, gió thổi hiu hiu nghĩ thầm: “Cái cảnh lòi da lòi thịt thế này trông thật bất nhã, phải tìm cách nào che đi mới được”.
Gã chủ quán mang đồ ăn lên nói:
- Hôm nay không gặp ngày, chẳng có cá thịt gì hết, xin tướng công ăn ít rau dưa đậu phụ qua bữa vậy.
Đoàn Dự đáp: “Không sao! Không sao!” Nói xong liền cầm đũa lên ăn ngay. Chàng con nhà quyền quí, hôm nay ăn mặc rách rưới hở cả mông, ngồi ăn mấy món bình dân nhưng vì mấy ngày qua không có hạt cơm nào vào bụng, tuy chỉ rau đậu nhưng ngon miệng vô cùng. Chàng ăn đến bát thứ ba bỗng nghe ngoài cửa tiệm có tiếng người nói:
- Nương tử, ở đây có cái quán nhỏ, vào xem có gì ăn không nào?
Có tiếng một người đàn bà ỏn ẻn:
- Gớm xem ra chàng chẳng bao giờ thấy no cả.
Đoàn Dự nghe thấy thanh âm thật quen thuộc, lập tức nhận ra ngay đó là Can Quang Hào của phái Vô Lượng Kiếm cùng với Cát sư muội của y, trong bụng hoảng hốt, vội vàng quay mặt vào tường, nghĩ thầm: “Sao y lại gọi là “nương tử” nhỉ? Ồ, thế ra họ đã thành vợ chồng. Ta xủ phải quẻ Vô Vọng, hào lục tam, Vô Vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai. Vị Can lão huynh kia được vợ, còn Đoàn công tử này lại bị vạ lây.
Lại nghe Can Quang Hào cười hì hì nói:
- Vợ chồng mới cưới, có biết thế nào là no?
Cô nàng Cát sư muội kia bèn hứ một cái, tủm tỉm cười nói nhỏ:
- Đồ chết tiệt! Thế chắc đến lúc răng long đầu bạc rồi lúc ấy mới no hay sao?
Giọng thị nghe đầy vẻ gió trăng. Hai người vào quán ngồi xuống, Can Quang Hào liền kêu lên:
- Chủ quán đâu, đem rượu thịt ra đây, có thịt bò thì lấy ra một bát trước ... ủa ...
Đoàn Dự nghe thấy tiếng bước chân ở đằng sau, một bàn tay to lớn chộp luôn vào vai phải, xoay ngược chàng lại, đối diện với Can Quang Hào. Đoàn Dự cười gượng:
- Can lão huynh, Can đại tẩu, kính chúc hai vị trăm năm hòa hợp, đầu bạc răng long, hai phái Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm nay hợp làm một.
Can Quang Hào cười ha hả, quay đầu liếc nhìn Cát sư muội của y một cái. Đoàn Dự thuận thế nhìn theo, thấy mụ Cát sư muội này mặt trái xoan, má bên trái có mấy nốt rỗ hoa, nhưng trông cũng khá xinh xắn. Có điều y thị đầy vẻ kinh ngạc, nhưng dần dần chuyển thành hung quang, gằn giọng hỏi:
- Hỏi nó cho rõ ràng làm sao đến được nơi đây? Chung quanh có người nào của Vô Lượng Kiếm không?
Vẻ tươi cười trên mặt Can Quang Hào liền biến mất, đổi thành hầm hầm hỏi:
- Vợ ta nói gì ngươi có nghe không? Nói mau.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta phải nói nhăng nói cuội một phen, dọa cho chúng bỏ chạy, nếu không hai đứa này thể nào cũng giết mình để bịt miệng”. Chàng bèn nói:
- Quí phái có bốn vị sư huynh, tay cầm trường kiếm, vừa mới hấp ta hấp tấp chạy qua đây, đi về hướng đông, dường như đang đuổi theo ai đó.
Can Quang Hào thất sắc, nói với Cát sư muội:
- Thôi đi.
Mụ vợ y liền đứng lên, tay phải ra thế giết người. Can Quang Hào gật đầu, rút phắt trường kiếm, nhắm ngay cổ Đoàn Dự chém tới. Nhát kiếm đó thật nhanh, Đoàn Dự thấy mụ Cát sư muội kia ra hiệu biết là không xong, vội rụt người về sau nhưng làm sao tránh kịp, chỉ thấy một lưỡi đao trắng vụt tới cổ mình, đột nhiên nghe bụp một tiếng nho nhỏ, Can Quang Hào ngã ngửa ra, trường kiếm tuột tay rơi xuống. Lại nghe bụp một tiếng khác, mụ Cát sư muội kia đang toan chạy ra, nghe thấy tiếng Can Quang Hào kêu lên, chưa kịp quay đầu lại nhìn, thì cũng đã gục ngay bên ngạch cửa.
Hai người chỉ kịp oằn oại mấy cái rồi nằm yên, trên cổ Can Quang Hào cắm một mũi tên nhỏ màu đen, còn Cát sư muội kia thì đằng sau ót trúng tiễn. Hai tiếng vụt vụt đó chính là tiếng mà cô gái áo đen tối hôm qua dập tắt nến, bắn ám khí giết địch nhân để tháo lui.
Đoàn Dự vừa mừng vừa lo, quay đầu nhìn ra thấy đằng sau không có ai cả, nhưng nghe bên ngoài cửa quán có tiếng ngựa hí đã thấy cô gái cưỡi con Hắc Mai Côi chầm chậm chạy ngang. Đoàn Dự kêu lên:
- Đa tạ cô nương cứu mạng.
Chàng chạy vội ra, cô gái không thèm liếc mắt nhìn chàng, cứ giục ngựa chạy tiếp. Đoàn Dự nói:
- Nếu không nhờ cô bắn hai mũi tên thì lúc này đầu tôi không còn trên cổ nữa rồi.
Cô gái cũng không buồn trả lời. Gã chủ quán đuổi theo kêu lên:
- Tướng ... tướng công, giết ... giết người rồi, đâu có bỏ đi được.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:45 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Đoàn Dự đáp:
- Ôi chao, ta chưa trả tiền ăn.
Chàng mò tay vào túi lấy tiền nhưng thấy con Hắc Mai Côi đã đi xa mấy trượng vội kêu:
- Trong người chết có tiền định dùng làm đám cưới, ngươi lấy đó mà dùng.
Nói rồi chàng đuổi theo con ngựa. Cô gái cho ngựa chạy chậm lại, cả hai chẳng mấy chốc đã ra khỏi thị trấn. Đoàn Dự lẽo đẽo theo sau, nói:
- Cô nương, cô đã tốt bụng thì làm ơn cho trót, nhờ cô đi cứu Chung cô nương luôn thể.
Cô gái lạnh lùng nói:
- Chung Linh là bạn ta, ta vốn định đi cứu có điều ta rất ghét ai xin xỏ. Ngươi cầu ta cứu Chung Linh, đã thế ta không đi cứu nữa.
Đoàn Dự vội nói:
- Được, thế thì tôi không cầu nữa.
Cô gái nói:
- Thế nhưng ngươi đã cầu rồi.
Đoàn Dự nói:
- Thôi thì những gì tôi nói không tính đến.
Cô gái hỏi:
- Hứ, ngươi là nam tử hán đại trượng phu, nói rồi lẽ nào lại không tính?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lúc trước ta nhất định tự coi mình là đại trượng phu nàng đã biết rồi, thôi đành để cứu mạng Chung cô nương, mình có không phải đại trượng phu cũng không sao”. Chàng bèn nói:
- Tôi không phải là nam tử hán đại trượng phu, cái ... cái mạng giun dế của tôi ... tôi toàn là do cô nương cứu.
Cô gái bật cười, đưa mắt nhìn chàng xem nói thật hay đùa:
- Ngươi đối với con tiểu quỉ Chung Linh tốt quá nhỉ. Hôm qua ngươi thà chết chứ nhất định phải là đại trượng phu, sao hôm nay lại chịu làm giun dế? Hừ, ta không cứu Chung Linh đâu.
Đoàn Dự vội nói:
- Thế ... thế thì phải làm sao đây?
Cô gái đáp:
- Sư phụ ta có bảo rằng đàn ông con trai trên đời này chẳng có ai tử tế cả, toàn là đầu môi chót lưỡi để đánh lừa đàn bà con gái thôi, còn trong bụng thì toan tính chuyện xấu xa. Đàn ông con trai một câu cũng không tin nổi.
Đoàn Dự nói:
- Cái đó cũng không phải là hoàn toàn đúng, chẳng hạn ... chẳng hạn ...
Chàng nhất thời chưa nghĩ ra ai bèn nói:
- Chẳng hạn như cha cô nương, là người tử tế lắm chứ.
Cô gái đáp:
- Sư phụ ta bảo rằng, cha ta cũng không phải là người tốt.
Đoàn Dự thấy cô gái thúc ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, mình đuổi không thể nào kịp bèn gọi:
- Cô nương, chậm lại.
Đột nhiên thấp thoáng, từ khu rừng bên cạnh bốn người xông ra chặn đường. Hắc Mai Côi liền ngừng vó, lùi lại hai bước. Cả bốn người đều là con gái còn trẻ, ai nấy đều mang áo khoác màu xanh biếc, trong tay cầm song câu, người đứng giữa quát lớn:
- Các ngươi hai người, hẳn là Can Quang Hào và Cát Quang Bội của Vô Lượng Kiếm, đúng không?
Đoàn Dự đáp:
- Không phải, không phải. Can Quang Hào và Cát cô nương, hai người đã .. hai người đã ..
Cô gái kia hỏi:
- Đã đã cái gì? Các ngươi một nam một nữ, tuổi trẻ đi chung với nhau, trông sớn sác đúng là dẫn nhau đi trốn, sao lại không phải là hai đứa bạn đồ Can Cát của Vô Lượng Kiếm?
Đoàn Dự cười nói:
- Cô nương nói sao vô lý quá. Cát Quang Bội trên mặt có mấy nốt rỗ hoa, còn cô nương đây hoa dung nguyệt mạo đâu có giống chút nào.
Cô gái quay sang quát nữ lang áo đen:
- Bỏ khăn che mặt xuống.
Bỗng tách tách tách tách, cô gái áo đen đã bắn ra bốn mũi đoản tiễn, keng keng hai tiếng, hai người đã giơ câu ra gạt được, còn hai người trúng tên ngã xuống. Bốn mũi tên bắn ra không có một dấu hiệu gì trước, thế đi lại thật nhanh vậy mà hai mũi tên cũng không trúng. Cô gái áo đen lập tức nhảy khỏi lưng ngựa, còn đang trên không đã rút phắt trường kiếm, chân trái vừa chấm đất, chân phải đã vọt lên soẹt soẹt đâm luôn hai nhát, tấn công hai cô gái kia. Hai cô gái cũng vừa múa câu xông lên, một người chống đỡ cô gái áo đen, còn một người vung lên đâm vào Đoàn Dự.
Đoàn Dự kêu “Ối trời!” một tiếng, chui tọt ngay vào dưới bụng con Hắc Mai Côi. Cô gái kia ngạc nhiên, không ngờ người này lại dùng một chiêu số quái đị đến thế, đang toan đuổi theo đâm Đoàn Dự, lưng bỗng đau nhói, lập tức ngã xuống, thì ra cô gái áo đen đã thừa cơ bắn một mũi tên.
Thế nhưng vì phải phân tâm, cánh tay trái của cô ta đã bị địch nhân móc phải, soẹt một tiếng rách mất một nửa tay áo, để lộ cánh tay trắng như tuyết, trên tay cũng bị rạch một đường dài cả thước, máu túa ra.
Cô gái áo đen liền múa kiếm tấn công nhưng người con gái sử câu kia võ nghệ ghê gớm quá, song câu huy động, chiêu số xảo diệu, đấu thêm một hồi thì đùi cô gái áo đen lại trúng câu, bị rạch rách cả quần. Nàng liên tiếp bắn ra hai mũi tên nhưng đều bị đối phương gạt ra được.
Người con gái kia luôn mồm quát hỏi:
- Ngươi là ai? Kiếm pháp của ngươi không phải Vô Lượng Kiếm.
Cô gái áo đen không trả lời kiếm chiêu càng lúc càng tấn công gấp rút hơn. Đột nhiên nàng “A” lên một tiếng, trường kiếm bị một thanh câu móc trúng, địch nhân liền xoay cổ tay một cái, thanh kiếm cầm không vững, bay tung lên trời vội vàng nhảy lên theo. Người sử câu lập tức liên tiếp đâm luôn mấy cái nhưng nàng đều tránh được.
Đoàn Dự đứng coi trong lòng bồn chồn vạn phần, khổ nỗi không có tài ba gì mà xông vào giúp đỡ, thấy cô gái áo đen nguy cấp đến nơi, không nghĩ ngợi thêm, ôm luôn một cái xác dưới đất bồng lên làm như một cây bổng lớn xông tới húc vào cô gái cầm song câu.
Nàng ta giật mình, thấy kẻ húc tới lại chính là đầu của chị em bên mình, trong lòng đau đớn, lấy câu đâm luôn vào mặt Đoàn Dự nhưng vì vướng cái xác chết nên còn cách xa đến cả nửa thước, nghe bình một tiếng, ngực đã bị cái đầu xác chết đụng vào. Ngay lúc đó, một mũi đoản tiễn đã bắn ngay vào mắt phải, ngã lăn ra chết ngay.
Đoàn Dự thấy cô gái áo đen khuỵu đầu gối vội kêu:
- Cô nương, cô ... cô có sao không?
Chàng chạy đến bên cạnh giơ tay đỡ, cô gái kia đứng bật dậy, ngờ đâu Đoàn Dự trong cơn hoảng loạn vẫn còn vác cả cái xác chết húc ngay đầu tử thi vào ngực nàng. Cô gái giơ tay đẩy đầu xác chết ra, Đoàn Dự kêu “Ối” một cái ngã lăn cù, cái xác kia liền đè lên người chàng.
Cô gái thấy chàng vụng về lúng túng như thế bật cười khúc khích, nghĩ lại cuộc chiến vừa qua nguy hiểm vạn phần, nếu lúc đầu không bất ngờ ra tay giết được hai người, lại không được Đoàn Dự đứng bên cạnh ra tay giúp, e rằng chỉ một người cầm song câu nàng đã không chống nổi. Không biết bốn thiếu nữ này lai lịch ra sao, võ công sao cao cường đến thế? Nàng kêu lên:
- Này, chàng ngốc ơi! Anh cứ ôm cái xác đó làm gì thế?
Đoàn Dự lồm cồm ngồi dậy, vứt cái xác xuống nói:
- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Ôi, quả thật ta có lỗi. Các ngươi nhận lầm người, cứ thong thả hỏi han cho ra lẽ, sao lại nói năng lếu láo để cô nương phải nổi giận đến nỗi chết oan. Cô nương ơi! Đúng ra cô đâu cần giết họ làm gì, cứ mở khăn ra cho họ coi một tí thì đâu có gì xảy ra.
Cô gái hậm hực quát:
- Câm mồm! Ta phải để đến anh dạy dỗ nữa hay sao? Ai bảo chúng nói hai đứa mình dẫn nhau ... cái gì ... cái gì đó.
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế, đúng thế! Chính là họ nói năng không đâu vào đâu nhưng cô nương cũng chẳng nên giết người làm gì. A, cô ... vết thương của cô phải buộc lại chứ.
Chàng thấy đùi nàng lộ làn da trắng nõn, không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác. Cô gái bị chàng lải nhải trách cứ chuyện giết người, bực bội toan tiến lên vả cho chàng mấy cái, nghe đề cập đến vết thương, mới thấy tay và đùi đau đớn, cũng may cả hai vết thương chỉ bị móc vào da thịt rất nông, không chạm đến gân cốt, vội vàng lấy kim sang đắp lên, xé rách chiếc áo khoác của kẻ địch buộc đùi lại.
Đoàn Dự kéo mấy cái xác vào trong đám cỏ nói:
- Đúng ra mình nên chôn cất họ cho tử tế, thế nhưng nơi đây không có cuốc xẻng. Ôi, bốn cô gái tuổi còn thanh xuân, dung mạo tuy không nói là đẹp, nhưng cũng chẳng đến nỗi xấu ...
Cô gái nghe chàng nói đếu mặt mũi xấu đẹp liền hỏi:
- Này, sao anh biết tôi mặt không bị rỗ, lại bảo cái gì nguyệt thẹn hoa nhường là sao?
Đoàn Dự cười nói:
- Cái đó gọi là cái lý đương nhiên đấy thôi.
Cô gái hỏi:
- Cái lý đương nhiên là thế nào?
Đoàn Dự đáp:
- Cái lý đương nhiên có nghĩa là đương nhiên phải là như thế.
Cô gái nói:
- Chỉ đoán mò. Anh có nằm mơ cũng không biết được mặt mũi tôi ra sao, mặt tôi rỗ nhằng rỗ nhịt đó.
Đoàn Dự đáp:
- Không đâu, không đâu! Cô đừng quá khiêm nhường.
Cô gái thấy quần áo mình bị câu móc rách nên lột một chiếc áo khoác của xác chết choàng lên người. Đoàn Dự kêu lên: “Chao ôi!” nghĩ đến quần mình cũng bị toạc mấy lỗ lớn, mông đít lòi cả ra trước mặt cô gái này, còn ra thể thống gì nữa? Chàng không dám quay lưng về phía cô ta, vội vàng đi giật lùi bắt chước lột lấy một cái áo choàng trên một xác chết, khoác lên mình. Cô gái bật cười, Đoàn Dự mặt đỏ như gấc, nghĩ đến quần mình rách một mảng lớn, xấu hổ không đâu kể xiết.
Cô gái nhổ mấy mũi tên ngắn trên người những xác chết bỏ vào túi, lại đá luôn mấy cái vào kẻ đã móc trúng cô ta. Đoàn Dự nói:
- Đoản tiễn của cô “kiến huyết phong hầu” , thật là độc địa. Tôi khuyên cô nương từ nay về sau chỉ khi nào vạn bất đắc dĩ, chớ có nên dùng làm gì, làm tổn thương nhân mạng là phạm đến đức hiếu sinh của trời đất, nếu như ...
Cô gái quát:
- Anh mà còn lải nhải nữa liệu có muốn nếm mùi “kiến huyết phong hầu” hay chăng ?
Tay phải nàng vung lên, nghe vút một tiếng, một mũi độc tiễn xẹt ngang người Đoàn Dự cắm thẳng xuống đất. Đoàn Dự mặt xanh như tàu lá, không dám nói gì thêm. Cô gái nói:
- Nếu đã phong được yết hầu anh thì liệu có còn lải nhải được nữa hay không?
Nói xong nàng đi đến nhổ mũi tên lên, giơ tay nhứ nhứ về phía Đoàn Dự. Đoàn Dự sợ quá nhảy vọt về sau. Cô gái cười khanh khách, bỏ mũi tên vào túi, trừng mắt nhìn chàng nói:
- Anh khoác cái áo đó, muốn giả làm một cô gái thì phải kéo cái áo choàng lên che đầu. Lỡ có gặp ai, người ta không bảo là mình một nam một nữ bỏ ...
Đoàn Dự nói:
- Đúng lắm! Đúng lắm!
Chàng nghe lời cởi chiếc mũ vuông trên đầu xuống, bỏ vào trong túi, kéo chiếc áo choàng lên che. Cô gái vỗ tay cười khanh khách. Đoàn Dự thấy nàng dáng thật ngây thơ, nghĩ thầm: “Xem thần tình nàng, e rằng còn ít tuổi hơn ta, sao lại ra tay giết người tàn độc đến thế?”. Chàng thấy chiếc áo khoác của nàng trên ngực có thêu một con chim đại bàng đen, ngửng đầu nhìn chằm chằm, thần thái uy mãnh, trên ngực mình cũng có một con y như thế bèn lắc đầu thở dài:
- Con gái nhà người khác có thêu thì thêu hoa, thêu bướm, ai lại thêu hình một con chim hung tợn thế này, xem ra thích gây gỗ quá.
Nói xong chàng lại lắc đầu quầy quậy. Cô gái trừng mắt nói:
- Anh nói bóng gió tôi đấy chăng?
Đoàn Dự vội đáp:
- Không đâu, không đâu! Ai dám thế! Ai dám thế!
Cô gái vặn lại:
- Thế thì anh quả là “không đâu” hay là “không dám”?
Đoàn Dự đáp:
- Không dám đâu.
Cô gái không nói thêm nữa. Đoàn Dự hỏi:
- Vết thương cô có đau lắm không? Mình nghỉ một chút nhé?
Cô gái đáp:
- Vết thương dĩ nhiên là đau, để tôi cắt trên người anh vài dao, xem anh có đau không nào?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngang ngược chua ngoa đến như cô này là quá lắm rồi”. Cô gái lại hỏi:
- Có thực sự anh lo lắng cho tôi hay không? Trên đời này làm gì có người con trai nào tốt đến thế? Có phải anh mong tôi mau mau đi cứu Chung Linh nhưng không nói ra chứ gì? Thôi đi!
Nói xong nàng đi đến bên con Hắc Mai Côi, nhảy lên lưng ngựa, chỉ tay về hướng tây bắc nói:
- Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm ở phía đó, phải không nào?
Đoàn Dự đáp:
- Dường như là thế.
Hai người chầm chậm đi về hướng tây bắc. Được một lúc, cô gái lại hỏi:
- Trong cái hộp vàng có ngày sinh tháng đẻ là của ai thế?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra cô ả đã mở ra coi rồi”. Chàng bèn nói:
- Tôi không biết.
Cô gái hỏi:
- Của Chung Linh, có phải không?
Đoàn Dự đáp:
- Quả thực tôi không biết.
Cô gái nói:
- Sao anh còn dấu tôi? Chung phu nhân hứa gả con gái cho anh, có phải không? Nói thật cho tôi nghe đi.
Đoàn Dự đáp:
- Không đâu, quả là không có. Đoàn Dự này nếu như nói láo cô nương, cô cứ việc cho tôi nếm mùi “kiến huyết phong hầu”.
Cô gái lại hỏi thêm:
- Anh họ Đoàn đấy ư? Tên là Đoàn Dự à?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế! Chữ Dự là danh dự.
Cô gái nói:
- Hừ, thế danh dự anh có ra gì không? Sao tôi chẳng thấy gì cả.
Đoàn Dự cười đáp:
- Danh dự xấu thì có. Đó cũng là chữ dự.
Cô gái nói:
- Thế thì đúng rồi.
Đoàn Dự nói:
- Còn tôn tính của cô nương?
Cô gái nói:
- Sao tôi lại phải nói cho anh nghe? Tên anh tự miệng nói ra chứ tôi đâu có hỏi.
Chạy một đoạn nữa, cô gái lại hỏi:
- Đến khi mình cứu được Chung Linh ra rồi, con nhãi đó thể nào chả nói tên tôi ra, anh không được nghe đấy nhé.
Đoàn Dự cố nhịn cười:
- Được rồi, tôi không nghe đâu.
Cô gái xem chừng câu trả lời đó không xuôi nói thêm:
- Nếu như anh có nghe cũng không được nhớ.
Đoàn Dự đáp:
- Được rồi, nếu như có lỡ nhớ thì tôi cũng phải tìm cách quên đi.
Cô gái nói:
- Hứ, anh định nhạo báng tôi, tưởng tôi không biết hay sao?
Trong khi nói chuyện trời tối dần, chẳng bao lâu mặt trăng đã nhô lên ở phương đông, hai người nhờ có ánh trăng tìm đường mà đi. Đi được chừng hai canh, nhìn xa xa nơi triền núi có những đốm lửa điểm sáng lấp lánh, ở phía đông có một ngọn núi vươn lên cao, dưới chân núi là mươi gian nhà lớn, chính là Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm. Đoàn Dự chỉ vào những ngọn lửa nói:
- Thần Nông Bang ở phía bên kia, bọn mình lẳng lặng tới đó, cướp lấy Chung Linh rồi chạy, có được chăng?
Cô gái lạnh lùng hỏi:
- Chạy cách nào?
Đoàn Dự đáp:
- Cô và Chung Linh hai người cưỡi con Hắc Mai Côi chạy cho nhanh, Thần Nông Bang không thể nào đuổi kịp.
Cô gái hỏi:
- Còn anh thì sao?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi bị Thần Nông Bang ép phải uống thuốc độc đoạn trường tán, Tư Không Huyền nói là sau bảy ngày, chất độc phát tác sẽ chết, thành thử tôi phải làm cách nào lừa chúng cho thuốc giải trước rồi mới chạy được.
Cô gái nói:
- Thì ra anh đã bị chúng ép uống thuốc độc rồi. Sao anh không tìm cách nào giải độc cho xong lại chạy về báo tin cho tôi làm gì?
Đoàn Dự dáp:
- Tôi vẫn nghĩ con Hắc Mai Côi chạy nhanh như thế, có quay trở về báo tin cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian.
Cô gái hỏi vặn lại:
- Anh vốn là người trời sinh tốt bụng hay là một chàng ngốc?
Đoàn Dự cười:
- E rằng mỗi thứ một nửa.
Cô gái hừ một tiếng nói:
- Làm cách nào đánh lừa lấy được giải dược đây?
Đoàn Dự trù trừ rồi nói:
- Nói cho đúng nếu có thuốc giải thiểm điện điêu đem tới đổi cho chúng lấy thuốc giải đoạn trường tán là tốt nhất. Bọn chúng không có thuốc giải thiểm điện điêu thì thuốc giải đoạn trường tán thật khó mà đánh lừa để có được. Cô nương, cô có biện pháp gì không?
Cô gái đáp:
- Đàn ông con trai mới giỏi đánh lừa người khác, tôi làm gì có cách nào để lừa người ta. Chỉ có cách ép chúng phải vừa thả Chung Linh, vừa đưa thuốc giải.
Đoàn Dự rợn người biết rằng nàng toan đánh giết một trận, nghĩ thầm: “Hay nhất ... hay nhất ...”. thế nhưng cái hay nhất ấy thế nào, chàng vẫn nghĩ chưa ra.
Hai người sánh vai đi về phía đống lửa. Đi đến chỗ còn cách đống lửa to nhất chừng vài mươi trượng, trong bóng tối đột nhiên có hai người nhảy ra, tay cầm mai đào thuốc, giơ ngang ngực. Một người quát hỏi:
- Ai đó? Có việc gì?
Cô gái đáp:
- Tư Không Huyền đâu? Mao bảo y ra gặp ta.
Hai người đó dưới ánh trăng thấy cô gái và Đoàn Dự đều khoác áo choàng cẩm đoạn màu xanh biếc, trên ngực thêu một con đại bàng đen nên hoảng hồn, lập tức quì xuống. Một người nói:
- Vâng, vâng! Tiểu nhân không biết thánh sứ của Linh Thứu Cung giá lâm, quả ... quả là mạo phạm, mong thánh sứ tha tội cho.
Giọng y run run hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Đoàn Dự lấy làm lạ: “Cái gì mà thánh sứ Linh Thứu Cung là sao?” nhưng hiểu ngay: “À, đúng rồi, ta và cô nương này đều khoác áo choàng màu xanh biếc cho nên họ nhận lầm người”. Chàng nhớ lại mấy hôm trước Chung Linh đã kể lại nàng nghe lén thấy Tư Không Huyền nói chuyện với bộ hạ là phải nghe hiệu lệnh của Thiên Sơn Đồng Mỗ của Linh Thứu Cung núi Phiêu Miểu đến chiếm cho bằng được Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng. Thần Nông Bang đã là bộ thuộc của Linh Thứu Cung, thảo nào bọn này chẳng sợ hãi đến thế.
Cô gái dĩ nhiên không hiểu nguyên do, hỏi lại:
- Cái gì Linh ...
Đoàn Dự sợ nàng làm lộ chuyện vội vàng quát át đi:
- Mau gọi Tư Không Huyền ra đây.
Hai người kia vội vàng vâng dạ, đứng lên, lùi lại mấy bước rồi quay mình chạy về phía đống lửa. Đoàn Dự nói nhỏ với cô gái:
- Linh Thứu Cung là bề trên cao cấp nhất của bọn họ.
Chàng cuốn cái áo khoác lên che kím mồm mũi, chỉ để lộ hai con mắt. Cô gái toan hỏi thêm, Tư Không Huyền đã chạy tới, lớn tiếng nói:
- Thuộc hạ Tư Không Huyền cung nghinh thánh sứ, không kịp ra xa đón tiếp, xin tha tội cho.
Y chạy đến trước mặt, quì xuống khấu đầu nói:
- Thần Nông Bang Tư Không Huyền cung thỉnh Đồng Mỗ vạn thọ thánh an.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Đồng Mỗ là hạng người nào? Đâu phải hoàng đế, hoàng thái hậu, cái gì mà vạn thọ thánh an, thật không ra cái giống gì”. Chàng bèn gật đầu nói:
- Đứng lên đi!
Tư Không Huyền đáp:
- Vâng.
Y lại rập đầu thêm hai cái nữa, lúc ấy mới đứng dậy. Lúc này sau lưng y đã quì đầy những người, đều là bang chúng Thần Nông Bang. Đoàn Dự hỏi:
- Tiểu cô nương nhà họ Chung đâu? Mau đưa ra đây.
Hai tên bang chúng không đợi Tư Không Huyền dặn dò lập tức chạy ngay về phía đống lửa dẫn Chung Linh ra. Đoàn Dự tiếp:
- Cắt dây trói.
Tư Không Huyền đáp:
- Vâng.
Y rút chủy thủ cắt các dây trói chân tay Chung Linh. Đoàn Dự thấy nàng an toàn không sai sẩy gì trong lòng mừng rỡ, cố gắng giả giọng nói:
- Chung Linh, lại đây.
Chung Linh hỏi:
- Ngươi là ai vậy?
Tư Không Huyền gằn giọng quát:
- Trước mặt thánh sứ không được vô lễ. Lão nhân gia gọi ngươi đến.
Chung Linh nghĩ thầm: “Ta cóc cần biết lão nhân gia, tiểu nhân gia gì đâu. Có điều ngươi không để cho người khác trói ta, lão râu dê kia lại sợ ngươi một phép, thà nghe lời ngươi còn hơn”. Nghĩ thế nàng bèn đi đến trước mặt Đoàn Dự.
Đoàn Dự giơ tay ra nắm lấy tay Chung Linh, kéo lại bên mình, cào cào lòng bàn tay nàng, nhưng biết nàng không thể hiểu được nên chẳng lý đến nữa, nói với Tư Không Huyền:
- Đem thuốc giải đoạn trường tán ra đây.
Tư Không Huyền hơi lạ lùng nhưng vội sai thuộc hạ:
- Lấy thùng thuốc của ta ra, mau lên, mau lên!
Y hơi trầm ngâm lập tức hiểu ngay: “Ối chà! Chắc là tên họ Đoàn đi cầu thánh sứ Linh Thứu Cung đến bảo đưa thuốc”. Thùng thuốc đem đến nơi, y mở nắp, lấy ra một cái bình sứ, cung kính dâng lên, nói:
- Thỉnh thánh sứ thu dùng. Thuốc giải này uống liên tiếp ba ngày, mỗi ngày một lần, mỗi lần một đồng cân là đủ.
Đoàn Dự mừng lắm cầm ngay lấy. Chung Linh vội hỏi:
- Này, lão râu dê kia, giải dược ngươi có còn nữa không? Ngươi bằng lòng giải độc cho Đoàn đại ca, nếu như đưa cho người ta hết rồi, một khi Đoàn đại ca đưa cha ta tới giải độc cho ngươi thì lấy gì mà đưa?
Đoàn Dự trong lòng cảm kích, lại khều khều tay nàng. Tư Không Huyền nói:
- Cái đó ... cái đó ...
Chung Linh vội vã nói:
- Cái đó, cái đó là sao? Ngươi không giải độc được cho anh ta, ta bảo gia gia ta không giải độc cho ngươi đâu.
Cô gái áo đen nhịn không nổi quát lên:
- Chung Linh, không được lắm lời. Đoàn đại ca của ngươi không chết đâu.
Chung Linh nghe giọng nàng quen lắm “Ồ” một tiếng quay sang nhìn, thấy tấm khăn che mặt liền nhận ra ngay, vui mừng nói:
- A! Mộc ...
Nàng lập tức nghĩ ra, vội vàng giơ tay bịt miệng lại. Tư Không Huyền vốn dĩ hơi lo lắng, vội quì xuống nói:
- Khải bẩm hai vị thánh sứ: thuộc hạ bị con thiểm điện điêu của tiểu cô nương đây cắn phải, độc tính thật lợi hại, xin hai vị thánh sứ khai ân.
Đoàn Dự nghĩ thầm nếu như mình không cho y thuốc giải, chỉ sợ y đường cùng liều mạng nên quay sang nói với cô gái áo đen:
- Tỉ tỉ, linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ chị cho y một chút.
Tư Không Huyền nghe nói linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ, trong bụng mừng quá, liên tiếp rập đầu xuống đất kêu bình bình nói:
- Đa tạ Đồng Mỗ đại ân đại đức, thánh sứ ân đức, bọn thuộc hạ cả thảy mười chín người bị độc điêu cắn phải.
Cô gái nghĩ thầm: “Ta làm gì có “linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ”? Có điều cánh tay và đùi ta bị thương, muốn lo cho cả hai người này không phải dễ. Chi bằng nghe lời gã họ Đoàn giả vờ đánh lừa lão râu dê một chuyến”. Nàng lấy trong túi ra một cái bình nhỏ nói:
- Đưa tay đây!
Tư Không Huyền vội đáp:
- Vâng, vâng!
Y xòe tay ra, mắt nhìn xuống không dám nhìn thẳng. Cô gái đổ lên bàn tay y một ít bột màu xanh nói:
- Uống một chút là giải độc.
Nàng nghĩ thầm: “Hương phấn của ta chế tạo đâu có dễ, không thể cho ngươi nhiều được”. Khi nàng vừa mở bình, Tư Không Huyền đã thấy hương thơm sực nức bay xông lên mũi. Y cả đời nghiên cứu các loại thuốc men nhưng cũng không đoán ra là gồm những loại dược vật nào chế thành, đến khi bột thuốc để lên tay rồi, mùi bốc ra khiến toàn thân thư thái, nghĩ bụng Thiên Sơn Đồng Mỗ quả là thần thông quảng đại, linh đơn thánh dược này thật khác thường, trong bụng mừng lắm, luôn mồm cảm tạ, có điều tay đang đựng thuốc bột nên không dám khấu đầu.
Đoàn Dự thấy mọi việc đã xong xuôi bèn nói:
- Tỉ tỉ, chúng mình đi.
Chàng đang cơn đắc ý, quên cả chịt họng giả tiếng, cung may bọn Tư Không Huyền không ai nghi ngờ gì. Tư Không Huyền nói:
- Khải bẩm thánh sứ: Tả Tử Mục của Vô Lượng Kiếm chẳng biết phải quấy gì cả, đám ngang nhiên kháng mệnh. Thuộc hạ chỉ vì trúng độc bị thương, đứt mất một cánh tay nên việc chưa xong ngay được, thật là phụ ân đức của Đồng Mỗ, tội quả là đáng chết muôn lần. Thuộc hạ xin lập tức thống suất bộ thuộc, tấn công vào Kiếm Hồ Cung. Xin thánh sứ ở lại đốc chiến cho.
Đoàn Dự đáp:
- Cũng chẳng cần. Ta xem Kiếm Hồ Cung cũng không phải tấn công vào làm gì, các ngươi tức khắc thoái binh đi.
Tư Không Huyền kinh hãi quá, vốn biết tính nết của Đồng Mỗ, sứ giả sai đi nói năng càng dịu dàng thì sau này bị phạt càng nặng, thánh sứ của Linh Thứu Cung luôn luôn nói ngược, xem chừng mấy câu này thánh sứ trách mình biện sự bất lực nên vội vàng nói:
- Thuộc hạ đáng chết! Thuộc hạ đáng chết! Mong thánh sứ trước mặt Đồng Mỗ nói tốt cho vài câu.
Đoàn Dự không dám nói nhiều, vẫy tay một cái, cầm tay Chung Linh đi ra. Tư Không Huyền giơ cao bàn tay chứa phấn thơm, hai gối quì xuống, lớn tiếng nói:
- Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.
Những bang chúng đứng đằng sau cũng nhất loạt quì xuống, đồng thanh cất tiếng:
- Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.
Đoàn Dự đi được mấy trượng, thấy bấy nhiêu người cùng quì dưới đất không khỏi tức cười bèn lớn tiếng nói:
- Cung chúc Tư Không Huyền lão nhân gia vạn thọ thánh an.
Tư Không Huyền nghe chàng nói thế, xem ra ý nghĩa đảo ngược lại càng thêm ghê gớm, sợ đến mất vía, tưởng chừng muốn lăn ra bất tỉnh. Hai tên bang chúng ở đằng sau thấy bang chủ lảo đảo, sợ linh đan diệu dược trong tay đổ mất vội vàng tiếng lên đỡ y dậy.
Đoàn Dự cùng hai cô gái đi ra ngoài mấy chục trượng rồi không còn nghe thấy bang Thần Nông lao xao gì nữa. Chung Linh huýt sáo miệng liên tiếp, gọi con chồn quay lại nhưng không thấy đâu, bèn nói:
- Mộc tỉ tỉ, đa tạ hai vị đến cứu em nhưng tiểu muội muốn ở lại đây.
Cô gái hỏi:
- Ở lại đây để làm gì? Chờ con chồn của ngươi ư?
Chung Linh đáp:
- Không đâu! Tiểu muội muốn ở lại đây chờ Đoàn đại ca, anh ấy đi mời cha em tới giải độc cho Thần Nông Bang.
Nàng quay lại nói với Đoàn Dự:
- Còn vị tỉ tỉ này, đoạn trường tán đó có thể cho em được không?
Cô gái nói:
- Gã họ Đoàn kia không trở lại nữa đâu.
Chung Linh hấp tấp nói:
- Không đâu, không đâu! Anh ấy nói đến là thể nào cũng đến, dẫu cho cha em không chịu đi, Đoàn đại ca cũng sẽ quay lại một mình.
Cô gái nói:
- Hừ, đàn ông con trai chỉ giỏi lừa dối, lời của y làm sao ngươi tin được?
Chung Linh nghẹn ngào nói:
- Đoàn đại ca không lừa dối ... không lừa dối em đâu.
Đoàn Dự cười ha hả, lột chiếc áo choàng che trên đầu nói:
- Chung cô nương, Đoàn đại ca của cô quả là không đánh lừa cô đâu.
Chung Linh sững sờ nhìn chàng, mừng không để đâu cho hết, nhào tới ôm chặt lấy cổ chàng, kêu lên:
- Anh không lừa em! Anh không lừa em!
Cô gái kia đột nhiên nắm cổ áo, nhắc Chung Linh lên đẩy qua một bên, lạnh lùng nói:
- Không được làm thế!
Chung Linh sợ hãi tuy trong bụng hết sức hoan hỉ nhưng không dám trái lời bèn hỏi:
- Mộc tỉ tỉ, hai người làm sao mà lại gặp nhau?
Cô gái hừ một tiếng, không trả lời. Đoàn Dự nói:
- Thôi mình vừa đi vừa nói chuyện.
Chàng lo ngại Tư Không Huyền thấy thuốc không linh nghiệm sẽ đuổi theo. Cô gái nhảy lên lưng ngựa, tự mình chạy trước. Đoàn Dự thuật sơ qua cho Chung Linh nghe những việc xảy ra từ hôm hai người từ biệt tới giờ nhưng việc chàng bị cô gái hành hạ thì không nhắc đến, chỉ nói nàng đã cứu mạng mình mà thôi. Chung Linh lớn tiếng nói:
- Mộc tỉ tỉ, chị cứu Đoàn đại ca, em thật không biết làm sao mà đền đáp.
Cô gái kia bực bội nói:
- Ta cứu y có liên quan gì đến ngươi đâu?
Chung Linh quay sang Đoàn Dự le lưỡi, nhăn mặt làm trò. Cô gái lại nói:
- Này, Đoàn Dự, tên ta không cần phải để con tiểu quỉ Chung Linh nói cho anh hay, tự mình nói được rồi, tên ta là Mộc Uyển Thanh.
Đoàn Dự nói:
- Ồ, thủy mộc thanh hoa, uyển hề thanh dương! Họ đã hay mà tên cũng đẹp quá.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Có đẹp bằng tên anh, một khúc gỗ, danh dự chẳng ra gì không?
Đoàn Dự cười ha hả. Chung Linh cầm tay Đoàn Dự, nói nhỏ:
- Đoàn đại ca, anh đối với em tốt quá.
Đoàn Dự nói:
- Chỉ tiếc là con chồn của cô tìm không thấy.
Chung Linh lại huýt thêm mấy tiếng nói:
- Cái đó cũng không sao, đợi bọn ác nhân đi khỏi rồi, em sẽ quay lại tìm. Anh đi với em, có được không?
Đoàn Dự đáp:
- Được chứ!
Chàng nghĩ đến pho tượng ngọc trong sơn động liền tiếp:
- Từ nay anh sẽ thường thường quay lại đây.
Mộc Uyển Thanh bực bội nói:
- Anh không cần phải đi, nó muốn đi tìm con chồn tự mình nó đi được rồi.
Đoàn Dự quay sang Chung Linh le lưỡi, nhăn mặt, hai người cùng mỉm cười. Ba người không nói chuyện thêm, chầm chậm đi thêm mấy dặm, Mộc Uyển Thanh đột nhiên hỏi:
- Chung Linh, có phải sinh nhật ngươi là ngày mùng năm tháng hai, phải không?
Nàng ngồi trên lưng ngựa, nói chuyện nhưng không hề quay đầu lại. Chung Linh nói:
- Đúng đó, Mộc tỉ tỉ làm sao biết được?
Mộc Uyển Thanh giận quá, hậm hực nói:
- Đoàn Dự, anh không nói dối thì là gì?
Nàng giựt giây cương, con Hắc Mai Côi liền vọt lên trước.
Bỗng từ hướng tây bắc có tiếng người hú lên, rồi phía đông bắc có người vỗ tay bốn cái bốp bốp bốp bốp. Một bóng người chạy vụt qua, đến cách ba người chừng bảy tám trượng, đột nhiên đứng lại, giọng khàn khàn quát lên:
- Tiểu tiện nhân, ngươi còn chạy tới đâu được nữa?
Nghe giọng nói, chính là Thụy bà bà. Ngay lúc đó, ở đằng sau cũng có tiếng người cười gằn, Đoàn Dự vội quay đầu lại, dưới ánh trăng sao mờ mờ thấy đó chính là Bình bà bà, hai tay cầm đoản đao sáng lấp lánh. Thế rồi hai bên cũng thấy có người, bên trái là một ông già râu bạc, tay cầm ngang một chiếc xẻng sắt, bên phải là một hán tử còn trẻ, tay cầm trường kiếm. Đoàn Dự nhớ được hai người này cũng trong số những kẻ vây đánh Mộc Uyển Thanh.
Mộc Uyển Thanh cười khẩy nói:
- Các ngươi thật chẳng khác gì hồn ma đeo đẳng, đã đuổi đến tận đây quả là có chí lắm.
Bình bà bà đáp:
- Con tiểu tiện nhân dù có chạy đến chân trời, bọn ta cũng đuổi theo cho bằng được.
Nghe soẹt một tiếng Mộc Uyển Thanh đã bắn ra một mũi đoản tiễn, gã cầm kiếm mắt tinh tay lẹ liền giơ kiếm lên gạt đi. Mộc Uyển Thanh từ trên yên tung mình nhảy lên, xông thẳng vào lão già.
Ông già đó râu bay phất phới, tuổi tác xem chừng đã cao nhưng ứng biến thật là nhanh nhẹn, tay phải vung lên, chiếc xẻng đã đâm nhứ vào Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh chưa rơi tới đất, chân trái đã điểm vào cán xẻng mượn sức, kiếm trên tay đâm luôn vào Bình bà bà. Bình bà bà vung đao gạt ra, nghe cách một cái đầu thanh đao đã bị kiếm của Mộc Uyển Thanh chém gãy, tiếp theo thanh kiếm như một làm sương mỏng lao luôn xuống.
Thụy bà bà vội vàng vung thiết quài đánh vào sau lưng Mộc Uyển Thanh, cô gái không kịp sử kiếm đả thương Bình bà bà, trường kiếm đập ngang, lưỡi kiếm đè vào vai Bình bà bà một cái, thân hình lại vọt trở lên. Nếu như nàng không phải tránh thiết quài của Thụy bà bà, lưỡi kiếm thay vì tạt ngang mà đâm thẳng, Bình bà bà ắt đã bị đâm xuyên qua người.
Chung Linh ở bên ngoài liên tiếp giơ tay vẫy Đoàn Dự, kêu lên:
- Đoàn đại ca, mau lại đây.
Đoàn Dự chạy vội tới, hỏi:
- Cái gì thế?
Chung Linh đáp:
- Thôi mình chạy đi.
Đoàn Dự đáp:
- Mộc cô nương đang bị người ta vây đánh, mình nỡ nào bỏ chạy?
Chung Linh đáp:
- Mộc tỉ tỉ bản lãnh cao cường lắm, chị ấy sẽ có cách thoát thân.
Đoàn Dự lắc đầu:
- Cô ấy vì đi cứu em mà đến đây, nếu bây giờ mình bỏ cô ta mà đi, lòng sao yên được?
Chung Linh dậm chân nói:
- Anh thật đúng là đồ gàn! Anh ở lại đây có giúp gì được Mộc tỉ tỉ chăng? Ôi, tiếc thay con thiểm điện điêu của em lại chưa quay về.
Khi đó bốn người Thụy bà bà và Mộc Uyển Thanh đang đấu đến lúc hăng, thiết quài của Thụy bà bà và thiết sản của ông già là binh khí dài, múa lên nghe vù vù. Mộc Uyển Thanh tuy đang ác đấu nhưng vẫn nghe hết mọi phía, những gì Chung Linh và Đoàn Dự nói với nhau đều lọt vào tai. Lại nghe Đoàn Dự nói tiếp:
- Chung cô nương, cô đi trước đi. Nếu như tôi phụ Mộc cô nương thì không phải là đạo làm người. Một khi nàng không địch lại người ta, tôi ở bên ngoài khuyên nhủ, biết đâu lại không vãn hồi được cuộc thế.
Chung Linh nói:
- Anh ở đây chỉ uổng mạng thôi chứ chẳng ích gì. Thôi chạy mau, Mộc tỉ tỉ không trách anh đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Nếu như không có Mộc cô nương tốt bụng cứu cho, cái mạng này đã không còn nữa rồi. Chết trễ nửa ngày là sống thêm được nửa ngày, không phải là không ích gì.
Chung Linh vội nói:
- Anh gàn bướng quá, nói với anh cũng chẳng đến đâu.
Nói xong nàng liền nắm tay Đoàn Dự lôi đi. Đoàn Dự kêu lên:
- Tôi không đi! Tôi không đi!
Thế nhưng chàng không khỏe bằng Chung Linh nên bị nàng ta lôi đi sềnh sệch. Bỗng nghe Mộc Uyển Thanh cao giọng quát:
- Chung Linh, ngươi nghe lời ta mau chạy đi, đừng kéo y như thế.
Chung Linh càng kéo Đoàn Dự nhanh hơn, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, tóc nàng rung rung, một mũi đoản tiễn đã cắm vào bím tóc cô gái. Mộc Uyển Thanh quát lên:
- Nếu ngươi không buông tay ta sẽ bắn vào mắt ngươi đó.
Chung Linh biết Mộc Uyển Thanh nói sao làm vậy, tuy được nàng khá nuông chiều nhưng quen biết cũng chưa lâu nên giao tình chưa lấy gì khắng khít, nàng ta nói bắn vào mắt mình là sẽ làm thật, đành phải buông Đoàn Dự ra.
Mộc Uyển Thanh quát lớn:
- Chung Linh, mau cút về với cha mẹ ngươi, đi mau, đi mau! Ngươi còn lẩn quẩn ở đây đợi Đoàn đại ca của ngươi ta sẽ bắn ngươi ba mũi tên đó.
Miệng tuy nói nhưng tay không chậm lại chút nào, liên tiếp gạt những binh khí tấn công ra. Chung Linh không dám trái lệnh, quay sang nói với Đoàn Dự:
- Đoàn đại ca, anh phải cẩn thận.
Nói xong cô gái ôm mặt chạy vào trong bóng tối. Mộc Uyển Thanh đuổi được Chung Linh đi rồi, trong vòng vây của bốn người vòng qua lượn lại, vết thương trên đùi ngâm ngẩm đau, kiếm chiêu đột nhiên biến đổi, từng vầng kiếm quang vùn vụt như sao băng, huyễn ảo vô định. Đột nhiên ông già kêu oái lên một tiếng, bên sườn trúng kiếm. Mộc Uyển Thanh liên tiếp đâm ra soẹt soẹt soẹt ba nhát, ép cho Thụy bà bà và gã cầm kiếm phải nhảy ra khỏi vòng để tránh, mũi kiếm quay trở lại quấn chặt lấy Bình bà bà. Chỉ trong khoảnh khắc, Bình bà bà đã bị ba vết thương nhưng mụ không coi vào đâu vẫn như một con hổ điên lăn xả vào Mộc Uyển Thanh.
Ba người kia quay trở lại đấu tiếp, Bình bà bà xông được vào gần bên Mộc Uyển Thanh đoản đao trong tay đâm vào đùi nàng. Mộc Uyển Thanh giơ chân đá mụ ta lăn cù, nhưng ngay khi đó thiết quài của Thụy bà bà đã điểm trúng mi tâm. Mộc Uyển Thanh vội vàng thu kiếm trở về, gạt quài trượng ra, thuận thế đâm luôn vào giữa ngựa kẻ địch.
Thụy bà bà nghiêng người tránh né, vung gậy lên tự bảo vệ mình. Mộc Uyển Thanh thở hắt ra một hơi đang toan biến chiêu, động nhiên nghe bịch một cái, vai trái đau nhói. Thì ra lão già sau khi bị thương rồi không còn sử dụng thiết sản được nữa liền rút dùi sắt thừa cơ đột nhập đâm luôn vào vai Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh quật ngược lại một chưởng, đánh cho mặt lão già nát bấy, lập tức chết ngay. Bọn Thụy bà bà lúc ấy đã tiến lên giáp kích, Bình bà bà kêu lên:
- Tiểu tiện nhân bị thương rồi, không cần bắt sống, giết nó cũng được.
Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh bị thương, trong lòng hoảng hốt, lại sử dụng đúng trò cũ, xông lên ôm xác lão già quật vào, nhưng vướng phải bốn người nên không tiến lên được, trong cơn gấp gáp, cởi chiếc áo choàng ra, xông vào hết sức múa lên chộp ngay lên đầu Bình bà bà. Bình bà bà không nhìn thấy gì, kinh hãi quá vội giơ tay ra gạt đi, nhưng quên mất trong tay mình đang cầm đoản đao nên đao đó chém phải mặt mình, kêu lên oai oái như heo bị chọc tiết.
Mộc Uyển Thanh không có thì giờ rút chiếc dùi ra khỏi vai, cố nhịn đau, gấp rút công luôn hai kiếm về phía Thụy bà bà, rồi đâm một nhát vào hán tử sử kiếm, ba chiêu đó thật áo diệu, bên má phải của Thụy bà bà bị rạch một đường, còn hán tử cầm kiếm cũng bị mũi kiếm xẹt ngang cổ. Hai người tuy bị thương nhẹ nhưng những nơi trúng kiếm đều là bộ vị yếu hại, trong cơn kinh hoảng, vội vàng nhảy qua một bên, giơ tay sờ thử vết thương. Mộc Uyển Thanh kêu thầm: “Tiếc quá, không giết được hai đứa này”. Nàng hít một hơi, cất tiếng hú lên, con Hắc Mai Côi liền chạy tới. Mộc Uyển Thanh nhảy vọt lên, thuận tay nắm cổ áo Đoàn Dự để lên yên, hai người cưỡi chung một con ngựa chạy vọt về hướng tây.
Chạy chưa đầy mươi trượng, trong rừng bỗng có tiếng người reo hò, hơn một chục người xông ra chặn ngang đường. Ở giữa là một lão già cao quát lớn:
- Tiểu tiện nhân, lão gia đợi ngươi ở đây đã lâu rồi.
Y vung tay toan cầm dây cương con Hắc Mai Côi, Mộc Uyển Thanh tay phải vươn ra, chát chát liên thanh ba mũi đoản tiễn liền bắn ra một lúc. Trong đám người ba kẻ trúng tên, lập tức ngã lăn ra. Lão già kia còn đang sững sờ, Mộc Uyển Thanh liền giựt cương con Hắc Mai Côi theo chỗ trống trên bức tường người vọt qua. Những người đó sợ độc tiễn của nàng ghê gớm, tuy chạy đuổi theo nhưng ai cũng múa binh khí bảo vệ trước mặt nên hai bên càng lúc càng xa. Chỉ nghe đoàn người nhao nhao mắng chửi:
- Tặc a đầu! Lại để nó chạy mất rồi.
- Dù cho ngươi chạy đến chân trời, ta cũng phải bắt cho kỳ được ngươi đem lột da, cắt gân.
- Tất cả đuổi theo!
Mộc Uyển Thanh để cho con Hắc Mai Côi ở trong núi chạy đâu thì chạy đến một tòa sơn cương, thấy trước mặt là một hang sâu bèn giục ngựa xuống núi tìm đường ra. Trên núi Vô Lượng đường đi ngoằn ngoèo, lượn bên đông vòng bên tây, không dễ gì nhận định được phương hướng.
Đột nhiên ở phía trước có tiếng người:
- Con ngựa chạy tới rồi đó!
- Theo hướng này mà đuổi!
- Tiểu tiện nhân quay lại rồi!
Mộc Uyển Thanh bị thương rồi không còn hơn sức nào mà đấu tiếp, vội vàng quay đầu ngựa ra phía khác, theo con đường dốc phía bên phải mà đi. Lúc này không còn có thể theo đường mà gặp đâu theo đó, cũng may Hắc Mai Côi là loại thần tuấn, trên triền núi đầy đá lởm chởm nhưng vẫn chạy như bay. Lại đi thêm một hồi nữa, chân trước Hắc Mai Côi bất thình lình khuỵu xuống, đầu gối va vào nham thạch, chân khập khễnh, bước bắt đầu loạng choạng, chạy chậm hẳn đi.
Đoàn Dự trong bụng lo lắng nói:
- Mộc cô nương, cô để tôi xuống, một mình cô dễ thoát thân hơn. Bọn họ với tôi không thù không oán, dù có bắt được tôi chắc cũng không sao.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:
- Anh mà biết cái gì? Anh là người Đại Lý, nếu như họ bắt được anh lập tức một đao chém liền.
Đoàn Dự nói:
- Thế thì lạ lùng thật, người Đại Lý biết bao nhiêu, làm sao giết hết được? Cô nương thôi cứ chạy trước là hơn.
Mộc Uyển Thanh thấy trên đầu vai từng chập đau nhói, nghe thấy Đoàn Dự cứ lải nhải mãi, cáu tiết nói:
- Anh có câm mồm đi không? Đừng nhiều lời nữa.
Đoàn Dự đáp:
- Thôi được, vậy cô để tôi ngồi đằng sau lưng.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Để làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Chiếc khăn choàng của tôi chụp lên đầu mụ mập kia rồi.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Thế thì đã sao?
Đoàn Dự đáp:
- Quần tôi bị rách một lỗ lớn, ngồi ở trước mặt cô, hở cả ... hở cả ... đối với cô nương, quả là ... quả là vô lễ.
Mộc Uyển Thanh vết thương đau dường như không chịu nổi, nghiến răng đưa tay nắm lấy vai Đoàn Dự, bóp một cái đầu xương kêu lên lốp cốp, quát lớn:
- Câm mồm!
Đoàn Dự đau quá, vội nói:
- Được rồi! Được rồi, tôi không nói nữa.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:46 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Hồi 4(a)

NHAI CAO NHÂN VIỄN
Non cao chót vót muôn trùng,
Trăm năm kết một chữ đồng từ đây.
Chưa xum họp đã chia hai,
Chàng Ngưu thiếp Chức biết ai bắc cầu.
*
* *

Chạy được mấy dặm, Hắc Mai Côi trèo lên một đỉnh núi dài, thế núi thêm hiểm trở nên con ngựa đi chậm lại, đằng sau tiếng người hò hét đuổi theo vẫn văng vẳng truyền tới. Đoàn Dự kêu lên:
- Hắc Mai Côi ơi! Hôm nay ngươi quả là khổ sở, phiền ngươi chạy nhanh hơn một tí được chăng?
Chạy thêm chừng một dặm nữa, quay đầu lại thấy ánh đao lấp loáng, bọn người đuổi theo mỗi lúc một gần. Mộc Uyển Thanh luôn mồm thúc giục:
- Nhanh lên! Nhanh lên!
Hắc Mai Côi cố hết sức chạy cho nhanh, đột nhiên phía trước có một cái vực rộng đến vài trượng, trông tối om nhìn không thấy đáy. Con ngựa thấy thế kinh hãi hí lên một tiếng chùn người lại, lùi về sau mấy bước.
Mộc Uyển Thanh thấy đằng trước không còn đường nào, đằng sau lại truy binh đuổi tới bèn hỏi:
- Tôi muốn giục ngựa nhảy qua, anh có dám theo tôi mạo hiểm không? Hay là ở lại?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lưng ngựa nếu nhẹ bớt một người, Hắc Mai Côi chắc nhảy dễ hơn”. Bèn nói:
- Cô nương qua trước đi, sau đó dùng dây lưng kéo tôi qua.
Mộc Uyển Thanh quay lại thấy những người đuổi theo chỉ còn chừng vài chục trượng nói:
- Sợ không kịp đâu!
Nàng giục ngựa lui lại vài trượng, kêu lên:
- Suỵt, nhảy qua đi.
Nàng giơ tay vỗ nhẹ lên bụng con vật mấy cái. Hắc Mai Côi phóng bốn chân chạy vọt tới, vừa chạm vào ghềnh đá liền nhảy vọt qua. Đoàn Dự chỉ thấy mình như đằng vân giá vụ, trái tim tưởng như bung ra ngoài.
Hắc Mai Côi bị chủ nhân thúc giục cố hết sức nhảy, hai chân trước miễn cưỡng bám được vào bờ bên kia, nhưng vì khoảng cách quá xa, con vật đã chạy cả đêm, chân lại bị thương thành thử không chồm được tới bờ đá, thân hình liền rơi tòm xuống vực.
Mộc Uyển Thanh ứng biến thật nhanh, từ trên lưng ngựa tung người lên, tiện tay nắm Đoàn Dự, lao về đằng trước. Đoàn Dự rơi xuống trước, Mộc Uyển Thanh ngã đè lên, rơi ngay vào lòng chàng. Đoàn Dự sợ nàng bị thương, hai tay ôm chặt, chỉ nghe con Hắc Mai Côi hí lên một tiếng dài thảm thiết, đã rơi xuống vực sâu vạn trượng rồi.
Mộc Uyển Thanh lòng đau như cắt, vội vàng vùng ra khỏi vòng tay Đoàn Dự chạy đến bên khe núi, chỉ thấy mây mù che phủ, không nhìn thấy Hắc Mai Côi đâu, bỗng thấy mắt tối sầm, trời đất quay cuồng, chân mềm nhũn, nằm lăn ra bất tỉnh.
Đoàn Dự kinh hãi sợ nàng rơi xuống vực sâu vội chạy tới giữ lại, thấy nàng hai mắt nhắm liền đã hôn mê từ bao giờ. Còn đang chưa biết phải làm sao bỗng nghe bờ vực bên kia có người kêu lên:
- Bắn tên! Bắn tên! Bắn chết cả hai đứa tiểu tặc.
Đoàn Dự ngẩng đầu nhìn lên, thấy đứng lố nhố đến bảy tám người, vội vàng cúi xuống ôm Mộc Uyển Thanh, xoay mình bỏ chạy, nghe vụt một cái, một mũi tên đã sướt qua mang tai.
Chàng lật đật chạy lên thêm mấy bước, khom lưng xuống, tay ôm Mộc Uyển Thanh mà chạy, lại vụt một tiếng nữa, một mũi tên bạy vụt trên đầu. Đoàn Dự thấy bên trái có một khối đá lớn, lập tức chạy qua núp phía sau, rồi nghe tiếng tên vun vút liên hồi, vô số ám khí bắn vào tảng đá nảy trở ra.
Đoàn Dự không dám động đậy, đột nhiên nghe bộp một cái, một cục đá bằng nắm tay ném vụt qua rớt ngay bên cạnh chàng, kẻ nào đó sức cánh tay quả thật mạnh mẽ nên mới có thể ném đến mấy chục trượng như thế, nhưng vì quá xa nên không thể nào chính xác được. Đoàn Dự nghĩ thầm ở nơi đây chưa phải đã thoát hiểm vội vàng bế Mộc Uyển Thanh lên, một mạch cố hết sức chạy vụt lên trước, qua thêm ngoài mươi trượng nữa, liệu chừng ám khí vũ tiễn của kẻ địch không thể bắn tới nơi lúc ấy mới ngừng lại.
Chàng ngồi thở phì phò, nhẹ nhàng đặt Mộc Uyển Thanh lên trên cỏ, rút người vào đằng sau tảng đá nhìn về phía trước. Đằng bờ vực bên kia trong bóng đêm thấy người đứng lố nhố, hoa chân múa tay, lao xao bàn tán, thỉnh thoảng gió núi thổi qua chàng lại nghe lõm bõm được đôi câu, đều là những lời giận dữ chửi bới, xem ra bọn này trong nhất thời chưa có cách nào qua được. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu như bọn họ đi vòng theo triền núi thì có thể lên tới đây được hai đứa mình không thể nào thoát chết”.
Chàng vội đi ra mỏm đá nhìn qua bên kia xem thử, không khỏi sợ đến bủn rủn tay chân, đứng không vững. Bên dưới cái vực vài trăm trượng là sóng nước sôi sục, một con sông lớn màu xanh biếc cuồn cuộn chảy qua, thì ra đã đến bờ sông Lan Thương. Nước sông chảy thật xiết, cứ từ bờ bên kia thì không sao có thể vượt qua được nhưng nếu như địch nhân tìm đường xuống dưới đáy vực sau đó lại từ từ trèo lên thì rồi thể nào cũng giết được chàng và Mộc Uyển Thanh. Chàng thở dài, nghĩ bụng thôi thì mình tạm thoát nguy cơ cũng được rồi, còn về sau đến đâu hay đó, câu nói lúc trước lại hiện lên trong đầu: “Sống thêm được nửa ngày, không phải là không được cái gì”.
Chàng quay lại bên cạnh Mộc Uyển Thanh, thấy nàng vẫn còn thiêm thiếp hôn mê chưa tỉnh, đang tính đường cứu chữa, thấy ở trên lưng nơi vai trái vẫn còn cắm một cái dùi sắt, máu chảy thấm ướt cả một nửa bên người. Đoàn Dự kinh hãi, khi còn trên lưng ngựa chàng ngồi đằng trước, trong cơn hoảng hốt chạy thục mạng đâu có ngờ nàng đã bị trọng thương, việc đầu tiên chàng nghĩ tới là” “Hay là nàng chết rồi chăng?”. Chàng liền lật tấm khăn che mặt lên, để tay vào mũi thăm dò, cũng may vẫn còn thoi thóp nghĩ thầm: “Mình phải rút cái dùi ra rồi dịt lại cho máu khỏi chảy”. Chàng đưa tay cầm cán dùi, nghiến răng nhổ mạnh, cương chùy bật ra. Chàng không biết tránh né, máu từ trong vết thương phun ra khiến mặt cổ chàng đầy những máu.
Mộc Uyển Thanh đau quá đến kêu rú lên, tỉnh lại nhưng rồi lại ngất đi ngay. Đoàn Dự cố hết sức chặn vết thương lại cho máu khỏi tóe ra, thế nhưng máu chảy như suối không làm cách nào giữ lại được. Chàng không biết tính sao, vội nhổ một nắm cỏ, cho vào mồm nhai đắp lên vết thương nhưng máu chảy lại bật ra. Chàng bỗng nhớ ra: “Lúc trước nàng trúng phải móc sắt bị thương từng lấy trong bọc ra một loại thuốc bôi lên chẳng mấy chốc máu liền ngừng chảy”.
Chàng nhè nhẹ thò tay vào túi nàng, lôi hết những vật trong đó ra, thấy một chiếc lược bằng gỗ vàng tâm, một chiếc gương đồng nhỏ, hai chiếc khăn tay màu hồng và ba cái hộp gỗ nhỏ, một cái bình sứ. Chàng thấy đây toàn là vật dụng phòng khuê, không khỏi ngỡ ngàng, bấy giờ mới nghĩ ra trước mắt là một cô gái, vậy mà mình thò tay vào quần áo người ta khoắng loạn cả lên không khỏi vô lễ, mặc dầu những món lược gương khăn hộp kia thực chẳng xứng hợp với một nữ ma đầu giết người không chớp mắt chút nào.
Chàng đã thấy Mộc Uyển Thanh đổ từ trong cái bình sứ một loại bột màu xanh ban cho Tư Không Huyền, giả làm thánh dược của Đồng Mỗ, nhưng không biết loại bột đó có cầm máu được không. Chàng bèn mở một cái hộp ra, thấy hương thơm bay lên ngào ngạt, thấy toàn là phấn thoa mặt màu hồng, cái hộp thứ hai mở ra thấy còn một nửa là phấn trắng, còn cái hộp thứ ba lại là phấn vàng. Chàng đưa lên mũi ngửi, bột màu trắng không mùi vị gì, còn bột màu vàng thì cay sè, vừa ngửi phải là hắt hơi ngay, nghĩ thầm: “Chẳng biết đây là kim sang dược hay là thuốc độc giết người đây? Nếu như mình dùng sai thì thật hỡi ôi!”. Chàng đưa ngón tay di di vào nhân trung Mộc Uyển Thanh, một lát sau, nàng chầm chậm mở mắt ra.
Đoàn Dự mừng quá vội hỏi:
- Mộc cô nương, cái hộp nào là để cầm máu trị thương?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Màu đỏ.
Nàng chỉ nói được bấy nhiêu rồi lại nhắm mắt. Đoàn Dự hỏi lại:
- Màu đỏ ư?
Nàng không trả lời. Đoàn Dự lấy làm lạ, nghĩ thầm màu đỏ rõ ràng là phấn bôi mặt, sao lại dùng trị thương? Thế nhưng nàng đã nói như vậy mình cứ thử xem sao, còn hơn là bôi nhầm thuốc độc vào vết thương.
Chàng bèn xé rách áo chung quanh vết thương, thò tay quệt một chút phấn hồng, nhẹ nhàng bôi lên. Khi tay chàng chạm vào vết thương, Mộc Uyển Thanh trong cơn hôn mê dường như biết đau, co người lại một cái. Đoàn Dự an ủi:
- Đừng sợ! Đừng sợ! Mình cứ cầm máu trước đã rồi tính sau.
Kể cũng lạ, bột phấn đó linh nghiệm vô cùng, bôi lên vết thương chưa bao lâu, máu liền chảy chậm lại; một lúc nữa vết thương đóng lại thành một lớp bọt màu vàng. Đoàn Dự tự nói một mình:
- Kim sang dược sao mà lại giống phấn bôi mặt, tính tình đàn bà con gái kể cũng hay thật!
Chàng mệt mỏi cả nửa ngày qua, đến bây giờ mới thấy hơi trấn tĩnh, nghe tiếng la ó của những người ở bờ bên kia dần dần ngừng bặt, nghĩ thầm: “Không lẽ bọn chúng từ dưới vực tấn công lên thật hay sao?” Chàng nằm soài dưới đất bò men ra bờ vực nhìn xuống, tim đập thình thình, quả không sai thấy bờ bên kia chừng mươi người đang leo xuống dưới đáy. Sơn cốc tuy sâu thật nhưng cũng có đáy, bọn người này một khi đến tận cùng rồi rồi sẽ trèo lên, xem ra chỉ nhiều lắm độ ba giờ nữa kẻ địch sẽ tới nơi.
Tuy chàng ở vào đường cùng nhưng cũng không thể nào bó tay chịu chết, bèn nhìn chung quanh thấy chỗ mình đang ở là một mỏm đá cao, một mặt là sông ba bề là vực thẳm không còn đường nào mà chạy. Chàng thở dài một tiếng ôm Mộc Uyển Thanh để dưới chân một hòn đá để tránh gió máy, sau đó khom lưng nhặt đá gom lại thành một đống dưới chân. Cũng may trên mỏm đá này đâu đâu cũng đầy đá cục, chẳng bao lâu đã có đến năm sáu trăm viên. Mọi việc xong xuôi, chàng ngồi bên cạnh Mộc Uyển Thanh nhắm mắt dưỡng thần.
Chàng vừa ngồi xuống, cái mông trần chạm vào đá thấy hơi đau, nghĩ thầm: “Hai người mình đúng là nhằm quẻ Quải, hào cửu tứ: Đồn vô phu, kỳ hành thứ thư, khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín. “Thứ thư” là người đi đứng khập khiễng, không thoải mái, quẻ này thật đúng biết bao. Còn ta thì quả là “đồn vô phu”, chữ “phu” (da) kia nếu đổi thành chữ “khố” (quần) thì lại càng thích đáng. Nàng vẫn bảo rằng đàn ông con trai chỉ giỏi lừa người, thật đúng là “văn ngôn bất tín”. Thế nhưng nếu nàng “khiên dương hối vong” thì mình chẳng hóa ra biến thành con cừu hay sao? Thế nhưng chẳng biết nàng có hối hận hay chăng?”.
Chàng suốt đêm qua không ngủ, mệt mỏi quá rồi, ngồi nghĩ mấy câu trong kinh Dịch liền thiu thiu, thế nhưng biết địch nhân chẳng mấy chốc sẽ lên tới nên đâu dám ngủ. Chàng ngửi thấy mùi hương thơm thoang thoảng từ người Mộc Uyển Thanh tỏa ra, nhớ lại khi mình thò tay thăm mũi nàng, lật khăn che mặt ra từng nhìn thấy từ mũi đổ xuống cằm, nhưng khi đó chỉ nghĩ tới chuyện nàng sống hay chết đâu có để ý xem mũi miệng nàng ra sao, bây giờ đâu dám lật khăn lên coi lại cho rõ, nhớ lại dường như da dẻ nàng trắng trẻo, ít nhất thì cũng không như nàng nói "rỗ nhằng rỗ nhịt".
Lúc này Mộc Uyển Thanh hôn mê bất tỉnh, dẫu chàng có len lén mở chiếc khăn che mặt ra coi nàng cũng không sao biết được nhưng chàng muốn coi lại không dám, trong bụng cứ chần chừ không sao quyết định được: "Ta cùng nàng đồng sinh cộng tử, mười phần đến chín hai đứa cùng chết nơi đây, chẳng lẽ đến lúc ô hô ai tai rồi mà cũng chưa thấy mặt nàng, như thế chẳng chết oan lắm hay sao?". Thế nhưng chàng lại sợ nếu quả như nàng mặt đầy vết rỗ, nên tự nhủ: “Nếu nàng chẳng phải xấu ma chê quỉ hờn thì việc gì mà phải che mặt lại, không dám để bộ mặt cho người ta thấy? Cô nương này hành sự hung ác, xem ra không có duyên với những chữ “thanh tú mỹ lệ” thôi đừng coi cho xong”.
Chàng nhất thời không biết tính sao, toan xủ một quẻ để giải đoán nhưng càng lúc càng mỏi mệt, nên mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.
Không biết chàng ngủ được bao lâu, đột nhiên nghe tiếng người lao xao vọng đến vội vàng chạy đến bờ đá nhìn xuống thấy năm sáu người đàn ông men theo vách núi đang trèo lên. Có điều vách núi dựng đứng thành thử lên được cũng thật gian nan. Đoàn Dự kêu thầm: “Nguy quá! Nguy quá!”, cầm một cục đá ném xuống, miệng kêu lên:
- Chớ có trèo lên, nếu không ta chẳng nể nang nữa đâu.
Chàng từ trên cao ném xuống thật dễ dàng, những người đang trèo lên còn cách chàng đến mấy chục trượng, ám khí không bắn tới được, nghe tiếng chàng kêu, lập tức ngừng lại, chần chừ giây phút rồi tìm những hốc đá ẩn vào trong đó rồi lại tiếp tục trèo lên. Đoàn Dự cầm năm sáu cục đá ném xuống, nghe thấy hai tiếng “A”, “A” thảm thiết, hai người đã bị trúng phải, ngã lộn xuống đáy vực, chắc là thân thể nát nhừ chết rồi.
Những người còn lại xem chừng không xong, lật đật trèo xuống, một người lập cập xẩy chân, rơi xuống chết mất xác. Đoàn Dự từ nhỏ theo các vị cao tăng học Phật pháp, đến võ cũng không chịu học đây là lần đầu tiên giết người nên không khỏi mặt tái mét. Chàng vốn chỉ muốn ném đá xuống để dọa thôi, ngờ đâu lỡ tay giết hai người, lại làm cho một người khác ngã chết, tuy biết rằng nếu mình không chống trả, kẻ địch lên được trên mỏm núi rồi thì mình và Mộc Uyển Thanh sẽ thể nào cũng bỏ mạng nhưng trong bụng cũng thật bàng hoàng.
Chàng đứng ngơ ngẩn một hồi, quay lại bên cạnh Mộc Uyển Thanh thấy nàng lúc này đã ngồi dậy, tựa vào tảng đá. Đoàn Dự vừa sợ vừa mừng nói:
- Mộc cô nương, cô ... cô đã khỏe chưa?
Mộc Uyển Thanh không trả lời, đôi mắt từ hai cái lỗ trên tấm khăn che nhìn ra, trừng trừng nhìn chàng hơi có vẻ như hung dữ nghiêm nghị. Đoàn Dự nhỏ nhẹ khuyên:
- Cô cứ nằm nghỉ một lúc đi, tôi đi kiếm nước cho cô uống.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Có người đang trèo lên, phải không?
Đoàn Dự sụt sùi, lấy tay áo chùi nước mắt, nghẹn ngào đáp:
- Tôi lỡ tay đánh chết hai người, lại ... lại khiến cho một người khiếp quá ... xẩy chân.
Mộc Uyển Thanh thấy chàng khóc lóc lấy làm lạ lùng, hỏi lại:
- Thế thì đã sao?
Đoàn Dự vẫn tấm tức:
- Trời cao có đức hiếu sinh, tôi ... tôi vô cố giết người, tội nghiệp không nhỏ.
Chàng dậm chân nói tiếp:
- Ba người đó ai chẳng có cha mẹ vợ con, nghe tin đó thể nào chẳng đau xót vạn phần, tôi ... tôi biết phải làm sao tạ lỗi với người ta đây? Làm sao an ủi gia đình người ta đây?
Mộc Uyển Thanh cười khẩy:
- Thế bộ anh không có cha mẹ vợ con hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi có cha có mẹ nhưng chưa có vợ con.
Khuôn mặt Mộc Uyển Thanh đột nhiên bừng lên một tia sáng lạ lùng nhưng chỉ lóe lên rồi biến mất, trở lại thần tình như cũ sắc như dao, lạnh như băng nói:
- Thế bọn họ lên được rồi, có giết anh không? Có giết tôi không?
Đoàn Dự đáp:
- Chắc là có.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ, anh đành để cho người ta giết chứ không muốn giết người à?
Đoàn Dự cúi đầu suy nghĩ nói:
- Nếu chỉ vì một mình tôi, tôi quyết không muốn giết người. Thế nhưng ... thế nhưng tôi không muốn họ làm hại đến cô.
Mộc Uyển Thanh gay gắt hỏi:
- Sao vậy?
Đoàn Dự đáp:
- Cô cứu mạng tôi thì tôi phải cứu lại cô chứ!
Mộc Uyển Thanh nói:
- Tôi hỏi anh một câu, anh chỉ nói láo nửa lời, đoản tiễn trong tay áo tôi sẽ bắn ra giết anh ngay.
Nói xong nàng hơi nhấc tay áo lên nhắm thẳng vào chàng. Đoàn Dự nói:
- Cô giết bao nhiêu người toàn ở những mũi tên từ tay áo cô bắn ra đó sao?
Mộc Uyển Thanh nói:
- Anh ngốc lắm, anh không sợ tôi à?
Đoàn Dự đáp:
- Cô không giết tôi, việc gì tôi phải sợ?
Mộc Uyển Thanh hậm hực nói:
- Anh làm tôi bực mình lúc đó tôi sẽ giết anh không chừng. Tôi hỏi anh, anh đã nhìn thấy mặt tôi chưa?
Đoàn Dự lắc đầu nói:
- Chưa!
Mộc Uyển Thanh hỏi lại:
- Có thật là chưa thấy hay không?
Nàng nói càng lúc càng nhỏ, khăn che mặt cũng ướt một mảng, hiển nhiên dùng sức quá nhiều, mồ hôi lạnh toát ra nhưng giọng nói vẫn mười phần gay gắt. Đoàn Dự đáp:
- Tôi nói dối cô làm chi? Cô không việc gì phải “văn ngôn bất tín”.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Thế lúc tôi hôn mê sao anh không mở khăn che mặt tôi ra coi?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Tôi chỉ lo trị vết thương trên lưng cô, đâu có nghĩ đến chuyện đó.
Mộc Uyển Thanh vừa bồn chồn, vừa bực tức, hổn hển hỏi:
- Anh ... anh nhìn thấy lưng tôi rồi ư? Anh ... anh bôi thuốc trên lưng tôi phải không?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng vậy! Phấn thoa mặt của cô linh nghiệm quá, tôi có ngờ đâu đó lại là thuốc cao trị thương.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Anh lại đây đỡ tôi một tí.
Đoàn Dự đáp:
- Hay lắm, thôi cô đừng nên nói nhiều, nghỉ một lát rồi sẽ tìm đường thoát khỏi nơi đây.
Nói rồi chàng đến đỡ nàng lên, nhưng tay chưa kịp chạm đến cánh tay nàng, đột nhiên nghe bốp một tiếng trên má đã bị nàng tát cho một cái. Nàng tuy đã bị thương nặng nhưng ra tay vẫn rất mạnh bạo.
Đoàn Dự bị nàng đánh cho hoa cả mắt, nhức cả đầu, người quay vòng vòng, hai tay ôm má, giận dữ hỏi:
- Sao ... sao cô lại đánh tôi?
Mộc Uyển Thanh hậm hực nói:
- Tên tiểu tặc lớn mật thật, sao ngươi ... ngươi dám chạm vào người ta, lại còn ... lại còn dám nhìn vào lưng ta ...
Nàng nổi giận lập tức lại hôn mê, nằm lăn ra đất. Đoàn Dự kinh hãi, không còn nhớ tới chuyện vừa bị nàng cho một cái tát, vội vàng tiến lên đỡ dậy, thấy sau lưng lại có một vầng máu tươi túa ra, thì ra khi nàng ra tay đánh người, dùng quá sức, vết thương đã khép kín nay lại toạc ra.
Đoàn Dự ngạc nhiên: “Mộc cô nương không muốn ta đụng đến da thịt nàng, thế nhưng không cứu nàng sẽ ra hết máu mà chết. Sự đã đến nước này, chỉ đành tòng quyền, cùng lắm nàng đánh ta thêm hai cái nữa mà thôi”.
Chàng lại xé áo lau sạch máu me chung quanh vết thương, thấy da thịt nàng mịn màng như ngọc, trắng trẻo như tuyết, lại ngửi thấy từng chập mùi hương xông lên, không dám nhìn lâu, vội vàng lấy cao bôi lên vết thương.
Lần này không bao lâu Mộc Uyển Thanh lại tỉnh dậy, vừa mở mắt đã hầm hầm nhìn chàng. Đoàn Dự sợ nàng đánh nữa vội vàng tránh xa xa. Mộc Uyển Thanh nói:
- Ngươi ... ngươi lại ...
Nàng thấy vết thương sau lưng mát rượi, biết ngay Đoàn Dự vừa mới trét thêm thuốc mới. Đoàn Dự nói:
- Tôi ... tôi lẽ nào thấy cô sắp chết mà không cứu?
Mộc Uyển Thanh chỉ còn nước thở hổn hển, không còn hơi sức đâu mà nói chuyện nữa. Đoàn Dự nghe thấy phía bên trái nước chảy róc rách nên đi qua, thấy một dòng suối trong vắt, bèn rửa sạch hai tay, cúi xuống uống mấy ngụm, hai tay vốc nước đến bên cạnh Mộc Uyển Thanh nói:
- Há mồm ra uống chút nước.
Mộc Uyển Thanh hơi ngần ngại nhưng vì nàng mất máu quá nhiều, cổ khô miệng đắng, nên đành vén một bên mảnh khăn che để hở miệng ra. Lúc này ánh nắng đang ngay giữa đỉnh đầu, chiếu sáng một nửa khuôn mặt của nàng. Đoàn Dự thấy cằm nàng thon thon, da mặt trắng muốt, không khác gì lưng, mịn màng nhẵn nhụi, chẳng có một nốt rỗ nào, cái miệng anh đào nho nhỏ ngay ngắn xinh xắn, môi hơi mỏng hai hàm răng đều đặn trắng bóng như ngọc, trong lòng không khỏi rộn ràng: “Nàng ... nàng quả là một tuyệt sắc giai nhân!”.
Nước suối chảy qua những khe tay, rơi thành từng giọt trên má Mộc Uyển Thanh chẳng khác nào trên ngọc có nạm những hạt minh châu, trên đóa hoa điểm vài hạt sương sớm. Đoàn Dự sững sờ nhưng không dám nhìn lâu, quay đầu sang chỗ khác. Mộc Uyển Thanh uống hết nước trong tay Đoàn Dự rồi nói:
- Vẫn còn khát, đi lấy thêm về đây.
Đoàn Dự theo lời đi lấy thêm nước, tổng cộng ba lần nàng mới đủ. Đoàn Dự lại mon men ra bờ vực thăm dò, thấy bên kia còn lại đâu bảy tám người, tay cầm cung tên, canh chừng. Chàng nhìn xuống sơn cốc không thấy ai dám trèo lên nhưng liệu chừng kẻ địch chưa bỏ cuộc chắc thể nào cũng tính toán chuyện tấn công lên đỉnh núi.
Chàng lắc đầu rồi lại qua bên dòng suối múc nước uống, rửa sạch máu me từ vết thương của Mộc Uyển Thanh bắn lên, nghĩ thầm: “Thuốc giải đoạn trường tán có uống hay không thì cũng vậy, nhưng thôi mình cứ uống là hơn”. Chàng lấy cái bình sứ trong bọc ra, lấy giải dược bỏ vào mồm, dùng nước suối uống xuống bụng nghĩ thầm: “Thuốc giải này sao đắng quá, kém xa đoạn trường tán ngòn ngọt dễ uống biết bao. Ôi! Có ngờ đâu Mộc cô nương lại xinh đẹp như thế. Đúng là hào sơ cửu của quẻ Khuê “táng mã, kiến ác nhân vô cữu”.
Chàng lại nghĩ thêm: "Trên mỏm núi này tuy có nước nhưng lại không có đồ ăn, địch nhân thật cũng chẳng cần tấn công lên làm chi, chỉ vài ngày hai đứa mình cũng chết đói rồi". Chàng ủ rũ quay lại chỗ Mộc Uyển Thanh nói:
- Tiếc thay trên đây chẳng có trái cây gì nếu không tôi đi hái ít quả về cho cô nương ăn đỡ đói.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Anh nói những lời thừa thãi ấy có ích lợi gì đâu?
Nàng ngừng lại một chút hỏi thêm:
- Làm sao anh lại quen với con bé nhà họ Chung thế?
Đoàn Dự đem chuyện chàng ở Kiếm Hồ Cung gặp được Chung Linh thế nào, mình bị nhục được nàng cứu ra sao kể lại một lượt. Mộc Uyển Thanh lặng yên chăm chú nghe, đến lúc xong mới cười khẩy nói:
- Anh không biết võ công nhưng lại thích xen vào chuyện giang hồ, bộ không muốn sống nữa hay sao?
Đoàn Dự điềm nhiên nói:
- Tôi mình làm mình chịu, có chết cũng đành, có điều liên lụy đến cô nương, trong lòng quả thật không an.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Anh làm gì mà liên lụy đến tôi? Oán thù với bọn này do tôi gây ra, dù không có anh thì họ vẫn xúm lại vây đánh tôi cơ mà! Có điều nếu như không có anh, tôi không phải lo ... sẽ đánh giết ... đánh giết một trận cho sướng tay, sau đó bị họ chém nát nhừ cũng còn hơn chịu chết đói ở trên núi hoang này.
Nàng nói đến bốn chữ “tôi không phải lo”, ngừng lại một chút, nghĩ mình chính miệng nói ra phải lo lắng cho anh chàng, xem ra không ổn, mặt hơi ửng đỏ. Cũng may nàng có tấm khăn che mặt nên Đoàn Dự không hay biết gì, ngay cả giọng nàng hơi khác chàng cũng không để ý đến, lại tưởng nàng bị thương rồi người mất sức, nói năng không được trơn tru. Chàng liền an ủi:
- - Thôi cô nương nghỉ ngơi vài ngày, để khi nào vết thương trên lưng đỡ rồi, lúc đó mình sẽ đánh xuống, chưa chắc họ đã ngăn cản được cô đâu.
Mộc Uyển Thanh cười nhạt:
- Sao anh nói dễ nghe thế, vết thương của tôi vài ngày làm sao khỏi được? Đối phương cao thủ không phải là ít ...
Bỗng nghe từ bờ vực bên kia một tiếng hú chói tai, vang động quần sơn. Mộc Uyển Thanh tự nhiên giật mình, run run nói:
- Kẻ ... kẻ đó là ai? Sao nội công cao thâm đến thế?
Nàng giơ tay ra nắm lấy cánh tay Đoàn Dự. Tiếng hú kia vang qua vọng lại giữa những vách núi hồi lâu chưa dứt, nghe như tiếng một đàn quỉ gọi nhau, cùng đến đòi mạng giữa đêm khuya. Tuy lúc đó đang ban ngày ban mặt thế nhưng trong một sát na Đoàn Dự cảm thấy như mắt mình tối sầm. Một hồi lâu sau tiếng hú mới dần dần ngừng hẳn.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Người này võ công thật là ghê gớm, tôi không còn cách nào sống nổi, anh ... anh mau mau tìm cách bỏ chạy đi, đừng lo cho tôi làm gì.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Mộc cô nương, sao cô coi thường Đoàn Dự này thế? Họ Đoàn tuy “danh dự cực hoại” nhưng đâu có đến nỗi tệ đến vậy.
Mộc Uyển Thanh chăm chăm nhìn chàng, trong ánh mắt bừng lên một vẻ đầy thiết tha trìu mến, dịu dàng nói:
- “Danh dự cực hoại” là em nói đùa anh, anh chết chung với em có ... có ích gì đâu? Anh chạy thoát rồi, lâu lâu nhớ đến em một chút như thế là đủ.
Đoàn Dự chưa bao giờ nghe nàng nói năng ôn nhu như thế, tiếng hú kia nổi lên dường như đổi hẳn thành một người mới, có điều nàng quen với giọng điệu thù hằn, hậm hực lạnh như băng nên những lời nhỏ nhẹ kia không khỏi hơi vấp váp. Chàng mỉm cười:
- Mộc cô nương, tôi thích nghe cô nói những lời như thế, quả đúng là một cô gái xinh đẹp dịu dàng.
Mộc Uyển Thanh hứ một tiếng, đột nhiên đổi giọng gay gắt:
- Sao anh biết tôi xinh đẹp? Anh trông thấy mặt tôi rồi, phải không nào?
Tay nàng cứng lại chẳng khác nào một cái kìm bóp chặt lấy cánh tay Đoàn Dự. Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:
- Lúc tôi múc nước cho cô uống, thấy một nửa khuôn mặt cô. Chỉ một nửa khuôn mặt thôi cô đã là một mỹ nhân khó kiếm ở trên đời rồi.
Mộc Uyển Thanh tuy tính tình hung dữ nhưng dẫu sao cũng là đàn bà, được người ca ngợi trong lòng mừng thầm, huống chi nàng che mặt đã lâu, xưa nay chỉ nghe người ta khen mình võ công cao cường chứ chưa nghe ai ca tụng dung mạo, trong lòng cao hứng liền lỏng tay ra nói:
- Anh mau đi tìm một cái hang nào mà trốn, dù có thấy gì cũng đừng ló đầu ra. E rằng chỉ trong giây lát là người ta lên đến rồi.
Đoàn Dự kinh hãi nói:
- Không thể để y lên được.
Chàng vội nhỏm dậy chạy ra bờ vực, đột nhiên thấy mắt hoa lên, một cái bóng vàng nhanh nhẹn tuyệt luân đang trèo lên. Bờ đá cực kỳ hiểm trở nhưng người kia đăng sơn mà không khác gì đi trên đất bằng, so với khỉ vượn còn nhanh nhẹn hơn. Đoàn Dự trong lòng kinh hãi kêu lên:
- Này, nếu ngươi còn tiếp tục trèo lên ta sẽ dùng đá ném đó.
Người kia cười lên sằng sặc, trèo lên càng nhanh hơn trước. Đoàn Dự thấy y vừa dứt tiếng cười đã lên thêm được mấy trượng, không thể nào để y lên núi được nhưng lại cũng không muốn giết người nên nhặt một khối đá ném xuống bên cạnh người đó cách chừng vài trượng. Viên đá tuy không lớn lắm nhưng từ trên cao rơi xuống, nghe tiếng vù vù thế rơi cũng thật kinh người. Đoàn Dự lại kêu lên:
- Này, ngươi đã thấy chưa? Nếu như ta ném vào người ngươi, liệu ngươi có sống được chăng? Mau quay trở xuống đi thôi.
Người kia cười nhạt nói:
- Thằng nhỏ thối tha kia, ngươi không muốn giữ cái mạng chó của ngươi hay sao mà dám vô lễ với ta như thế?
Đoàn Dự thấy y lại lên thêm mấy trượng rồi, tình hình mỗi lúc một thêm nguy cấp, liền cầm mấy cục đá lên nhắm đúng ngay đầu y mà thả rồi nhắm mắt lại không dám nhìn cái cảnh y rơi từ trên cao xuống đáy vực.
Chỉ nghe vù vù hai tiếng, người kia ngửa cổ cười dài. Đoàn Dự trong bụng lạ lùng, mở mắt ra xem thấy mấy viên đá kia đang rơi xuống vực sâu, còn người kia không hề hấn gì. Đoàn Dự càng thêm gấp gáp, vội vàng hết cục nọ đến cục kia liên tiếp ném xuống.
Người đó đợi đá rơi xuống đỉnh đầu liền giơ tay gạt ra, cục đá liền văng ra xa, cũng có khi y nhẹ nhàng nhảy một cái, tránh sang một bên. Đoàn Dự một hơi ném luôn ba chục cục đá, chỉ cản trở được y chậm lại một chút nhưng không tổn hại y được một sợi lông, sợi tóc. Chàng thấy y càng nhảy càng gần, biết không thể làm gì được y, khuôn mặt gớm ghiếc của y đã dần dần nhìn rõ, vội vàng quay lại bên cạnh Mộc Uyển Thanh, kêu lên:
- Mộc ... Mộc cô nương, kẻ ... kẻ đó lợi hại quá, thôi mình chạy cho mau.
Mộc Uyển Thanh cười khẩy đáp:
- Không kịp nữa rồi.
Đoàn Dự đang toan nói thêm, bỗng thấy từ đằng sau một luồng lực đạo đẩy tới, lập tức bay bổng lên, rơi bịch vào trong bụi cây, đau đến tối tăm mặt mũi. Cũng may nơi đây toàn là những cây thấp, nên mặt chỉ xây sát sơ sài nhưng không bị thương. Chàng cố vùng vẫy đứng lên được thấy người kia đã đứng trước mặt Mộc Uyển Thanh.
Đoàn Dự vội vàng chạy đến, chắn đằng trước Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Tôn giá là ai? Sao lại ra tay đánh người?
Mộc Uyển Thanh kinh hoảng kêu lên:
- Anh ... anh chạy mau đi, đừng ở đây làm gì nữa.
Người kia cười lên ha hả nói:
- Chạy làm sao được. Lão tử là Nam Hải Ngạc Thần, võ công thiên hạ đệ ... đệ ... ha ha, hai đứa nhãi con chắc nghe đến tên ta rồi chứ, phải không nào?
Đoàn Dự tim đập thình thịch, cố gắng trấn tĩnh, quay sang nhìn người kia, việc đầu tiên là thấy đầu y to lớn dị thường, cái mồm ngoác ra để lộ đầy răng nhọn, còn đôi mắt thì lại vừa bé vừa tròn, trông như hai hạt đậu nhưng ánh mắt sáng quắc, đảo qua đảo lại nhìn Đoàn Dự khiến chàng không khỏi lạnh xương sống. Người đó tầm thước, thân trên thô tráng nhưng bên dưới lại gầy gò, dưới cằm râu đâm tua tủa như những ngọn kích, nhìn không thể đoán được y tuổi tác chừng bao nhiêu.
Y mặc trên người một chiếc áo vàng, dài đến đầu gối, may bằng cẩm đoạn hạng nhất, thật là hoa quí nhưng bên dưới thì lại mặc một chiếc quần vải thô, ô uế lam lũ, không còn ra màu mè gì. Mười ngón tay y vừa dài vừa nhọn trông như móng gà. Đoàn Dự vừa gặp đã thấy người này dung mạo xấu xí nhưng càng nhìn càng thấy y ngũ quan hình tướng, thân thể chân tay, ngay cả đến quần áo mặc trên người đều có điểm gì không ổn.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Anh lại đây, đứng bên cạnh tôi.
Đoàn Dự lắp bắp:
- Y ... liệu y có đả thương cô không?
Mộc Uyển Thanh cười nhạt nói:
- Chỉ với cái đạo hạnh nhỏ bé của anh liệu có ngăn chặn được Nam Hải Ngạc Thần chăng?
Tuy nhiên nàng thấy Đoàn Dự không kể sống chết đứng ra bảo hộ cho mình trong lòng không khỏi cảm động. Đoàn Dự nghĩ nàng nói không sai, quái nhân kia muốn giết mình chỉ cất tay là xong thành thử không nên chọc cho y nổi giận là hơn, bèn đến đứng bên cạnh Mộc Uyển Thanh nói:
- Thì ra tôn giá ngoại hiệu là Nam Hải Ngạc Thần, võ công thiên hạ đệ ... đệ ... gì đó, đã từng nghe danh từ lâu như sấm rền bên tai. Tại hạ mấy hôm nay được biết bao nhiêu là anh hùng hảo hán nhưng tôn giá võ công lợi hại hơn hết. Tại hạ ném mấy chục cục đá mà không trúng được cục nào. Tôn giá võ công cao cường đến thế thì quả là ghê gớm thật.
Chàng nghĩ thầm: “Mặc dù ta tâng bốc nhưng võ công y quả là cao cường, thổi phồng lên cũng không phải là quá đáng”. Nam Hải Ngạc Thần thấy Đoàn Dự ca ngợi võ công y lợi hại, trong lòng hết sức đắc ý, cười khan mấy tiếng nói:
- Bản lãnh của tiểu tử bình thường quá đỗi nhưng nhãn quang cũng không đến nỗi tệ. Thôi ngươi đi đi, lão tử tha chết cho ngươi đó.
Đoàn Dự mừng quá nói:
- Thế lão nhân gia tha luôn cả Mộc cô nương chứ?
Đôi mắt tròn nhỏ của Nam Hải Ngạc Thần xụ xuống, giơ tay ra, đẩy một cái, Đoàn Dự lùi ra mấy bước, trầm giọng quát:
- Ngươi mà còn tiến lên một bước ta không tha cho ngươi nữa đâu.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bọn nhân vật giang hồ nói sao làm vậy, mình đứng yên đây là hơn”. Chỉ thấy Nam Hải Ngạc Thần trợn tròn đôi mắt nhỏ xíu đánh giá Mộc Uyển Thanh, hỏi:
- Tiểu Sát Thần Tôn Tam Bá có phải ngươi giết không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng thế!
Nam Hải Ngạc Thần hỏi tiếp:
- Y là đệ tử yêu thích của ta, ngươi có biết chăng?
Đoàn Dự trong bụng kêu khổ thầm: “Chết rồi! Chết rồi! Mộc cô nương giết đệ tử yêu của y, việc này chắc khó mà bỏ qua được. Dù ta có tâng bốc y gấp mười lần e cũng không xong”. Mộc Uyển Thanh nói:
- Khi tôi giết y tôi không biết, mấy ngày sau mới biết.
Nam Hải Ngạc Thần hỏi:
- Ngươi có sợ ta không nào?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Không sợ!
Nam Hải Ngạc Thần rống lên một tiếng, thanh âm vang động cả sơn cốc, quát lớn:
- Ngươi dám không sợ ta sao? Ngươi ... ngươi lớn mật thật. Ngươi dựa vào ai mà dám thế?
Mộc Uyển Thanh cười khẩy nói:
- Tôi dựa vào thế của ông chứ còn ai nữa.
Nam Hải Ngạc Thần sững sờ, quát lên:
- Chỉ nói láo lếu! Sao ngươi lại dựa vào thế của ta được?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Ông là một trong Tứ Đại Ác Nhân, thân phận cao như thế, uy danh lớn như thế lẽ nào lại động thủ với một cô gái đang bị trọng thương?
Câu nói đó tâng bốc y một cách khéo léo, Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên rồi ngửa cổ lên trời cười ha hả nói:
- Lời đó nghe cũng có lý.
Đoàn Dự nghe tới Tứ Đại Ác Nhân mới biết rằng y chính là bằng hữu của cha Chung Linh Chung Vạn Cừu mời đến, nếu như nói đến họ Chung may ra có điểm nhẹ tay nên khi nghe y nói “Cái đó nghe cũng có lý” vội vàng chen vào:
- Trên giang hồ vẫn thường nghe nói Nam Hải Ngạc Thần là đại anh hùng đại hào kiệt, chẳng nói chi không hiếp đáp đàn bà con gái bị thương mà ngay cả đến đàn ông con trai bị thương cũng không thèm đánh. Ai ai cũng nói rằng, Nam Hải Ngạc Thần nếu thấy người nào đi một mình cũng không đánh, đối thủ càng đông thì càng cao hứng có thế mới thấy võ công của lão nhân gia cao cường.
Đôi mắt nhỏ của Nam Hải Ngạc Thần lờ đờ như say thuốc, cười hì hì, gật đầu liên tiếp hỏi thêm:
- Lời đó nghe cũng có lý. Ngươi nghe ai nói thế?
Đoàn Dự đáp:
- Thì Tả Tử Mục của Đông Tông Vô Lượng Kiếm, Tân Song Thanh của Tây Tông Vô Lượng Kiếm, bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền, cốc chủ Vạn Kiếp Cốc Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu, rồi phu nhân của y là Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo, rồi cả Thụy bà bà, Bình bà bà ở Giang Nam đến, ha ha, nhiều lắm nhiều lắm, tôi đâu có nhớ hết được bao nhiêu người.
Nam Hải Ngạc Thần gật gù nói:
- Tên tiểu tử ngươi quả là có ý tứ. Lần sau nếu nghe ai nói lão tử anh hùng kệt xuất, phải ghi nhớ cho kỹ tên tuổi họ.
Y quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:
- Ta nghe ngươi võ công không phải kém, sao lại để đến nỗi trọng thương, ai đả thương ngươi đó?
Mộc Uyển Thanh cay cú trả lời:
- Đó là vì bốn người đánh một, nếu như gặp phải Nam Hải Ngạc Thần thì có coi vào đâu, địch nhân càng đông càng tốt, còn tôi đâu được thế.
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Lời đó nghe cũng có lý. Bốn người đánh một cô nương, thật không biết nhục.
Đoàn Dự vội nói:
- Đúng đó, kẻ anh hùng hảo hán chân chính, dẫu đơn đả độc đấu cũng còn chưa làm, sao lại có trò bốn người đánh một bao giờ? Tiếc rằng lão nhân gia lúc đó không trông thấy, nếu không ông cho mỗi đứa một đòn thì chúng sẽ đứt gân gãy xương hết.
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Không đúng! Không đúng! Không đúng!
Cái đầu to của y lắc lư, nói một câu “không đúng” lại lắc một cái. Đoàn Dự trong bụng chột dạ, y nói ba câu “không đúng”, tim Đoàn Dự thót lên ba lần, không biết mình sai chỗ nào nghe y nói tiếp:
- Ta đâu có bao giờ đánh người đứt gân gãy xương, chỉ lốp cốp một tiếng là bẻ gãy cái cổ rùa của bọn chúng. Còn như đứt gân gãy xương chưa chắc đã chết, đâu có tuyệt hay, cũng chẳng dễ coi. Còn như bẻ cổ, con rùa đó làm sao sống được? Nếu như ngươi không tin, để ta thử bẻ cổ ngươi thì biết.
Đoàn Dự vội nói:
- Tôi tin, tôi tin, khỏi cần thử làm gì!
Chàng chợt nhớ ra, gia nhân của Chung Vạn Cừu là Tiến Hỉ Nhi tiếp đãi Nhạc lão nhị trong Tứ Đại Ác Nhân, chỉ vì gọi lỡ một câu “Tam Lão Gia”, lại bảo y là “người thật là tốt” nên bị y bẻ gãy cổ, vậy thì chính là gã này, bèn nói:
- Đúng rồi! Ông là người ác không ai sánh bằng, có người bảo ông là Nhạc lão nhị nhưng tôi bảo ông phải là Nhạc lão đại mới đúng. Nhạc lão đại bẻ cổ người ta thì làm sao còn ai mà sống nổi?
Nam Hải Ngạc Thần mừng quá, chộp ngay đầu vai y lắc lắc liên hồi, cười nói:
- Đúng đó! Đúng đó! Tiểu tử ngươi thông minh thật, biết ta là người ác không ai sánh bằng. Nhạc lão đại thì không được, lão nhị là đúng rồi.
Đoàn Dự bị y nắm vai đau đến thấu trời, cố gượng một nụ cười, nói:
- Ai nói thế? Ba chữ Nhạc lão đại nói ra đúng là không biết thẹn.
Chàng trong bụng thẹn ngầm: "Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, chỉ vì ngươi muốn cứu Mộc cô nương mà ăn nói thật là vô sỉ, bợ đỡ người ta chẳng có chút cốt khí nào. Bao nhiêu sách vở thánh hiền ngươi đọc để làm gì?”. Thế nhưng chàng lại tự an ủi: “Nếu như chỉ vì bản thân ta, một nửa câu hèn hạ đó ta cũng chẳng nói, tham sống sợ chết thì còn gì là bản sắc của đại trượng phu? Cũng chỉ vì Mộc cô nương nên đành phải chịu ép một bề. Kinh Dịch có nói rằng: Nhu thuận lợi trinh, quân tử tu hành đó chính là đạo nhu khắc cương”. Chàng nghĩ thế rồi trong bụng mới thấy yên.
Nam Hải Ngạc Thần buông Đoàn Dự ra, quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:
- Nhạc lão nhị là anh hùng hảo hán, không giết đàn bà con gái đang bị thương ...
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Y trước sau vẫn không dám tự xưng lão đại, không biết người anh cả đó là loại ác nhân cỡ nào?” Chàng sợ đắc tội với y nên không dám hỏi thêm. Lại nghe y nói tiếp:
- ... đợi đến bao giờ bọn ngươi người đông thế mạnh, lúc đó ta giết cũng được, hôm nay tha cho. Ta hỏi ngươi, ta từng nghe người ta nói rằng, ngươi che mặt lâu năm, không để cho ai nhìn thấy dung mạo, nếu như ai trông thấy, nếu như ngươi không giết y thì sẽ lấy y làm chồng, việc đó có đúng không?
Đoàn Dự giật mình, thấy Mộc Uyển Thanh khẽ gật đầu, khiến chàng càng thêm kinh hoảng. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Tại sao ngươi lại đưa ra cái qui củ đó?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đó là tôi thề độc trước mặt sư phụ tôi, nếu không như thế sư phụ tôi sẽ không truyền dạy võ nghệ.
Nam Hải Ngạc Thần lại hỏi thêm:
- Sư phụ ngươi là ai? Chuyện kỳ lạ quái đản đó, chẳng đâu ra đâu, thật thối như rắm, thối lắm.
Mộc Uyển Thanh ngang nhiên đáp:
- Tôi kính trọng ông là bậc tiền bối nên gọi ông một tiếng lão nhân gia. Nếu ông ăn nói hỗn hào, làm nhục đến thầy tôi tôi không nể nang nữa đâu.
Nam Hải Ngạc Thần giơ tay lên, đập lên một tảng đá ở bên cạnh, tảng đá lập tức vỡ tan, mấy mảnh vụn văng cả vào mặt Đoàn Dự khiến chàng thật đau. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Võ công của một người luyện đến mức như thế, nếu đánh vào da thịt con người, làm sao còn sống cho nổi?”. Thế nhưng Mộc Uyển Thanh vẫn không chớp mắt, chẳng tỏ vẻ gì sợ hãi.
Nam Hải Ngạc Thần chăm chăm nhìn nàng một lát nói:
- Được, ngươi nói nghe cũng có lý. Thế sư phụ ngươi là ai? Ha ha! Cái đó ... cái đó ... ha ha ...
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi tên là U Cốc Khách.
Nam Hải Ngạc Thần ngẫm nghĩ rồi lẩm bẩm:
- U Cốc Khách? Ta chưa nghe đến, không có tiếng tăm gì.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi ẩn cư nơi hoang dã nên mới gọi là U Cốc Khách. Làm sao so sánh được với một người danh tiếng lừng lẫy như ông được?
Nam Hải Ngạc Thần gật gù:
- Lời đó nghe cũng có lý.
Đột nhiên y cao giọng, quát lên:
- Tên học trò ta Tôn Tam Bá có phải muốn coi mặt ngươi nên ngươi giết y chứ gì?
Mộc Uyển Thanh lạnh lùng đáp:
- Ông biết tính nết học trò ông rồi. Nếu như y học được một phần mười tài nghệ của ông thì tôi cũng không giết nổi.
Nam Hải Ngạc Thần gật đầu:
- Lời đó nghe cũng có lý.
Thế nhưng khi y nghĩ đến qui củ của môn phái xưa nay một thầy một trò đơn truyền, Tôn Tam Bá chết rồi, mười năm tâm huyết, công lao rèn luyện nay ra mây khói, càng nghĩ càng giận liền quát một tiếng:
- Con mẹ nó!
Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự thấy mặt y đột nhiên biến ra vàng khè, thần tình hung dữ thật đáng sợ trong bụng sợ hãi. Lại nghe y quát lên:
- Ta phải báo thù cho học trò ta.
Đoàn Dự nói:
- Nhạc nhị gia, ông đã nói không giết cô ta rồi, hơn nữa, học trò ông chưa học được một thành võ công của ông, có chết cũng tốt, còn hơn sống ở trên đời chỉ tổ làm cho ông mất mặt.
Nam Hải Ngạc Thần gật gù:
- Lời đó nghe cũng có lý. Nhạc lão nhị không thể nào để cho mất mặt được.
Y quay sang hỏi Mộc Uyển Thanh:
- Học trò ta đã nhìn thấy mặt ngươi chưa?
Mộc Uyển Thanh nghiến răng đáp:
- Chưa!
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Hay lắm! Tên tiểu tử Tam Bá chết không nhắm mắt, để ta xem mặt mũi ngươi thế nào, là đứa xấu như ma hay đẹp như tiên trên trời.
Mộc Uyển Thanh sợ không để đâu cho hết, không lẽ mình lại phải lấy gã này? Nàng vội nói:
- Ông là một nhân vật thành danh trong võ lâm, lẽ nào làm những hành vi vô sỉ hạ lưu như thế?
Nam Hải Ngạc Thần cười khẩy nói:
- Ta là đại ác nhân không ai ác hơn, làm việc gì càng ác càng thích. Ta bình sinh chỉ có một qui củ là không giết người không có sức chống trả, ngoài ra cái gì ta cũng làm, vô ác bất tác. Ngươi mau ngoan ngoãn tự mình bỏ cái khăn che mặt xuống, đừng để mất công lão tử ra tay.
Mộc Uyển Thanh run run nói:
- Ông không thể không coi hay sao?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Người còn lải nhải không bỏ cái khăn xuống, thì ngay đến quần áo trên người ta cũng lột sạch. Lão tử không vặn cổ ngươi thì cũng bẻ hai tay, hai chân cũng được chứ sao?
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ta không giết nổi y, chỉ đành tự tận”. Nàng quay sang đưa mắt nhìn Đoàn Dự có ý ra hiệu cho chàng mau đào tẩu. Đoàn Dự lắc đầu, thấy hàm râu chổi xể của Nam Hải Ngạc Thần rung rung, y hừ một tiếng, giơ năm ngón tay như năm cái móng gà toan giựt cái khăn che mặt của Mộc Uyển Thanh.
Mộc Uyển Thanh giơ tay lên, tách tách tách ba mũi đoản tiễn nhanh như chớp bắn vụt ra, tất cả đều trúng bụng dưới Nam Hải Ngạc Thần. Ngờ đâu lộp độp mấy tiếng cả ba mũi tên đều rơi xuống đất, dường như bên trong áo có bảo giáp hộ thân. Mộc Uyển Thanh rung một cái, lại bắn ra ba mũi tên nữa, hai mũi bắn vào ngực, còn mũi thứ ba nhằm ngay mặt.
Hai mũi tên trúng ngực thật chẳng khác nào bắn vào một tấm da dày, rớt xuống, còn mũi thứ ba vào mặt, Nam Hải Ngạc Thần giơ ngón giữa, búng nhẹ một cái vào đuôi tên, mũi tên văng đi đâu mất không biết nữa.
Mộc Uyển Thanh rút trường kiếm ra, giơ lên cứa ngay vào cổ nhưng vì mới bị thương nặng, ra tay không nhanh, Nam Hải Ngạc Thần vươn tay ra cướp lấy vứt xuống đất, cười khẩy mấy tiếng nói:
- Qui củ của ta là không giết kẻ không có sức chống trả, ngươi bắn ta sáu mũi tên, ấy là ra tay đánh ta trước. Ta sẽ coi mặt mũi ngươi trước, sau đó sẽ lấy mạng ngươi. Đó là vì ngươi động thủ trước chứ không phải ta không giữ qui củ.
Đoàn Dự kêu lên:
- Sai rồi!
Nam Hải Ngạc Thần quay lại hỏi:
- Cái gì?
Đoàn Dự đáp:
- Ông là anh hùng hảo hán, không được hiếp đáp một người đàn bà đang bị trọng thương.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Cô ta bắn ta liên tiếp sáu mũi tên ngươi không thấy hay sao? Đó là cô gái bị thương nặng hiếp đáp anh hùng hảo hán, chứ nào phải anh hùng hảo hán ăn hiếp đàn bà con gái đang bị trọng thương.
Đoàn Dự nói:
- Thế cũng chưa đúng.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Cái gì mà còn chưa đúng nữa? Thối lắm!
Đoàn Dự đáp:
- Qui củ của ông là ở tám chữ “không giết người không có sức chống trả”, có đúng không nào?
Nam Hải Ngạc Thần giương tròn đôi mắt nhỏ như hạt đậu nói:
- Đúng vậy.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Thế tám chữ đó có thay đổi được không?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Một nửa chữ cũng không thay dổi được.
Đoàn Dự đáp:
- Nếu như thay đổi thì làm sao?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Thì là đồ rùa đen , là quân đê tiện .
Đoàn Dự nói:
- Hay lắm, hay lắm! Ông chưa đánh Mộc cô nương, Mộc cô nương đã bắn tên vào ông rồi, đó đâu có phải là “chống trả”, mà cái đó gọi là “tiên hạ thủ vi cường”. Nếu như ông ra tay đánh cô ta, cô ta đang bị thương nặng, làm sao có sức chống trả được. Do đó cô ta chỉ có sức đánh lén, nhưng không có sức chống trả. Nếu ông giết cô ta thì đã là thay đổi qui củ rồi, mà nếu đã thay đổi qui củ thì có phải là đồ rùa đen, là quân đê tiện hay chăng?
Chàng từ bé đọc sách Nho, kinh Phật, những gì sách vở sai khác một chút cũng biện thuyết rất chi li, những gì “thị bất vi dã, phi bất năng dã” hay “bạch mã phi mã, kiên thạch phi thạch” , rồi những gì “hữu tướng vô tính, phi thường phi đoạn” từng nghiên cứu rất tường tận, nay lúc khẩn cấp liền nắm ngay câu của Nam Hải Ngạc Thần ra bắt bẻ.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ rống lên một tiếng, chộp lấy hai tay chàng, quát lên:
- Sao ngươi dám chửi ta là đồ rùa đen, là quân đê tiện?
Y vươn tay ra toan nắm lấy cổ chàng. Đoàn Dự đáp:
- Nếu như ông thay đổi qui củ thì mới là đồ rùa đen, là quân đê tiện, còn như không thay đổi gì cả thì đâu phải là đồ rùa đen, là quân đê tiện. Ông có thích được làm đồ rùa đen, là quân đê tiện là do ông có thay đổi qui củ hay không.
Mộc Uyển Thanh thấy chàng sống chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, trong tình hình hung hiểm như thế này vẫn cứ lải nhải “là đồ rùa đen, là quân đê tiện” luôn mồm, nghĩ thầm Nam Hải Ngạc Thần thể nào cũng nổi khùng vặn cổ chàng, trong lòng không khỏi đau xót, nước mắt ứa ra, quay đầu sang nơi khác không dám nhìn.
Ngờ đâu mấy câu đó đã ngăn Nam Hải Ngạc Thần lại, nghĩ thầm nếu như mình bẻ cổ gã này thì chẳng hóa ra giết một người không có sức chống trả để thành đồ rùa đen, quân đê tiện rồi còn gì? Đôi mắt ti hí của y nhìn Đoàn Dự, tay từ từ bóp chặt lại. Cánh tay Đoàn Dự kêu lên lách cách dường như muốn gãy, đau đến tưởng như ngất xỉu, lớn tiếng kêu:
- Tôi không có sức chống trả, ông cứ giết tôi đi.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Ta không mắc hỡm ngươi đâu, ngươi muốn ta thành đồ rùa đen, là quân đê tiện chứ gì?
Nói xong y bèn nhấc bổng Đoàn Dự lên giáng xuống một cái thật mạnh. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tưởng chừng ngũ tạng lục phủ nát ngướu cả. Nam Hải Ngạc Thần lẩm bẩm:
- Ta không mắc hỡm! Ta không giết hai tên tiểu quỉ này đâu.
Y giơ tay cầm ngay chiếc áo choàng bằng cẩm đoạn khoác trên người Mộc Uyển Thanh, nghe soẹt một tiếng đã giựt ngay ra. Mộc Uyển Thanh kinh hoảng kêu lên một tiếng thất thanh, rụt người lại. Nam Hải Ngạc Thần vung tay ra, chiếc áp choàng đó bay vụt ra theo gió bung ra chẳng khác nào một chiếc lá sen lớn bay xuống dưới sông Lan Thương, lập lờ trôi xuôi về phía hạ lưu. Nam Hải Ngạc Thần cười gằn nói:
- Ngươi không chịu bỏ khăn che mặt xuống, lão tử sẽ lột quần áo ngươi ra.
Mộc Uyển Thanh quay sang Đoàn Dự vẫy tay nói:
- Anh lại đây!
Đoàn Dự khập khiễng đến trước mặt nàng, buồn bã lắc đầu. Mộc Uyển Thanh quay đầu sang nhìn chàng, lưng hướng về phía Nam Hải Ngạc Thần, nói nhỏ:
- Chàng là người đàn ông đầu tiên trên đời này thấy được mặt em!
Nàng chầm chậm mở chiếc khăn ra. Đoàn Dự bỗng thấy bàng hoàng, trước mắt là một khuôn gương đầy đặn như trăng vừa lên, thanh khiết như tuyết đọng trên hoa mới nở, xinh đẹp vô cùng. Có điều làn da hơi xanh xao, không một chút huyết sắc, hẳn là vì lâu nay dùng khăn che mặt. Đôi môi mỏng dính nhưng cũng chỉ đậm hơn một chút, Đoàn Dự thấy nàng sao thật đáng thương, dịu dàng mềm mại, còn đâu một nữ ma đầu giết người không chớp mắt?
Mộc Uyển Thanh bỏ khăn xuống, quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:
- Ông muốn coi mặt của tôi, hãy hỏi chồng tôi trước đã.
Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên:
- Ngươi lấy chồng rồi ư? Chồng ngươi là ai thế?
Mộc Uyển Thanh chỉ vào Đoàn Dự nói:
- Tôi đã từng lập độc thệ, nếu người đàn ông nào nhìn thấy mặt tôi nếu tôi không giết y thì sẽ lấy y làm chồng. Người này đã nhìn thấy mặt tôi rồi, tôi không muốn giết anh ấy thì sẽ lấy làm chồng.
Đoàn Dự hoảng hồn ấp úng:
- Cái đó ... cái đó ...
Nam Hải Ngạc Thần sững sờ quay đầu qua, Đoàn Dự thấy đôi mắt ti hí của y nhìn mình từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới lên trên, khiến người nổi gai ốc, lưng toát mồ hôi, chỉ sợ y trong cơn cuồng nộ xông lên vặn cổ mình. Bỗng nhiên Nam Hải Ngạc Thần tặc tặc mấy tiếng khen ngợi, mặt đầy vẻ vui mừng nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Mau may quay người lại.
Đoàn Dự không dám kháng cự, vội quay lưng về phía y. Nam Hải Ngạc Thần lại tiếp:
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi giống hệt ta, ngươi giống hệt ta!
Dù y nói câu gì cũng không khiến cho Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự ngạc nhiên bằng câu “ngươi giống hệt ta”. Hai người tự hỏi: “Câu này quả là khác thường, y võ công cao cường, mặt mày xấu xí, giống ở chỗ nào? Huống chi lại còn thêm một chữ “hệt” nữa?”.
Nam Hải Ngạc Thần nhún một cái nhảy ngay đến bên cạnh Đoàn Dự, giơ tay xoa xoa sau ót chàng, nắn nắn chân tay, rồi lại dùng tay bóp mấy cái dưới hông, ngoác mồm ra cười sằng sặc nói:
- Ngươi giống ta quá! Giống hệt ta!
Y cầm tay chàng xách lên nói:
- Đi theo ta!
Đoàn Dự không hiểu ra sao hỏi lại:
- Ông bảo tôi đi đâu?
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Thì đi với ta, mau mau khấu đầu xin ta thu ngươi làm đệ tử. Ngươi chỉ mở miệng xin là ta thuận ngay.
Việc đó quả hoàn toàn ngoài dự liệu của Đoàn Dự, chàng khép nép nói:
- Cái đó ... cái đó ...
Nam Hải Ngạc Thần hoa chân múa tay, tưởng như tìm được một vật gì quí giá nhất đời nói:
- Ngươi tay dài chân ngắn, sau đầu có xương lồi ra, xương sườn mềm mại, thông minh nhanh nhẹn, tuổi tác còn trẻ lại là con trai, quả là võ học kỳ tài. Ngươi xem, cái xương đầu của ta có phải giống hệt của ngươi không nào?
Nói xong y liền quay lại. Đoàn Dự giơ tay sờ sau ót, thấy xương đầu mình quả tương tự như của y, hiểu rằng “ngươi giống hệt ta” chẳng qua là nói về hai người có cái xương đầu giống nhau.
Nam Hải Ngạc Thần quay người lại cười hì hì nói:
- Phái Nam Hải chúng ta xưa nay có lệ mỗi đời chỉ truyền cho một người, chỉ thu một đệ tử. Đứa học trò Tiểu Sát Thần Tôn Tam Bá của ta xương đầu kém xa ngươi, y học chưa được một thành tài nghệ, chết đi là phải, đỡ phải chính tay ta giết nó để thu ngươi làm đồ đệ.
Đoàn Dự không khỏi lạnh người, nghĩ thầm người này tàn nhẫn như thế, chỉ mới thấy người khác có tư chất hơn là đã muốn giết ngay học trò mình để thay người khác không nói gì mình không muốn học võ, dẫu có thích võ công cũng không thể bái loại người như thế làm thầy. Thế nhưng nếu như mình khước từ thì đại họa giáng xuống ngay, còn đang chưa có cách gì thoái thác, Nam Hải Ngạc Thần bỗng nhiên quát lớn:
- Bọn chúng bay lấp la lấp ló cái gì thế? Có cút đi không thì bảo?
Chỉ thấy trong những bụi cây chui ra đến một chục người, Thụy bà bà, Bình bà bà gã sử kiếm cũng ở trong số đó. Thì ra Nam Hải Ngạc Thần lên trên đỉnh núi rồi, Đoàn Dự không còn ném đá xuống ngăn chặn được, những người đó thừa cơ trèo lên tới nơi.
Những người đó lẩn trốn sau những tùm cây, tuy ai nấy nín hơi không cử động nhưng đâu có thể thoát khỏi được đôi tai của Nam Hải Ngạc Thần. Y vừa tìm thấy Đoàn Dự là một nhân tài khó kiếm, trong lòng cao hứng nên chưa nổi giận, chỉ cười hì hì liếc mắt nhìn bọn Thụy bà bà quát lên:
- Các ngươi lên đây làm gì? Lên đây chúc mừng lão gia thu được một đứa học trò chăng?
Thụy bà bà chỉ vào Mộc Uyển Thanh nói:
- Bọn ta lên đây tróc nã con tiểu tiện nhân này báo thù cho đồng bọn.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Tiểu cô nương đây là vợ của học trò ta, đứa nào dám bắt? Con mẹ nó, có cút hết không thì bảo?
Mọi người ngơ ngác không khỏi lạ lùng. Đoàn Dự cố thu hết can đảm nói:
- Tôi không muốn bái ông làm thầy. Tôi có sư phụ rồi.
Nam Hải Ngạc Thần nổi cơn lôi đình quát lớn:
- Sư phụ ngươi là ai? Bản lãnh y có hơn được ta không?
Đoàn Dự đáp:
- Công phu của thầy ta xem chừng ông không biết một chút nào. Các Quái Tượng, Hệ Từ trong kinh Dịch, ông có biết không? Ý nghĩa của Minh Di, Vị Tế ông nói cho tôi nghe xem nào.
Nam Hải Ngạc Thần gãi đầu gãi tai, cái gì mà Quái Tượng, Hệ Từ, Minh Di, Vị Tế, nghe tới cũng chưa từng nghe, không biết là loại võ công thần kỳ gì.
Đoàn Dự thấy y có vẻ hoang mang nói tiếp:
- Xem ra những công phu cao siêu đó ông chưa biết. Thành thử hảo ý của lão anh hùng, tại hạ chỉ đành tâm lãnh, lần sau tôi sẽ mời sư phụ tới cùng ông so tài cao thấp, xem người nào giỏi hơn người nào. Nếu như ông thắng được sư phụ tôi lúc đó tôi bái ông làm thầy cũng chưa muộn.
Nam Hải Ngạc Thần hậm hực nói:
- Sư phụ ngươi là ai? Ta đâu có sợ gì y, chừng nào thì sẽ tỉ võ?
Đoàn Dự vốn chỉ dụng kế hoãn binh, đâu ngờ y lại muốn tỉ võ thực, còn đang trù trừ, bỗng nghe từ xa vẳng đến một hồi còi sắt lanh lảnh, vang dậy cả mấy ngọn núi. Tiếng còi đó hồi lâu không dứt, người thổi còi dường như khí lực trong ngực vô cùng vô tận, không phải lấy hơi. Những người đang ở trên đỉnh núi nghe tiếng còi thoạt đầu thấy chát chúa như đâm vào tai nhưng càng lúc càng kinh hãi, ai nấy ngạc nhiên.
Nam Hải Ngạc Thần vỗ vỗ vào sau ót mình, kêu lên:
- Lão đại gọi ta, ta không có thời giờ nói chuyện với ngươi nữa. Sư phụ ngươi chừng nào tỉ võ với ta? Ở đâu? Nói mau, nói mau!
Đoàn Dự lập cập nói:
- Cái đó ... cái đó phải đợi tôi gặp sư phụ rồi mới đính ước được. Nhưng ông đi khỏi rồi bọn người này lập tức giết chúng tôi ngay, tôi làm sao ... làm sao mà quay về báo cho sư phụ tôi được?
Nói xong giơ ta chỉ về phía bọn Thụy bà bà. Nam Hải Ngạc Thần không thèm quay đầu, tay trái vung ra chộp luôn vào ngực hán tử sử kiếm, thân hình nghiêng qua bên trái, năm ngón tay phải nắm luôn đầu y, tay trái vặn qua bên phải, tay phải vặn qua bên trái, hai bàn tay ngược chiều nhau, nghe lốp cốp một tiếng đã bẻ gãy cổ người đó rồi. Người đó đầu quay ngược về sau lưng, cái đầu nhũn ra ngoẹo xuống, tay phải rút kiếm ra mới được nửa chừng, tuy ra tay nhanh thật nhưng chưa ra khỏi bao thì đã chết tốt.
Hán tử đó khi đấu với Mộc Uyển Thanh thân pháp nhanh nhẹn, từng vung kiếm gạt được mũi tên độc của nàng bắn gần nhưng Nam Hải Ngạc Thần bẻ cổ nhanh như chớp không còn thi triển gì được chút công phu nào, người bên ngoài ai nấy đều sợ đến mất cả hồn vía. Nam Hải Ngạc Thần thuận tay hất ra vứt xác y sang một bên. Ba người thủ hạ của Thụy bà bà gầm lên một tiếng, xông lên. Nam Hải Ngạc Thần chân phải đá luôn ba cái, ba đại hán đó bay vụt lên rơi xuống vực sâu, tiếng kêu thảm khốc vọng lên vang qua vọng lại các dãy núi, Đoàn Dự nghe mà nổi da gà. Bọn


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:46 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
...
Đột nhiên tiếng còi sắt lại nổi lên, kỳ này tít tít, tít tít tiếng ngắn nhưng lại liên tiếp không ngừng. Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:
- Đến đây! Đến ngay đây! Cái con bà nó, làm gì mà giục gấp thế.
Y quay sang Đoàn Dự:
- Ngươi ngoan ngoãn ngồi đây chờ, đừng chạy đâu nhé.
Y hấp tấp chạy ra nhảy xuống bờ vực. Đoàn Dự nửa mừng nửa lo: “Y nhảy như thế không chết hay sao?”. Chàng chạy tới bên bờ vực nhìn xuống thấy y đang nhảy nhót từ trên rơi xuống, mỗi lần rơi chừng vài trượng lại giơ tay ấn vào vách một cái, thân hình vọt lên, rồi lại rơi xuống chẳng mấy chốc đã lẫn vào trong đám mây trắng lững lờ trong sơn cốc.
Đoàn Dự le lưỡi, quay lại bên cạnh Mộc Uyển Thanh, cười nói:
- Cũng may cô nương nhanh trí, lừa được tên đại ác nhân.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Lừa y cái gì?
Đoàn Dự đáp:
- Cái mà ... cô nương nói là ai là người đầu tiên thấy mặt thì sẽ ... thì sẽ ...
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Ai bảo lừa? Tôi đã từng lập độc thệ, sao lại không tính? Từ nay trở đi, anh là chồng tôi. Thế nhưng tôi không cho anh bái gã ác nhân đó làm thầy để học cái trò vặn cổ người khác.
Đoàn Dự sững sờ nói:
- Cái đó là vì nguy cấp phải đánh lừa tên ác nhân, đâu có thể nào coi là thật được? Tôi làm sao có thể làm chồng ... làm chồng ... cô nương.
Mộc Uyển Thanh vịn vào vách đá, lẩy bẩy đứng lên nói:
- Cái gì? Anh không muốn lấy tôi ư? Anh định ruồng rẫy tôi, phải không nào?
Đoàn Dự thấy nàng giận dữ, vội đáp:
- Cô nương thân mình mới quan trọng, câu nói đùa đó việc gì phải để trong lòng?
Mộc Uyển Thanh tiến lên một bước, nghe bốp một tiếng đánh cho chàng một cái tát thật đau nhưng chân đã khuỵu xuống, đứng không vững gục ngay vào trong lòng chàng. Đoàn Dự vội vàng đưa tay ra đỡ.
Mộc Uyển Thanh bị chàng ôm vào lòng, nghĩ đến từ nay đây là chồng mình không khỏi nóng bừng, nộ khí tiêu tan nói:
- Mau bỏ tôi ra.
Đoàn Dự đỡ Mộc Uyển Thanh ngồi dậy để nàng tựa lưng vào vách đá, nghĩ thầm: “Tính tình nàng vốn dĩ thật là kỳ lạ, sau khi bị thương rồi e sẽ làm chuyện lăng nhăng, chi bằng mình cứ chiều ý nàng ta, nàng nói gì, mình cứ đồng ý là được. Cái quẻ “khốn” này có nói “hữu ngôn bất thân ” đấy mà! Nếu đã gặp phải quẻ “khốn”, thì thôi cũng đành nói chẳng ai nghe. Nói gì chăng nữa, thế là mình sẽ thành đồ đệ của đại ác nhân, trượng phu của ác cô nương, Đoàn Dự từ nay thành ra tiểu ác nhân mất rồi!”.
Chàng nghĩ đến đó không khỏi cười thầm nên dịu giọng an ủi nàng:
- Thôi cô đừng giận, để tôi đi kiếm cái gì cho cô ăn.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Trên mỏm núi này trơ trụi, làm gì có đồ ăn? Cũng may bọn kia sợ quá chạy mất rồi, mình ngồi nghỉ một lát cho có sức rồi thiếp sẽ cõng chàng hạ sơn.
Đoàn Dự xua tay liên tiếp nói:
- Cái đó ... cái đó ... không thể được đâu. Cô đi một mình còn chưa xong làm sao cõng tôi cho được?
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chàng thà chết chứ không nỡ phụ em. Lang quân, Mộc Uyển Thanh này tuy là đứa con gái giết người không chớp mắt nhưng cũng nguyện hi sinh tính mạng cho chồng.
Nàng nói câu đó ra với vẻ cực kỳ kiên quyết. Đoàn Dự nói:
- Đa tạ cô nương, cô cứ nghỉ ngơi đi đã rồi hãy tính. Thế từ nay trở đi cô đừng đeo khăn che mặt nữa, có được không nào?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Chàng bảo thiếp đừng đeo, thiếp không đeo nữa.
Nói rồi nàng cởi khăn che mặt ra. Đoàn Dự thấy dáng dấp xinh tươi của nàng, lại nhìn ngơ ngẩn, đột nhiên bụng đau kịch liệt, kêu lên “Ối chao!” một tiếng. Cơn đau đó chẳng khác nào một con dao nhỏ khuấy động trong người, cắt ruột ra từng khúc. Đoàn Dự hai tay ôm bụng, trên trán từng giọt mồ hôi to bằng hạt đậu tươm ra. Mộc Uyển Thanh kinh hoảng hỏi:
- Chàng ... chàng sao thế?
Đoàn Dự rên lên một tiếng nói:
- Cái ... cái món đoạn trường tán ... đoạn trường tán ...
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chao ôi! Chàng chưa uống thuốc giải hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ta có uống rồi.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hay là phân lượng chưa đủ?
Nàng lấy trong túi chàng cái bình sứ, lấy giải dược ra cho Đoàn Dự uống, nhưng thấy chàng đau đến chết đi sống lại nên đỡ chàng ngồi bên cạnh mình, an ủi:
- Bây giờ ra sao?
Đoàn Dự đau đến trước mắt tối sầm, rên rỉ nói:
- Càng lúc càng đau ...càng đau. Hay là thuốc này là thuốc giả ...
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Gã Tư Không Huyền đưa thuốc giả hại người, bọn mình sẽ tới giết sạch Thần Nông Bang không còn một mống.
Đoàn Dự nói:
- Chúng mình ... chúng mình cũng cho họ ... thuốc giả. Tư Không Huyền ăn miếng trả miếng, cũng đừng ... đừng trách y làm gì.
Mộc Uyển Thanh nổi cáu:
- Sao lại đừng trách y là sao? Mình cho họ thuốc giả thì không sao, sao chúng lại dám đưa cho mình thuốc giả?
Nàng lấy tay áo chùi mồ hôi cho chồng, thấy chàng mặt tái mét, trong lòng không khỏi xót xa, nước mắt lã chã, nghẹn ngào nói:
- Chàng ... chàng đừng chết như thế này.
Nàng lấy má mình kề lên má tình lang, run run nói:
- Lang ... lang quân, chàng đừng chết.
Xưa nay Đoàn Dự chưa từng thân mật với một cô gái nào như thế này, nửa thân trên nằm trong lòng nàng, má kề má, tai nghe những lời dịu dàng “lang quân, lang quân”, mũi ngửi thấy mùi hương nồng nàn khiến cho hồn vía không khỏi lâng lâng. Ngay lúc đó, cơn đau trong bụng dần dần bớt xuống.
Thì ra thuốc của Tư Không Huyền đưa cho nào có phải là thuốc giả, có điều đoạn trường tán là một loại thuốc độc cực kỳ bá đạo, lúc này đã gần kỳ phát tác, tuy uống thuốc giải chất độc dần dần tiêu trừ nhưng trong bụng sẽ phải đau một trận kịch liệt. Những triệu chứng đó Tư Không Huyền biết cả nhưng lúc đó không dám nói ra e rằng thánh sứ của Linh Thứu Cung nổi giận.
Mộc Uyển Thanh không nghe chàng rên rỉ nữa hỏi:
- Bây giờ có đỡ đau chưa?
Đoàn Dự đáp:
- Đỡ nhiều rồi, có điều ... có điều ...
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Có điều làm sao?
Đoàn Dự đáp:
- Có điều nếu em rời xa anh, e rằng lại nổi cơn đau trở lại.
Mộc Uyển Thanh mặt đỏ lên, đẩy chàng ra hờn dỗi nói:
- Hóa ra là chàng chỉ giả vờ thôi!
Đoàn Dự bấy giờ thẹn chín người, không biết trốn đi đâu, bỗng trong bụng lại nổi cơn đau, nhịn không nổi phải rên lên một tiếng. Mộc Uyển Thanh cầm tay chàng, nói:
- Lang quân, nếu như chàng chết đi, thiếp cũng không muốn sống nữa. Hai đứa mình cùng xuống cõi âm tào địa phủ, lại kết thành vợ chồng.
Đoàn Dự không muốn nàng phải vì mình mà tuẫn tình, nói:
- Đừng! đừng! Nàng phải báo thù cho ta, rồi mỗi năm đến quét phần mộ. Ta muốn nàng quét mộ cho ta ba mươi năm, bốn mươi năm lúc đó chết mới nhắm mắt được.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chàng quả là lạ kỳ, người đã chết rồi còn biết gì nữa đâu? Thiếp đến tảo mộ thì chàng được gì nào?
Đoàn Dự đáp:
- Thế thì nàng chết theo ta cũng có được gì đâu. Thôi, để ta nói cho nàng nghe, nàng xinh đẹp như thế, nếu như mỗi năm đến quét mộ ta một lần, ta ở dưới đất có biết, được nhìn thấy nàng một lần cũng vui lòng. Còn như nàng chết theo ta, cả hai đều thành xương khô, chẳng khó coi lắm sao?
Mộc Uyển Thanh nghe Đoàn Dự ca tụng nhan sắc mình, trong lòng hoan hỉ nhưng lại nghĩ đến, hôm nay mình đem chung thân đại sự gửi gấm cho chàng, nhưng chỉ chốc lát là người tình sẽ chết, không khỏi bùi ngùi nước mắt tuôn rơi.
Đoàn Dự giơ tay ôm choàng vòng eo thon của Mộc Uyển Thanh thấy nàng mềm dịu tưởng như không có xương, trong lòng chợt động, cúi đầu hôn lên môi nàng một cái. Chàng lần đầu trong đời hôn một người con gái nên không dám hôn lâu, ngửa đầu về sau, nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng mà ngơ ngơ ngẩn ngẩn, thở dài:
- Tiếc thay mệnh anh không được lâu, khuôn mặt mỹ lệ của em, chẳng mấy chốc sẽ không còn bao giờ thấy được nữa.
Mộc Uyển Thanh được chàng hôn một cái, tim đập thình thịch, má ửng hồng trông thật là kiều diễm, khuôn mặt vốn không một chút máu nay thêm ba phần xinh tươi nói:
- Chàng là người con trai đầu tiên trên thế gian này nhìn thấy mặt thiếp, sau khi chàng chết rồi, thiếp sẽ rạch mặt để không còn một người đàn ông nào khác nhìn được khuôn mặt thật của thiếp nữa.
Đoàn Dự toan lấy lời ngăn lại nhưng không hiểu sao, trong lòng nổi lên một chút ghen tương, quả không muốn đàn ông con trai được nhìn dung nhan diễm lệ của nàng, lời khuyên ra đến cửa miệng nhưng không sao nói thành lời chỉ hỏi:
- Sao năm xưa nàng lại lập lời thề độc như thế? Lời thề đó tuy quái lạ thật nhưng ... nhưng cũng có chỗ hay.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Chàng đã là lang quân của thiếp rồi, có nói cho chàng hay cũng không sao. Thiếp vốn là một cô gái mồ côi không cha không mẹ, vừa sinh ra bị người ta bỏ ở trong rừng hoang, may được sư phụ cứu thoát. Sư phụ thiếp hết sức khổ sở mới nuôi thiếp khôn lớn, dạy thiếp võ nghệ. Sư phụ thiếp bảo rằng con trai trên đời này đều là kẻ phụ tâm, nếu như thấy được khuôn mặt thiếp thể nào cũng trăm phương nghìn kế dẫn dụ cho mình sẩy chân, thành thử từ khi thiếp mười bốn tuổi đã bắt thiếp che mặt lại rồi. Mười tám năm qua thiếp chỉ cùng sư phụ ở nơi thâm sơn cùng cốc, vốn dĩ ...
Đoàn Dự xen vào:
- Ồ, thì ra em mười tám tuổi, kém anh một tuổi.
Mộc Uyển Thanh gật đầu nói tiếp:
- Mùa xuân năm nay tại núi em ở có một người đến, là do sư muội của sư phụ Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo sai mang thư ...
Đoàn Dự lại chen vào:
- Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo? Đó chẳng phải là mẹ của Chung Linh hay sao?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng đó! Bà ta là sư thúc của em.
Đột nhiên mặt nàng sầm xuống nói:
- Em không muốn chàng được nhớ tới con nhãi Chung Linh. Chàng là chồng em, chỉ được nhớ tới một mình em thôi.
Đoàn Dự le lưỡi, nhăn mặt trêu nàng. Mộc Uyển Thanh giận dỗi nói:
- Chàng có nghe không? Em là vợ của chàng, cũng chỉ biết một mình chàng thôi, những người đàn ông khác em coi như heo, như chó, chỉ là súc sinh.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Anh không làm được đâu.
Mộc Uyển Thanh giơ tay toan đánh gay gắt hỏi lại:
- Sao thế?
Đoàn Dự cười:
- Mẹ của anh, rồi sư phụ của em chẳng phải là “đàn bà con gái khác” hay sao? Làm sao anh coi họ là súc sinh được?
Mộc Uyển Thanh ngạc nhiên nhưng rồi gật đầu nói:
- Thế nhưng anh không được nghĩ đến con bé Chung Linh đâu nhé.
Đoàn Dự nói:
- Anh nào có nhớ gì tới cô ta đâu, chẳng qua em đề cập đến Chung phu nhân nên anh mới nhớ đến Chung Linh. Thế lá thư gửi cho sư phụ em viết những gì?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Em cũng không biết nữa. Sư phụ coi xong lá thư rồi, có vẻ bực tức lắm, xé tan lá thư đó ra, nói với người đưa thư: “Ta biết cả rồi, ngươi về đi!”. Người đó đi rồi, sư phụ khóc mấy ngày liền, cơm không ăn, em khuyên bà chớ nên phiền não, bà cũng chẳng nghe, cũng không nói vì nguyên do gì, chỉ nói có hai người đàn bà đối với bà ta chẳng ra gì. Em nói: “Sư phụ đừng phải giận làm chi. Hai người đàn bà tồi tệ đó làm hại sư phụ, mình kiếm họ giết đi là xong”. Sư phụ nói: “Phải lắm!”. Thế là hai thầy trò em hạ sơn để đi giết hai người đàn bà đốn mạt đó. Sư phụ nói rằng bao lâu nay bà nào có biết, thì ra hai con đàn bà tồi bại đó làm khổ bà ta ra nông nỗi này, cũng may Cam Bảo Bảo cho bà hay, lại chỉ cả nơi chốn của hai người đó.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung phu nhân tưởng như tính tình ngây thơ, yểu điệu ôn nhu, ngờ đâu cũng thật là tâm kế. Cái đó đúng là “mượn dao giết người” rồi. Bà ta chính mình hận hai người kia nhưng lại nhờ sư phụ nàng ra tay giết giết họ”.
Mộc Uyển Thanh kể tiếp:
- Khi hạ sơn, sư phụ bắt em phải thề độc, nếu như có ai trông thấy khuôn mặt em, nếu em không giết y thì phải lấy y làm chồng. Nếu như người đó không bằng lòng lấy em làm vợ, hay lấy em rồi sau lại ra lòng ruồng rẫy, thì em phải chính tay giết kẻ phụ tâm bạc hãnh kia. Nếu em không nghe lời đó, một khi sư phụ hay biết sẽ lập tức tự vẫn. Sư phụ em nói ra rồi là sẽ làm chứ không phải chỉ dọa xuông đâu.
Đoàn Dự trong bụng kinh hãi thầm: “Trên đời này những lời thề độc có đâu lại như thế, lấy mình ra để dọa bao giờ. Sư phụ nàng đem chuyện tự vẫn ra uy hiếp lời thề đó quả là không thể nào vi phạm được”. Mộc Uyển Thanh nói tiếp:
- - Sư phụ em nào có khác gì mẹ ruột em đâu, đối với em ơn nặng tày non, làm sao em không nghe lời bà ta được? Huống chi những lời khuyên của sư phụ em cũng cốt để cho em. Khi đó em không suy nghĩ gì, liền quì xuống lập thệ. Khi hai thầy trò xuống núi liền đi đến Tô Châu tìm giết con mụ tồi bại họ Vương. Thế nhưng bà ta ở một nơi cực kỳ quái lạ, vòng qua vòng lại toàn là sông rạch bờ ao, em và sư phụ giết được một số thủ hạ của con mụ họ Vương tồi bại kia nhưng vẫn không tìm đâu ra chính mụ đó.
Về sau sư phụ em nói rằng: Hai người chia ra hai đường đi tìm, nếu một tháng sau không gặp lại nhau thì quay sang đi về Đại Lý, vì người đàn bà đốn mạt kia ở thành Đại Lý. Ngờ đâu dưới tay mụ họ Vương kia không ít cao thủ, Thụy bà bà và Bình bà bà là hai đầu não của bọn chúng.
Em vì một thân một mình không đánh lại được số đông, vừa đánh vừa chạy về đến Đại Lý, tìm được Cam sư thúc. Bà ấy cho em ở trong trang viện bên ngoài Vạn Kiếp Cốc, nói là đợi sư phụ em tới nơi sẽ cùng đi kiếm người đàn bà đốn mạt ở Đại Lý. Ngờ đâu sư phụ em chưa tới, Thụy bà bà và bọn nô tài kia đã tới rồi. Chuyện về sau ra sao chàng đã biết cả.
Nàng nói tới đây đã mệt, nhắm mắt dưỡng thần một lát rồi nói tiếp:
- Lúc đầu em cũng tưởng chàng cũng giống bao nhiêu đàn ông con trai trong thiên hạ như sư phụ từng nói, đều là một bọn vô tình vô nghĩa, ngờ đâu chàng mượn con Hắc Mai Côi đi rồi, lại còn quay lại báo tin, việc đó quả không phải là dễ. Bọn nô tài kia vây đánh em, chàng không biết võ công vậy mà vẫn có lòng bảo bọc cho em. Em ... em cũng đâu phải là kẻ vô lương tâm, trong lòng tự nhiên cảm kích.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cô kéo lê tôi đằng sau ngựa, lôi qua khe suối, hơi một tí là tát tai, thì ra là bởi trong lòng cảm kích. Đúng đó! Nếu như nàng không cảm kích ắt là đã bắn ta một mũi độc tiễn chết rồi”.
Mộc Uyển Thanh nói tiếp:
- Chàng trị thương cho em, đã nhìn thấy lưng thiếp rồi, em cũng thấy cái mông trần của chàng. Em vẫn thường nghĩ nếu không lấy chàng chắc không xong. Về sau Nam Hải Ngạc Thần ép uổng em, em đành phải để chàng nhìn thấy mặt”.
Nàng nói đến đây quay sang chăm chăm nhìn Đoàn Dự, ánh mắt đầy vẻ thiết tha trìu mến. Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Không lẽ, không lẽ cô nàng phải lòng mình thật sao?”. Chàng nói:
- Em thấy cái mông ... mông trần của anh, cũng đừng để tâm làm gì. Chẳng qua là sự thế bức bách, không có cách nào khác hơn, em không cần phải nhất mực theo lời thề độc đó.
Mộc Uyển Thanh nổi giận, gay gắt nói:
- Tôi đã thề rồi, sao lại thay đổi được? Cái mông đít của anh tưởng đẹp lắm hay sao? Xấu ơi là xấu. Nếu anh không bằng lòng lấy tôi thì cứ nói rõ ra đi, tôi sẽ bắn một mũi tên giết anh để khỏi phản bội lời thề.
Đoàn Dự đang toan biện giải, đột nhiên trong bụng lại nổi cơn đau, chàng liền hai tay ôm bụng, lớn tiếng rên rỉ. Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Nói mau, anh chịu hay không chịu lấy tôi làm vợ?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi ... tôi ... bụng tôi đau ... đau quá!
Mộc Uyển Thanh nói:
- Nói trắng ra anh có bằng lòng làm chồng tôi không?
Đoàn Dự nghĩ thầm mình bị đau bụng thế này chắc cũng chẳng còn sống bao lâu, lẽ nào trước khi chết còn làm nàng đau lòng, để nàng suốt đời ôm mối hận nên gật đầu:
- Anh ... anh bằng lòng lấy em làm vợ.
Mộc Uyển Thanh tay đã để lên lò xo cơ quan bắn độc tiễn, nghe chàng nói thế, lập tức vui mừng vô hạn, khuôn mặt kiều diễm bừng lên như đóa hoa xuân vừa hé nụ, tay liền buông cơ quan ra, cười hì hì ôm lấy chàng nói:
- Hảo lang quân, để em xoa bụng cho chàng nhé.
Đoàn Dự đáp:
- Ấy chớ, chớ có thế! Hai đứa mình chưa thành hôn, nam nữ ... nam nữ thụ thụ bất thân ... cái đó ... cái đó không được đâu.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Hứ, thế sao hồi nãy anh hôn em?
Đoàn Dự đáp:
- Tại anh thấy em đẹp quá, nhịn không nổi. Thôi anh xin lỗi.
Mộc Uyển Thanh cười nói:
- Anh đâu cần phải xin lỗi. Anh hôn em, em thật là sung sướng.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “ Nàng tính tình quả là ngây thơ thật còn Chung phu nhân thì giả vờ. Chung Linh tuổi còn nhỏ cũng là thật”.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Đúng rồi! Chắc tại chàng đói quá nên đau bụng càng nhiều gấp mấy. Để em đi cắt thịt gã kia cho chàng ăn.
Đoàn Dự hãi quá, quên cả đang đau bụng, kêu toáng lên:
- Thịt người không ăn được, ta thà chết chứ không ăn.
Mộc Uyển Thanh lạ lùng:
- Vì sao mà không ăn được? Khi em ở với sư phụ trong núi, thịt hổ cũng ăn, thịt báo cũng ăn, theo như chàng thì không ăn được hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Thịt hổ báo dĩ nhiên là ăn được, còn thịt người thì không ăn được.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Thế thịt người có chất độc chăng? Em đâu có biết.
Đoàn Dự đáp:
- Không phải có độc nhưng em là người, anh cũng là người, hán tử đó cũng là người. Người không ăn thịt người được.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Sao vậy? Em thấy hổ báo sài lang khi đói nó cũng ăn thịt lẫn nhau.
Đoàn Dự thở dài:
- Thế đó, nếu người ăn thịt người thì có khác gì sài lang?
Mộc Uyển Thanh từ nhỏ ở với sư phụ, chưa ở cùng một người thứ ba nào. Sư phụ nàng tính tình lạ lùng, xưa nay chẳng hề nói chuyện đời cho nàng nghe cho nên đạo đức qui củ của thế gian, lễ nghĩa luật pháp nàng hoàn toàn chẳng biết gì cả bây giờ nghe Đoàn Dự nói "người không ăn thịt người được" chỉ bán tín bán nghi, trợn tròn mắt nhìn chàng, hơi lấy làm lạ lùng.
Đoàn Dự nói:
- Em giết người bừa bãi, cũng là sai đó. Tử viết: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân ”. Em không muốn người khác giết mình, thì cũng đừng giết người khác. Người khác gặp nguy nan khổ sở thì phải ra tay giúp đỡ thế mới đúng là đạo lý làm người.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Thế sao khi em gặp nguy nan khổ sở, có ai ra tay giúp đỡ đâu? Sao em gặp người ta, trừ sư phụ và chàng ra, ai ai cũng chỉ muốn giết em, hại em, ức hiếp em, chẳng ai đối với em tử tế hết? Hổ báo muốn ăn thịt em, cắn em, em giết chúng nó. Người muốn hại em, giết em, em cũng phải giết họ chứ? Có gì khác đâu?
Mấy câu đó khiến Đoàn Dự ứ họng không sao trả lời được, đành nói:
- Thì ra việc đời em chẳng biết gì cả.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chàng không biết võ công, sao cũng xen vào chuyện võ lâm? Em xem ra việc đời chàng cũng biết nhiều hơn em bao nhiêu.
Đoàn Dự gật gù, cười gượng nói:
- Lời đó nghe cũng có lý.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:
- Cái gì mà “Lời đó nghe cũng có lý”? Chàng chưa bái sư, sao đã học được cách nói của thầy rồi.
Đoàn Dự cười nói:
- Nam Hải Ngạc Thần cũng còn biết cái gì có lý, cái gì không, xem ra cũng chưa cực kỳ ác ...
Bỗng nghe Mộc Uyển Thanh “A” một tiềng kinh hoàng, sà vào lòng Đoàn Dự, kêu lên:
- Y ... y lại đến rồi kìa ...
Đoàn Dự quay đầu lại, chỉ thấy bên bờ vực một bóng vàng thấp thoáng, Nam Hải Ngạc Thần đã nhảy lên. Y trông thấy Đoàn Dự, ngoạc mồm ra cười nói:
- Ngươi chưa rập đầu bái sư ta thật không yên bụng chỉ sợ có đứa khốn kiếp mặt dày nào đến thu ngươi làm đồ đệ. Lão đại nói là, trên đời này việc gì cũng “tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương” món gì quí giá còn trong tay thì là của mình, để người ta cướp mất rồi, muốn giựt lại quả không phải dễ. Lời lão đại quả không sai chút nào, ta đánh không lại y, phải nghe lời y. Này, tiểu tử, mau mau khấu đầu bái sư đi thôi.
Đoàn Dự nghĩ gã này tính tình hiếu thắng thích phô trương, ưa nịnh bợ nhưng thua lão đại thì nhận ngay không che dấu, thấy y mắt trái tím bầm, bên khóe miệng cũng rách một đường, chắc là bị lão đại đánh cho, trên đời này còn có người võ công giỏi hơn y, kể cũng lạ, bái sư thì nhất định là không nhưng thôi đành phải cùng y nói hươu nói vượn:
- Có phải lão đại thổi còi gọi ông đến để đánh nhau một trận phải không?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Đúng vậy.
Đoàn Dự nói:
- Chắc là ông phải thắng, lão đại bị ông đánh cho chạy dài, có đúng không?
Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu:
- Không phải, không phải! Võ công y cao hơn ta nhiều. Nhiều năm nay không gặp, ta vẫn tưởng lần này nếu không đánh thắng y để giành được chức lão đại trong Tứ Đại Ác Nhân thì ít ra cũng cùng y đấu một hai trăm hiệp, ngờ đâu chỉ mới vài ba ngọn quyền cước, y đã đánh ta nằm thẳng cẳng không dậy nổi. Thôi không làm lão đại thì làm lão nhị cũng được rồi. Có điều khi ta đá vào hạ bộ y một cái rõ mạnh, y nói: “Nhạc lão tam, chú mày võ công tiến bộ lắm đó”. Lão đại khen ta võ công tiến bộ, lời lão đại quả không sai chút nào.
Đoàn Dự nói:
- Ông là Nhạc lão nhị, đâu phải Nhạc lão tam.
Nam Hải Ngạc Thần mặt lộ vẻ sượng sùng nói:
- Lâu năm không gặp, lão đại buột miệng nói lung tung, chắc tại y quên đó.
Đoàn Dự nói:
- Lời lão đại quả không sai chút nào, lẽ đâu lại gọi nhầm thứ tự sao?
Ngờ đâu câu đó chính là chọc phải tim đen của Nam Hải Ngạc Thần, y rống lên một tiếng, giận dữ nói:
- Ta là lão nhị, không phải lão tam. Ngươi mau quì xuống, hết sức năn nỉ ta thu làm đồ đệ, ta giả vờ không chịu, ngươi cầu tới cầu lui hai ba lần, rập đầu thật mạnh, ta mới giả vờ miễn cưỡng bằng lòng, thực ra trong lòng mười phần hoan hỉ. Cái đó là qui củ của phái Nam Hải ta, về sau ngươi thu đệ tử cũng phải như thế, đừng có quên nghe chưa?
Đoàn Dự hỏi:
- Cái qui củ đó có thay đổi được không?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Đương nhiên là không.
Đoàn Dự hỏi:
- Nếu như thay đổi thì ông là đồ rùa đen, là quân đê tiện chứ gì?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Đúng thế!
Đoàn Dự nói:
- Qui củ đó quả thật là hay, nhất định không thể nào sửa đổi, thay đổi thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.
Nam Hải Ngạc Thần đáp;
- Hay lắm, ngươi quì xuống khấu đầu xin ta đi.
Đoàn Dự lắc đầu:
- Tôi không quì xuống khấu đầu, cũng chẳng năn nỉ xin ông thu làm đồ đệ.
Nam Hải Ngạc Thần giận quá, khuôn mặt y biến thành vàng khè, ngoác cái mồm rộng đầy răng nhọn ra, tưởng chừng toan xông lên ăn thịt người, kêu lên:
- Ngươi không rập đầu cầu ta ư?
Đoàn Dự đáp:
- Không rập đầu, không năn nỉ.
Nam Hải Ngạc Thần tiến lên một bước, quát lớn:
- Ta vặn cổ ngươi.
Đoàn Dự đáp:
- Có giỏi cứ vặn cổ đi, tôi không có sức chống trả.
Nam Hải Ngạc Thần vươn tay trái ra, chộp ngay ngực chàng, tay phải nắm ngay đỉnh đầu. Đoàn Dự nói:
- Tôi không có sức chống trả, ông giết tôi thì ông là gì?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.
Đoàn Dự đáp:
- Đúng đó.
Nam Hải Ngạc Thần không biết tính sao, nghĩ thầm: “Ta quả không giết được y mà y cũng không chịu cầu xin ta, khó thực!”. Y chợt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh vẻ mặt lo lắng, chợt nảy ra một ý, nhảy vọt tới, chộp cổ cô ta giơ lên cao, nhảy lùi lại đến sát bên bờ vách, chân trái co lên, chân phải sử chiêu Kim Kê Độc Lập, nơi đỉnh cao chót vót ấy đứng chông chênh lảo đảo, tưởng chừng cùng Mộc Uyển Thanh sắp ngã xuống vực đến nơi.
Đoàn Dự có biết đâu y đùa rỡn, đem võ công ra hí lộng, e sợ làm hại đến tính mạng Mộc Uyển Thanh kinh hoảng kêu lên:
- Cẩn thận, quay lại đây ngay! Ông ... ông mau thả nàng xuống.
Nam Hải Ngạc Thần cười gằn nói:
- Tiểu tử, ngươi giống hệt ta, ta không thể nào không thu ngươi làm đồ đệ. Ta phải lên trên đỉnh núi bên kia đợi mấy người nữa ...
Vừa nói y vừa chỉ lên một ngọn núi cao ở xa xa, tiếp tục:
- Ta không hơi sức đâu ở đây cù nhầy với ngươi. Ngươi mau đến đó xin ta thu ngươi làm học trò thì ta sẽ tha mạng cho mụ vợ của ngươi. Còn không ư, hừ hừ, chỉ lốp cốp lốp cốp, rắc một tiếng là xong!
Y giơ tay giả thế bẻ cổ Mộc Uyển Thanh, đột nhiên quay mình nhảy ra, chưởng phải ấn vào bờ đá một cái, cùng Mộc Uyển Thanh liền tuột xuống.
Đoàn Dự kêu lên:
- Này, này! Cẩn thận.
Chàng chạy đến bên bờ vực đã thấy y cùng Mộc Uyển Thanh tuột xuống mấy chục trượng rồi. Đoàn Dự đột nhiên ngồi thụp xuống, cơn đau bụng lại nổi lên.
Mộc Uyển Thanh bị Nam Hải Ngạc Thần nắm sau lưng, từ trên đỉnh non cao tụt xuống, mỗi khi hai người tuột quá nhanh y lại giơ tay trái đẩy vào vách đá, hai người liền rơi chậm lại, hẳn là y dùng chưởng lực để làm giảm sức rơi. Lúc này Mộc Uyển Thanh không còn hơi sức nào mà phản kháng, dẫu có sức cũng không dám giãy giụa khi đang ở giữa lưng trời. Sau cùng nàng đành nhắm nghiền mắt lại, một hồi sau thấy người tưng lên một cái, biết là đã tới đất rồi.
Nam Hải Ngạc Thần không trì hoãn chút nào, vừa xuống là chạy ngay đi. Y thân hình chỉ tầm thước, còn Mộc Uyển Thanh so với con gái thuộc loại cao lớn, nếu như hai người đứng song song cũng chỉ ngang nhau, vậy mà Nam Hải Ngạc Thần xách nàng lên chẳng khác gì cầm một đứa trẻ con không tốn chút hơi sức nào.
Y nhấp nhô trong khu vực đá lởm chởm, hơi nước mông lung, chỉ giây lát đã qua khỏi lòng chảo đến bờ bên kia. Y nói lớn:
- Ngươi là vợ của học trò ta nên ta tạm thời không làm khó. Nếu thằng nhãi đó không chịu bái ta làm thầy, hà hà, lúc đó nó đâu có phải là học trò ta, ngươi cũng đâu có phải là vợ của học trò ta. Nam Hải Ngạc Thần thấy con gái đẹp, xưa nay tiên gian hậu sát, không nể nang ai bao giờ.
Mộc Uyển Thanh nghe thế không khỏi lạnh người, nói:
- Chồng tôi không biết võ công, ở trên đỉnh núi thế làm sao xuống được? Chàng lo cho tôi thể nào cũng sống chết đi xuống để xin làm học trò ông, nếu như sẩy chân, ngã xuống thì tan xương nát thịt, khi đó ông cũng chẳng còn học trò nữa. Một nhân tài giống hệt ông như thế ông có tìm cả đời cũng không ra.
Nam Hải Ngạc Thần gật đầu nói:
- Lời đó kể cũng có lý. Ta quên không nghĩ tới tiểu tử đó không biết cách xuống núi.
Y đột nhiên hú lên một tiếng dài. Chẳng mấy chốc, từ bên sườn núi chạy ra hai hán tử mặc áo vàng, khom lưng hành lễ. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng ra lệnh:
- Lên trên đỉnh vách núi bên kia kiếm một tiểu tử. Nếu y bằng lòng bái ta làm thầy thì lập tức cõng y qua đây gặp ta. Còn nếu y không chịu thì ở đó canh chừng nhưng đừng làm hại đến y. Gã đó là người lão tử muốn thu làm học trò, bằng cách nào cũng đừng để y bái người khác làm thầy, nghe chưa?
Hai hán tử đó đáp lời:
- Vâng!
Nam Hải Ngạc Thần dặn bảo xong rồi lại nhắc Mộc Uyển Thanh lên chạy tiếp. Mộc Uyển Thanh trong bụng hơi yên tâm, biết rằng trước khi Đoàn Dự tới đây thì mình chưa có gì nguy hiểm, nhưng có điều lang quân tính tình ương ngạnh, bảo chàng phải bái gã hung tàn này làm thầy, chắc hẳn thà chết chứ không chịu nên nghĩ thầm: “Chàng đối với ta dường như có chiều bụng dạ hiệp nghĩa nhưng lại chẳng có cái quyến luyến phu thê, chắc gì đã vì ta mà chịu làm môn đồ ác nhân này. Ôi, chỉ mong chàng được bình yên không suy suyển đừng nhảy từ trên đỉnh cao xuống là được rồi. Không biết chàng lúc này có còn đau bụng nữa không?”.
Nàng suy nghĩ miên man, Nam Hải Ngạc Thần đã xách nàng lên tận trên đỉnh núi. Nội lực gã này quả là sung mãn lại dài hơi, lên rồi vẫn không nghỉ ngơi lại xuống tiếp, cứ liên tiếp như thế qua bốn lần đến ngọn núi cao nhất trong cả quần sơn.
Y bỏ Mộc Uyển Thanh xuống, vạch quần ra đứng đái luôn vào một gốc cây lớn. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm gã này quả là thô bỉ vô lễ, vội vàng đi ra nơi khác, lấy chiếc khăn che mặt đeo lên. Nàng tự biết mình dung nhan xinh đẹp, nếu để y nhìn lâu e rằng thú tính nổi lên, lúc đó sẽ không còn coi tình thầy trò vào đâu nữa, sau đó ngồi xuống bên cạnh một tảng đá nhắm mắt dưỡng thần.
Nam Hải Ngạc Thần tiểu tiện xong kéo quần lên, đi đến trước mặt nàng nói:
- Ngươi đeo khăn che lên thế là tốt lắm, nếu để ta nhìn một hồi nữa, chỉ sợ không xong đâu.
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ngươi cũng còn đôi phần tự biết mình”. Nam Hải Ngạc Thần lại tiếp:
- Sao ngươi không nói gì cả? Lại còn nhắm mắt giả vờ ngủ là sao? Ngươi khinh ta phải không?
Mộc Uyển Thanh lắc đầu, mở mắt ra nói:
- Nhạc lão tiền bối, tên ông là gì? Mai này chồng tôi làm học trò ông, tôi cũng cần phải biết tên ông chứ!
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Ta tên là Nhạc ... Nhạc ... cái con bà nó, cái tên ta là do bố ta đặt, tên nghe không hay chút nào. Ông già ta chẳng ra cái đếch gì, đúng là quân đê tiện, vô tích sự.
Mộc Uyển Thanh bật cười thành tiếng, nghĩ thầm: “Nếu cha ngươi là quân đê tiện, vô tích sự thì ngươi là loại gì? Đến bố đẻ ra mình còn chửi, quả thật không đáng làm người”. Nàng chợt nghĩ tới mình cũng chẳng biết cha là ai, chỉ nghe sư phụ nói ông ta là một người bội bạc, e rằng cũng chẳng hơn Nam Hải Ngạc Thần bao nhiêu, trong lòng không khỏi se lại.
Chỉ thấy y chạy qua bên đông vài bước rồi lại chạy qua bên tây vài bước, không lúc nào ngồi yên, Mộc Uyển Thanh thấy thế mà trong lòng bực rọc nên đành nhắm mắt lại. Tuy nhiên tiếng bước chân rầm rập không ngừng, nàng bèn nói:
- Ông lên núi xuống núi không thấy mệt ư ? Sao không ngồi xuống nghỉ một chút?
Nam Hải Ngạc Thần quát lên:
- Ngươi đừng có lắm chuyện, lão tử không thích ngồi.
Mộc Uyển Thanh chỉ đành mặc kệ y, lại nghĩ đến Đoàn Dự, trong lòng nửa thấy êm đềm nửa thấy xót xa.
Đột nhiên từ xa xa văng vẳng tiếng khóc mong manh như tơ, thanh âm thật là ảo não, lúc có lúc không dường như có tiếng đàn bà đang rền rĩ:
- Ới con ơi là con ơi! Con của mẹ ơi!
Nam Hải Ngạc Thần hừ một tiếng, nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất nói:
- Khóc đám ma đến rồi!
Y cao giọng kêu lên:
- Ai chết mà khóc đó? Lão tử ở đây đợi lâu rồi.
Tiếng người kia lại văng vẳng:
- Con ơi là con! Mẹ nhớ mẹ thương con lắm con ơi!
Mộc Uyển Thanh lạ lùng hỏi:
- Phải mẹ ông đến không?
Nam Hải Ngạc Thần bực bội đáp:
- Cái gì mà mẹ ta? Chỉ nói tầm xàm! Con mụ đó là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương, một trong Tứ Đại Ác Nhân. Chữ “ác” của mụ đứng thứ hai, thể nào cũng có ngày cái ngoại hiệu Hung Thần Ác Sát của ta sẽ đổi với mụ ấy mới xong.
Mộc Uyển Thanh lập tức hiểu ra: “Thì ra chữ “ác” trong ngoại hiệu ở chữ thứ hai, thì đó là thiên hạ đệ nhị ác nhân”. Nàng bèn hỏi:
- Thế đệ nhất ác nhân thì ngoại hiệu là gì? Đệ tứ ác nhân tên chi?
Nam Hải Ngạc Thần mặt hầm hầm nói:
- Ngươi hỏi ít đi một câu có được không? Lão tử không muốn nói chuyện với ngươi.
Đột nhiên tiếng một người đàn bà buồn rầu nói:
- Lão đại tên là Ác Quán Mãn Doanh còn lão tứ gọi là Cùng Hung Cực Ác.
Mộc Uyển Thanh nào ngờ Diệp Nhị Nương vừa nói đã đến nơi, lên trên núi không một tiếng động, không khỏi giật mình kinh hãi vội quay sang nhìn bà ta. Bà ta mặt một chiếc áo dài màu xanh nhạt, tóc để xõa, độ chừng trên dưới bốn mươi, tướng mạo cũng khá xinh đẹp nhưng hai bên má mỗi bên có ba vết rạch dài, từ mắt chạy xuống tận cằm, dường như bị người ta dùng trảo cào trên mặt. Bà ta bế trên tay một đứa bé trai chừng hai ba tuổi, mập mạp xinh xắn trông thật dễ thương.
Mộc Uyển Thanh vẫn tưởng Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương được xếp trên Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần ắt phải là người hung dữ đáng sợ, ngờ đâu trông lại có chút duyên dáng, không khỏi liếc trộm bà ta mấy lần. Diệp Nhị Nương nhìn nàng mỉm cười, Mộc Uyển Thanh không khỏi run lên, thấy nét mặt bà ta ẩn tàng một nỗi sầu khổ vô cùng vô tận, đau thương không để đâu cho hết khiến nàng dường như rơi lệ, vội vàng quay đầu sang chỗ khác, không dám nhìn lâu.
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Tam muội, lão đại, lão tứ sao chưa thấy đến?
Diệp Nhị Nương buồn bã trả lời:
- Trông ngươi mắt bầm mũi sưng thế kia, chắc là bị lão đại đánh cho một trận rồi, sao còn mặt dày mày dạn giả vờ hỏi lão đại sao chưa tới. Ngươi rõ ràng là lão tam, vậy mà nhất định đòi ngồi trên đầu ta là sao? Ngươi còn gọi ta một câu tam muội, người chị này không nể nang gì nữa đâu.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Không nể nang thì đã sao nào? Bộ bà muốn đánh nhau chăng?
Diệp Nhị Nương cười khẩy nói:
- Nếu ngươi muốn đánh, ta lúc nào cũng sẵn lòng hầu tiếp.
Đứa trẻ bà ta đang bồng trên tay bỗng khóc ré lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ đâu rồi?
Diệp Nhị Nương vỗ vỗ nựng đứa trẻ:
- Con ngoan ơi, ta là mẹ con đây!
Đứa trẻ càng khóc to hơn, dãy dụa:
- Bé muốn mẹ cơ! Bé muốn mẹ cơ! Bà không phải mẹ!
Diệp Nhị Nương nhè nhẹ đong đưa, cất tiếng ru:
Ạ ời! Ày ơi!
Bồng bồng mẹ bế con sang,
Qua thăm bà ngoại, ạ ơi,
Qua thăm bà ngoại, cháu ngoan của bà ...
Đứa bé càng khóc to hơn. Nam Hải Ngạc Thần nghe tiếng khóc bực mình, quát lớn:
- Mụ ru cái gì? Muốn giết nó thì giết phứt đi cho rồi!
Diệp Nhị Nương cười tít mắt lại, vẫn tiếp tục ru:
Ạ ời! Ạ ơi!
Bà cho con bánh con quà,
Nếu ăn không hết, ạ ơi!
Nếu ăn không hết thì ... để về nhà ăn thêm...
Mộc Uyển Thanh nghe thế rùng cả mình, càng nghĩ càng ghê. Lời của Nam Hải Ngạc Thần cho biết Diệp Nhị Nương định vờn đứa bé cho chết, trong lòng không khỏi phẫn nộ, lại vừa sợ hãi, thấy Diệp Nhị Nương vẫn tiếp tục ru:
Con ơi con ngủ cho êm,
Mẹ ru con ngủ mẹ ôm trong lòng.
Ạ ời! Ạ ơi!
Tiếng ru của bà ta đầy vẻ trìu mến khiến nàng chưa hẳn tin lời Nam Hải Ngạc Thần là thật. Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Mỗi ngày mụ phải giết một đứa trẻ con, vậy mà còn làm bộ làm tịch, thật không biết xấu hổ.
Diệp Nhị Nương nhỏ nhẹ nói:
- Ngươi đừng có lớn tiếng la lối, làm cục cưng của ta nó sợ.
Nam Hải Ngạc Thần vùng lên, vươn tay chộp lấy đứa bé định quật cho chết, để nó khỏi khóc lóc ầm ỹ làm y bực mình. Ngờ đâu y ra tay cực nhanh, Diệp Nhị Nương lại còn nhanh hơn, thân hình chỉ xoay nhẹ như một bóng ma, Nam Hải Ngạc Thần đã chộp hụt. Diệp Nhị Nương bải hải kêu lên:
- Ối chà! Tam đệ, ngươi vô cố sao lại hiếp đáp con ta là sao?
Nam Hải Ngạc Thần quát lên:
- Ta muốn quật chết thằng tiểu quỉ đó.
Diệp Nhị Nương dịu dàng nựng đứa bé:
- Cục cưng ơi, có mẹ đây, đừng sợ tam thúc xấu xí kia, y đánh không lại mẹ đâu. Con trắng trẻo mập mạp thế này, càng để lâu càng thích, mẹ đùa với con đến chiều lúc đó mới giết con, còn bây giờ vẫn còn chưa rứt ra được.
Mộc Uyển Thanh nghe câu nói đó tưởng chừng muốn mửa, nghĩ thầm: “Quả đúng là Diệp Nhị Nương xếp hạng cao hơn Nam Hải Ngạc Thần. Nhạc lão tao chỉ mới là Hung Thần Ác Sát chưa thể qua mặt mụ ta được”.
Nam Hải Ngạc Thần chộp một cái không trúng, biết mình có động thủ tiếp cũng vô dụng, không ngừng đi qua đi lại, lẩm bẩm chửi bới, đột nhiên quát lớn:
- Mau qua đây! Thằng bé đó đâu? Sao không đem nó qua đây bái ta làm thầy?
Hai gã áo vàng từ đằng sau tảng đá khép nép đi ra, đứng tránh ở xa xa, chính là hai người lúc trước Nam Hải Ngạc Thần sai đi qua bên kia đón Đoàn Dự. Một người ấp a ấp úng đáp:
- Tiểu ... tiểu nhân lên đến trên đỉnh núi, không ... không thấy có ai. Đi tìm ... đi tìm khắp nơi vẫn không thấy.
Mộc Uyển Thanh kinh hoảng: “Không lẽ chàng ... chàng bị ngã xuống chết rồi”. Nam Hải Ngạc Thần quát lên:
- Hay là chúng bay đến trễ quá nên tên tiểu tử đó vô phúc, rơi xuống vực chết rồi?
Hai người đó không dám đến gần, một gã lập cập nói:
- Tiểu nhân hai người ... hai người có kiếm khắp nơi dưới sơn cốc nhưng không thấy thi thể.
Nam Hải Ngạc Thần quát lên:
- Thế thì không lẽ nó bay lên trời hay sao? Hai đứa chúng bay dám nói láo ta hả?
Hai người kia vội vàng quì xuống, rập đầu kêu bình bình bình, van xin tha mạng. Chỉ nghe vù vù, Nam Hải Ngạc Thần đã ném hai cục đá qua trúng hai gã này chết ngay lập tức.
Hai người đó không kiếm ra Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh vốn đã bực chúng làm không nên chuyện nên khi Nam Hải Ngạc Thần đánh chết nàng cảm thấy thống khoái, trong chớp mắt tâm tư dâng lên dạt dào: “Chàng không có ở trên núi, dưới vực sâu cũng không có xác, thế thì đi đâu? Hay là rơi vào nơi ẩn khuất nên hai gã này tìm không ra. Hay là hai gã đó có thấy thi thể nhưng không dám nói ra?”.
Nàng vốn đã có chủ ý, nếu Đoàn Dự chết rồi, nàng cũng không sống làm chi, huống chi thân mình rơi vào tay Nam Hải Ngạc Thần, nếu không chết ắt phải chịu không biết bao nhiêu dày vò hành hạ. Thế nhưng không thấy xác Đoàn Dự, thì vẫn còn một tia hi vọng, không thể chết một cách hồ đồ.
Nam Hải Ngạc Thần hết sức bực bội, không ngớt chửi bới:
- Lão đại, lão tứ hai con rùa đó sao giờ này chưa tới là sao. Ta không thèm đợi nữa.
Diệp Nhị Nương nói:
- Ngươi dám không đợi lão đại thật chăng?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Lão đại bảo ta nói với ngươi rằng, bọn mình ở trên đỉnh núi này đợi y, đợi cho đủ bảy ngày, nếu sau bảy ngày y không đến, thì tới Vạn Kiếp Cốc của Chung Vạn Cừu đợi y ở đó, chưa gặp thì không được bỏ đi.
Diệp Nhị Nương thản nhiên nói:
- Ta đã bảo ngươi bị lão đại nện cho một trận đích đáng, bây giờ còn chối được hay không?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Ai thèm chối? Ta đánh không lại lão đại là đúng rồi, bị y nện một trận, cũng không sai nhưng làm gì mà đích đáng?
Diệp Nhị Nương nói:
- Thì ra ngươi không bị nện một trận đích đáng ... cục cưng đừng khóc, mẹ thương ... à, thì ra chỉ đánh nhè nhẹ ... cục cưng của mẹ ...
Nam Hải Ngạc Thần hậm hực nói:
- Cũng chẳng phải là đánh nhè nhẹ. Này coi chừng, lão đại muốn đánh bà liệu bà có chạy nổi không?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Ta đâu có mong chức Diệp đại nương, việc gì mà lão đại lại gây sự với ta? Cục cưng ngoan ơi ...
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Bà đừng có gọi con mẹ nó là cục cưng có được không nào?
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Tam đệ đừng có nóng, ngươi có biết là lão tứ hôm qua trên đường gặp kẻ đối đầu, bị một trận xiểng liểng?
Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên hỏi lại:
- Cái gì? Lão tứ gặp phải đối đầu, ai vậy?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Con nhãi kia trông có vẻ như không bằng lòng, chắc nó đang rủa ta sao mỗi ngày lại đùa nghịch chết một đứa nhỏ, ngươi giết nó trước đi rồi ta sẽ kể cho ngươi nghe.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Nó là vợ của học trò ta, nếu ta giết nó thì học trò ta sẽ không chịu bái sư nữa.
Diệp Nhị Nương hỏi:
- Thế học trò ngươi không phải rơi vào sơn cốc chết rồi sao?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Cái đó chưa chắc, nếu ngã xuống chết thì cũng phải còn thi thể. Chắc nó trốn ở đâu một hồi rồi sẽ đến đây lạy lục van xin ta xin làm đồ đệ.
Diệp Nhị Nương cười:
- Thế thì để ta ra tay vậy, cứ bảo học trò ngươi đến kiếm ta là xong. Đôi mắt nó trông đẹp quá, ai trông thấy cũng phải ham, tiếc thay sao ta không được như thế, để ta móc mắt nó trước.
Mộc Uyển Thanh lưng toát mồ hôi lạnh nhưng nghe Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Không được, thôi để ta điểm huyệt cho nó lăn quay ra ngủ một ngày hai đêm là xong.
Y không đợi Diệp Nhị Nương trả lời liền giơ tay tại hông và nơi cạnh sườn điểm luôn hai huyệt. Mộc Uyển Thanh chỉ thấy đầu choáng váng, lập tức bất tỉnh.
Mộc Uyển Thanh thiếp đi không biết bao lâu đến lúc thần trí hơi tỉnh táo lại thấy thân trên lạnh toát, tai nghe tiếng cười khèng khẹc, tuy là tiếng cười nhưng nghe chẳng có gì là vui, thanh âm vừa sắc vừa thô thật là khó chịu. Mộc Uyển Thanh biết rằng nếu mình chỉ cử động một chút đối phương sẽ phát giác ngay, thể nào cũng ra tay thật nghiệt ngã nên tuy tê mỏi nhưng cũng không dám duỗi chân duỗi tay.
Nàng nghe Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Lão tứ, ngươi không việc gì phải khoa trương, tam muội nói ngươi bị đánh tơi tả còn lấp liếm nỗi gì? Thực sự có bao nhiêu kẻ địch vây đánh ngươi thế?
Tiếng người khi the thé, khi ồm ồm kia nói:
- Bảy tên khốn kiếp đánh một mình mỗ, đứa nào đứa nấy đều là hạng cao thủ số một. Bản lãnh ta tuy khá thật nhưng làm sao có thể giết sạch được cả bảy tên.
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Thì ra lão tứ Cùng Hung Cực Ác đã đến rồi”. Nàng rất muốn hé nhìn xem cái gã Cùng Hung Cực Ác này hình dáng thế nào nhưng lại không dám quay đầu lại mở mắt ra. Lại nghe Diệp Nhị Nương nói:
- Lão tứ chỉ khoác lác, đối phương rõ ràng chỉ có hai người, ở đâu ra thêm năm cao thủ nữa đó? Trong thiên hạ cao thủ đâu mà lắm thế?
Lão tứ giận dữ nói:
- Làm sao bà biết, bà có chính mắt trông thấy hay không?
Diệp Nhị Nương mỉm cười nói:
- Nếu ta không chính mắt trông thấy thì làm sao ta biết được? Hai người đó một đứa sử dụng cái cần câu, còn một đứa sử dụng một đôi búa, có đúng không nào? Hì hì, ngươi thêm thắt ra năm người thì những người đó sử dụng binh khí gì?
Lão tứ lớn tiếng nói:
- Lúc đó bà đứng gần bên sao không ra giúp một tay? Bà muốn tôi chết dưới tay người khác mới thỏa lòng phải không?
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc, ai mà chẳng biết khinh công tuyệt diệu? Đánh không lại chẳng lẽ không biết bỏ chạy hay sao?
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Thì ra lão tứ tên là Vân Trung Hạc”. Vân Trung Hạc càng thêm bực tức, tiếng mỗi lúc một to nói:
- Ta lão tứ bị thua dưới tay người khác bộ mụ vẻ vang lắm hay sao? Bọn mình Tứ Đại Ác Nhân lần này tụ hội là do đâu? Đâu phải chỉ để đi thí mạng cho lão bị thịt Chung Vạn Cừu? Y có cho vợ đưa con đến ngủ với ta đâu? Lão đại có thù sâu như biển với hoàng phủ Đại Lý, y gọi chúng ta đến, tất cả bốn người liên thủ xông lên, ta mới ra quân đã bất lợi, mụ lại bình chân như vại đứng ngoài vỗ tay làm vui, liệu mỗ có nên nói cho lão đại biết hay không?
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Tứ đệ, ta từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ từng được chứng kiến ai khinh công cao như hiền đệ, quả đúng là con hạc trong mây danh bất hư truyền.
Đi như khói tỏa lững lờ,
Chim hồng bay vụt đã mờ mờ xa.
Hai gã kia chỉ còn nước ngóng bụi trông theo, đến như tỉ tỉ đây đuổi cũng còn chưa kịp. Nếu không như thế đời nào người chị này lại đứng ngoài tụ thủ bàng quan?
Dường như bà ta sợ lão tứ mách lại với lão đại nên vội vàng nói lấy lòng mấy câu. Vân Trung Hạc hừ một tiếng, xem ra nộ khí đã bớt nhiều.
Nam Hải Ngạc Thần hỏi:
- Lão tứ, kẻ gây khó khăn cho ngươi là ai thế? Có phải bọn chó săn của hoàng phủ chăng?
Vân Trung Hạc giận dữ đáp:
- Mười phần đến chín là người trong phủ hoàng gia. Ta không tin ở đất Đại Lý này ngoài chúng ra lại còn có ai tài ba cỡ đó.
Diệp Nhị Nương nói:
- Hai người nói gì mà đại náo hoàng phủ dễ như trở bàn tay, cắt cái đầu chó của tên hoàng đế Đại Lý như lấy đồ trong túi, ta đã bảo không phải dễ như thế đâu, bây giờ đã tin chưa?
Vân Trung Hạc bỗng nói:
- Lão đại sao giờ này vẫn còn chưa tới, kỳ hẹn đến nay đã quá ba ngày rồi, xưa nay y chưa bao giờ thế cả, không lẽ ... không lẽ ...
Diệp Nhị Nương nói:
- Không lẽ có chuyện gì phải không?
Nam Hải Ngạc Thần bực bội nói:
- Hừ, lão đại bảo chúng mình đợi đủ bảy ngày, bây giờ mới có bốn hôm, sao ngươi gấp gáp thế? Lão đại là hạng người cỡ nào, đâu phải như ngươi đâu, đánh không lại người ta liền cụp đuôi mà chạy?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Đánh không lại thì chạy, cái đó chính thực kẻ thức thời mới là kẻ tuấn kiệt, ta có sợ là sợ y quả bị bảy tay cao thủ, tám tên hảo hán vây đánh, tuy yếu sức nhưng lại không chịu thua, cho xứng với cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh.
Nam Hải Ngạc Thần nhổ toẹt xuống đất nói:
- Xì! Lão đại hoành hành thiên hạ, nào có sợ gì ai? Ở một cái nước bé xíu như Đại Lý này làm sao sẩy tay được? Con bà nó chứ, đói rồi đây.
Y cầm dưới đất lên một cái đùi bò, nướng trên đống lửa đốt bên cạnh, chỉ một cốc đã có mùi thơm bốc ra. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Nghe lời y nói thì ta ở trên đỉnh núi này hôn mê đã ba ngày rồi. Không biết có tin tức gì của Đoàn lang không?”.
Nàng đã bốn hôm nay không ăn uống gì nên đói lả, ngửi thấy mùi thơm của đùi thịt bay ra, bụng sôi lên ùng ục. Diệp Nhị Nương cười hỏi:
- Cô em đói lắm rồi phải không? Ngươi đã tỉnh lại, sao còn giả vờ nằm yên? Ngươi có muốn xem mặt Cùng Hung Cực Ác Vân lão tứ hay không?
Nam Hải Ngạc Thần biết Vân Trung Hạc hiếu sắc như chính mạng mình, nếu thấy nhan sắc Mộc Uyển Thanh, dù có chết cũng thể nào ra tay chấm mút, chứ không phải như mình khi nào nổi cơn thèm khát mới tính chuyện cưỡng gian sát nhân, nên vội vàng vứt cho nàng một đùi thịt nửa sống nửa chín, quát lên:
- Ngươi đi qua bên kia, tránh cho xa, đừng có ở đây nghe lén bọn ta nói chuyện.
Mộc Uyển Thanh giả giọng khào khào cho thật khó nghe, hỏi lại:
- Chồng tôi qua chưa?
Nam Hải Ngạc Thần bực tức đáp:
- Con mẹ nó, ta đích thân qua bên đó xem xét kỹ càng cả sơn cốc lẫn trên đỉnh núi nhưng không thấy tung tích tiểu tử đó đâu cả. Tên đó chắc chưa chết nhưng không biết ai cứu y đi đâu. Ta đợi ở đây ba ngày rồi, thêm bốn ngày nữa, đủ bảy ngày mà tiểu tử đó không đến, hừ hừ, lúc đó ta sẽ nướng ngươi lên ta ăn.
Mộc Uyển Thanh trong bụng thở phào, nghĩ thầm: “Gã Nam Hải Ngạc Thần này đâu phải kẻ nói khơi khơi, nếu như y đã qua đó tìm kiếm, cho rằng Đoàn lang chưa chết, hẳn là không sai. Ôi, không biết chàng có nhớ nhung gì ta không, có sang đây cứu mình không nữa!". Nàng bèn nhặt đùi thịt dưới đất lên, chầm chậm đi ra đằng sau tảng đá. Nàng đói đã lâu, cảm thấy uể oải nhưng nằm yên ba ngày liền, vết thương trên vai đã khép miệng. Lại nghe Diệp Nhị Nương hỏi:
- Tên tiểu tử đó có cái gì hay khiến cho ngươi phải yêu tài?
Nam Hải Ngạc Thần cười đáp:
- Tên tiểu tử đó giống hệt tôi, nếu như học võ công của phái Nam Hải, thể nào cũng hơn cả thầy. Ha ha! Trong Tứ Đại Ác Nhân chỉ có mình ta Nhạc lão ... Nhạc lão nhị tuy phải đứng thứ hai, nhưng nói về môn đồ truyền nhân, thì đồ đệ ta phải đứng thứ nhất, không ai sánh kịp.
Mộc Uyển Thanh càng đi càng xa, nghe thấy Nam Hải Ngạc Thần khoa trương tư chất Đoàn Dự thế gian hiếm có, trong lòng vừa hoan hỉ, lại vừa buồn lo nhưng cũng tức cười: “Cái anh chàng Đoàn lang đồ gàn kia, có biết võ công gì đâu? Trừ cái gan liều ra, chẳng làm được chuyện gì. Nam Hải Ngạc Thần nếu quả thu anh chàng làm học trò cưng, phái Nam Hải chắc thể nào cũng xuống dốc”.
Nàng kiếm được một chỗ kín đáo ở sau tảng đá, ngồi xuống gặm chiếc dùi bò, tuy đói lắm nhưng cái đùi phải đến ba bốn cân, chỉ mới ăn chừng nửa non là đã no rồi. Nàng nghĩ thầm: “Đợi đến ngày thứ bảy, nếu quả thực Đoàn lang phụ bạc ta, không đến kiếm mình sẽ tìm cách bỏ trốn”. Nghĩ đến đó nàng thấy chạnh lòng: “Nếu như mình chạy thoát được rồi thì từ nay về sau làm sao sống nổi?”.
Cứ như thế tâm thần bất định, chẳng mấy chốc đã mấy ngày qua. Cái mùi vị “một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu” kia bây giờ mới thấy thấm thía. Ngày lại ngày, đêm qua đêm, nàng chỉ mong dưới chân núi vọng lên một chút thanh âm, dẫu chẳng phải Đoàn Dự đến cũng còn hơn là cứ ngày ngóng cổ trông chờ, tối mong cho hết đêm.
Thêm một giờ nàng thấy khổ sở hơn một chút, lúc nào cũng canh cánh nghĩ ngợi gần xa: “Dẫu chàng có lòng đi kiếm ta thì trèo đèo vượt suối cũng đâu có dễ dàng gì, ngày một ngày hai chắc gì tới được. Đến hôm nay mà chàng chưa đến thì chắc là không đến rồi. Tuy chàng không muốn bái gã Nam Hải Ngạc Thần kia làm thầy, nhưng chẳng lẽ không một chút tình nghĩa gì với thiếp sao? Thế sao chàng lại ôm em, hôn em, bằng lòng lấy em làm vợ?”.
Mộc Uyển Thanh càng nghĩ càng chua chát, những lời sư phụ dặn dò “đàn ông con trai trên đời này không ai là không vô tình bạc nghĩa” vẫn còn văng vẳng bên tai, tuy trong lòng nàng vẫn nghĩ rằng “Đoàn lang đâu phải như thế”, nhưng cũng biết đó chẳng qua chỉ tự an ủi mình. Cũng may mấy hôm nay, Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc không ai đếm xỉa gì đến nàng.
Ba người đó chờ đợi kẻ thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác Quán Mãn Doanh tuy bực dọc không trút lên đầu nàng nhưng chộn rộn chẳng khác gì kiến bò trong chảo nóng, hết sức nóng nảy. Mộc Uyển Thanh và ba người đó tuy ở cách nhau khá xa, tiếng hò hét của họ vẫn thỉnh thoảng văng vẳng truyền tới.
Đến tối hôm thứ sáu, Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ngày mai là ngày cuối cùng rồi, gã bạc tình kia chắc là không tới, tối nay nhân khi trời tối, ta phải len lén trốn đi mới được. Nếu không đợi đến sáng mai thì thật khó mà thoát thân”. Nàng đứng lên vặn vẹo người một hồi, sau sáu ngày nghỉ ngơi, tinh thần tuy chán nản nhưng vết thương nhờ có kim sang linh nghiệm cũng đã khỏi bảy tám phần, nghĩ thầm: “Hay nhất là đợi cho ba người cãi nhau đang lúc gay cấn thì mình len lén trốn đi vài mươi trượng, tìm một cái hang nào đó chui vào. Ba người đó ắt sẽ đuổi theo mình ở những nơi xa xôi, không chừng chạy kiếm tới vài chục dặm, đâu có ngờ mình lại ở ngay trên đỉnh núi”. Đến khi họ đuổi xa rồi, lúc đó mình sẽ trốn đi lần nữa”.
Thế nhưng nàng lại nghĩ ngay: "Ôi, họ với ta không thù không oán, đuổi theo mình làm gì? Ta bỏ trốn cũng thế, không bỏ trốn cũng thế, họ đâu có để tâm".
Ba bốn lần nàng dợm bước toan đi nhưng rồi vẫn khắc khoải nhớ tới lang quân: “Nếu như gã bạc tình kia ngày mai đến thì sao? Nếu ngày mai mình không gặp được y có phải là sẽ nghìn trùng xa cách, vĩnh viễn không bao giờ gặp lại hay sao? Nếu như cháng quyết tâm đến đây để cùng mình đồng sinh cộng tử, ta lại bỏ đi, chàng không chịu bái sư vì thế mà bị Nam Hải Ngạc Thần giết chết thì có phải ta đã không ra gì với chàng hay sao?”.
Nghĩ tới nghĩ lui, bụng rối như tơ vò, đến lúc trời hửng sáng nàng vẫn không sao quyết định được.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:47 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Hồi 5(a)

VI BỘ HỘC VĂN SINH
Dập dìu chân uyển chuyển,
Lung linh bóng chập chờn.
*
* *

Trời vừa sáng cũng là lúc nạn đề của nàng đã giải quyết, có chạy cũng không kịp nữa rồi: “Kẻ bạc tình kia có đến cũng thế, không đến cũng thế, ta cứ đợi ở đây cho tới cùng”. Nàng đang nghĩ đến nước đường tuyệt vọng, bỗng nghe bịch một cái, vật gì đó rơi cách nàng độ vài chục trượng, lẫn vào đám cỏ.
Mộc Uyển Thanh tự hỏi: “Cái gì thế nhỉ”. Nàng bèn nằm xuống, thấy trong đám cỏ không có tiếng động gì khác, len lén bò lần tới để xem là cái gì.
Nàng đến bên bụi rậm rồi, vạch đám cỏ cao ra xem, bỗng thấy người nổi gai ốc. Thì ra trong đám cỏ đó có sáu cái cái xác trẻ con, đứa thì nằm ngửa, đứa thì nằm nghiêng, trong đó có cả thằng bé bụ bẫm nàng thấy Diệp Nhị Nương bế hôm trước, trong lòng vừa kinh hoàng, vừa phẫn nộ: “Con mụ Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương, quả thực mỗi ngày giết một đứa trẻ. Không hiểu để làm gì? Mụ ta ở trên đỉnh núi sáu ngày, đã giết sáu hài nhi”.
Nàng xem xét cả sáu đứa không đứa nào bị thương tích hay có vết máu, thật không biết con mụ ác ôn kia “dỡn” cách nào mà chết đứa bé, trong sáu đứa chỉ có một đứa áo quần tươm tất, còn năm đứa kia mặt quần áo vải thô con nhà nông, xem ra đã bắt trộm trong số gia đình nhà quê chung quanh núi Vô Lượng. Mộc Uyển Thanh lần này theo sư phụ xuất sơn cũng đã giết khá nhiều người, nhưng những người bị giết đều là hào khách giang hồ có bụng bất lương, còn như việc tàn sát hài nhi không một lý do như thế này không khỏi khiến nàng run rẩy.
Đột nhiên trước mặt bóng xanh thấp thoáng, một người nhô lên hụp xuống như bóng ma, nhanh như cắt chạy như bay từ trên núi xuống, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Mộc Uyển Thanh thấy mụ ta phi hành thần tốc như thế, đến sư phụ mình cũng còn kém xa, trong bụng không khỏi bàng hoàng, ngổn ngang trăm mối, hai chân mềm nhũn ngồi phệt xuống đất.
Nàng ngẩn ngơ một hồi, xếp sáu cái xác hài nhi thành một hàng, gom đất đá đắp lên những đứa bé bất hạnh. Đột nhiên nàng thấy đằng sau có hơi gió của ai đó tập kích, vội điểm chân trái một cái, lao luôn về phía trước. Chỉ nghe một giọng cười vừa sắc nhọn vừa ồm ồm ở đằng sau, một người nói:
- Tiểu cô nương, ông chồng cô bỏ cô rồi, chi bằng lấy ta đi thôi.
Chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Tiếng nói của y vừa đến thì người cũng đi theo, bàn tay vươn ra chộp vào đầu vai Mộc Uyển Thanh. Bỗng có một chưởng ở đâu đánh xéo qua đẩy tay y chệch ra ngoài, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y gầm lên một tiếng vang trời, quát lớn:
- Lão tứ, môn hạ phái Nam Hải quyết không để cho ngươi coi thường được đâu.
Vân Trung Hạc nhẩy vọt ra, nhún vài cái đã ở bên ngoài hơn chục trượng, cười nói:
- Ngươi đã thu được đồ đệ đâu, cô nương này chưa phải là người của phái Nam Hải.
Mộc Uyển Thanh thấy người đó thân hình cao nghệu nhưng lại gầy nhom, chẳng khác gì một cây tre, còn khuôn mặt lại dài quá khổ trông đến sợ. Nam Hải Ngạc Thần quát lớn:
- Sao ngươi biết học trò ta không đến? Ngươi giết nó rồi, phải không nào? Đúng rồi, ngươi thấy học trò ta tư chất quá tốt nên định bắt y thu làm đồ đệ. Ngươi làm hỏng việc lớn của ta, ta phải giết ngươi mới được.
Y quả là ngang ngược hết chỗ nói, cũng chẳng thèm hỏi xem Vân Trung Hạc có thực là thò tay mặt, đặt tay trái gì không, lập tức xông lên tấn công. Vân Trung Hạc kêu lên:
- Học trò người tròn hay méo, mặt ngang mũi dọc ra sao ta đã gặp bao giờ đâu mà nói chuyện thu hay không thu làm đồ đệ?
Y vừa nói vừa nhanh nhẹn tuyệt luân tránh né hai lần Nam Hải Ngạc Thần xông lên tấn công liên tiếp. Nam Hải Ngạc Thần chửi:
- Bá xàm! Ai thèm tin lời ngươi nói? Ngươi đánh nhau thua rồi, bao nhiêu bực bội đem trút lên đầu học trò ta chứ gì!
Vân Trung Hạc nói:
- Thế học trò ngươi là con trai hay là con gái?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Dĩ nhiên là con trai, ta thu nữ đồ đệ làm cái đếch gì?
Vân Trung Hạc nói:
- Thấy chưa! Vân Trung Hạc này xưa nay có bắt là bắt con gái, có bắt con trai bao giờ, bộ ngươi không biết hay sao?
Nam Hải Ngạc Thần đang nhảy lên trên không, nghe y nói có lý vội vàng sử dụng Thiên Cân Trụy, rơi phịch xuống, chân phải đạp lên một tảng đá, quát lớn:
- Thế thì học trò ta đi đâu? Sao đến giờ này chưa lên đây bái sư?
Vân Trung Hạc cười nói:
- Ha ha! Chuyện của phái Nam Hải nhà ngươi, ta đâu cần biết.
Nam Hải Ngạc Thần ngóng đợi Đoàn Dự đã sốt ruột lắm rồi, bao nhiêu bực rọc không có chỗ phát tiết, quát lên:
- Ngươi dám nói móc ta phải không?
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Nếu như mình khích bác hai tên ác nhân này đánh nhau cho lưỡng bại câu thương thì thật tốt quá”. Nàng bèn lớn tiếng nói:
- Đúng đó, học trò của tiền bối ắt là gã Vân Trung Hạc này hại rồi, nếu không chàng ở trên đỉnh núi cao như thế, làm sao xuống được? Gã Vân Trung Hạc này khinh công ghê gớm, chắc là lẻn lên trên đó, đem học trò của tiền bối đến chỗ nào khuất nẻo giết mất rồi để phái Nam Hải mất đi một nhân tài lợi hại, nếu không thì sao thi thể cũng không kiếm thấy?
Nam Hải Ngạc Thần giơ tay vỗ lên đầu, nói với Vân Trung Hạc:
- Ngươi thấy chưa, đến vợ của học trò ta cũng còn nói thế, không lẽ nói oan cho ngươi hay sao?
Mộc Uyển Thanh nói tiếp:
- Trượng phu của tiện thiếp có nói là chàng được may mắn có được một sư phụ lợi hại đến thế, quả là tam sinh hữu hạnh, nhất quyết ra sức học nghệ để cho phái Nam Hải được mở mày mở mặt, khiến cho cái tên Nam Hải Ngạc Thần uy chấn thiên hạ, những người như Ác Quán Mãn Doanh, Vô Ác Bất Tác phải cảm phục không để đâu cho hết. Ngờ đâu gã Vân Trung Hạc này lại nổi độc tâm, giết chết hảo đồ nhi của tiền bối, từ nay về sau, làm sao còn tìm đâu ra được một đứa học trò giống mình đến như thế nữa?
Nàng nói một câu, Nam Hải Ngạc Thần lại vỗ đầu một cái. Mộc Uyển Thanh lại tiếp:
- Xương sau đầu của trượng phu tiện thiếp nổi u lên thật không khác gì Nhạc tiền bối, thiên tư cũng thông minh chẳng khác gì tiền bối, quả đúng là một truyền nhân mười phân vẹn mười của phái Nam Hải, trên đời chẳng có người thứ hai. Gã Vân Trung Hạc này chăm chăm làm hại tiền bối, lẽ nào lại không báo thù cho học trò mình?
Nam Hải Ngạc Thần nghe đến đây, mắt nảy lửa, nghe vù một cái đã xông ngay đến Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc biết là y bị trúng kế khích bác của Mộc Uyển Thanh nhưng chưa thể nào minh oan, biết mình võ công kém Nam Hải Ngạc Thần một chút, thấy y xông tới liền co giò chạy. Nam Hải Ngạc Thần hai chân nhún một cái cũng đuổi theo ngay.
Mộc Uyển Thanh kêu lên:
- Y chột dạ nên bỏ chạy rồi. Nếu không phải y giết học trò của ông việc gì phải chạy trốn?
Nam Hải Ngạc Thần gầm lên:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Lời đó nghe có lý lắm. Mau đền mạng học trò ta!
Hai người một đuổi theo, một chạy trốn, chỉ nháy mắt đã lẩn khuất bên kia núi. Mộc Uyển Thanh mừng thầm, trong giây lát lại nghe tiếng gầm của Nam Hải Ngạc Thần từ xa gần lại, hai người từ sau núi đã đuổi tới nơi.
Khinh công của Vân Trung Hạc cao hơn Nam Hải Ngạc Thần nhiều, thân hình cao nghệu như cây tre của gã lắc la lắc lư, lượn bên đông, lướt qua tây, Nam Hải Ngạc Thần còn cách hắn một quãng xa. Hai người chạy ngang qua mặt Mộc Uyển Thanh, chỉ thoáng một cái đã vòng lại đằng sau núi, đến vòng thứ hai, Vân Trung Hạc nhảy vọt tới trước mặt Mộc Uyển Thanh, giơ tay chộp vào vai nàng. Mộc Uyển Thanh kinh hãi, tay phải vung lên, nghe phụp một cái, một mũi độc tiễn bắn ngay vào người y. Vân Trung Hạc nhích qua bên trái nửa thước, tránh thoát mũi tên nhưng không biết y chuyển động cách nào, tay lại vươn ra chộp vào mặt Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh vội né tránh nhưng vẫn chậm một chút, mặt thấy mát rượi, tấm khăn che đã bị y cướp mất.
Vân Trung Hạc thấy khuôn mặt xinh đẹp của nàng, không khỏi ngơ ngẩn, cười giả lả:
- Đẹp quá! Cô em thật là xinh, giá như lẳng lơ thêm một tí thì thật thập toàn thập mỹ ...
Y còn đang tán tỉnh, Nam Hải Ngạc Thần đã đuổi tới, vù một chưởng, đánh luôn vào hậu tâm y. Vân Trung Hạc vận khí vào tay phải phản kích, hai luồng chưởng phong đụng nhau nghe bùng một tiếng, trong vòng một trượng chung quanh đất đá bay lên tung tóe còn Mộc Uyển Thanh thấy tức ngực dường như không thở nổi. Vân Trung Hạc mượn sức của Nam Hải Ngạc Thần, tung mình nhảy tới phía trước hai trượng. Nam Hải Ngạc Thần lại rống lên nói:
- Chịu thêm ta ba chưởng nữa xem nào!
Vân Trung Hạc cười nói:
- Ngươi đuổi ta không kịp mà ta đánh cũng không lại ngươi. Có đấu thêm một ngày một đêm nữa thì cũng đến thế thôi.
Hai người đuổi đánh nhau đã xa mà cát bụi vẫn còn mù mịt, Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ta phải tìm cách chặn Vân Trung Hạc lại nếu không hai người không thể nào động thủ được”. Đợi hai người chạy tới vòng thứ ba, Mộc Uyển Thanh tung mình nhảy ra, soẹt soẹt soẹt liên tiếp, sáu bảy mũi tên độc nhắm vào Vân Trung Hạc bắn tới, kêu lên:
- Đền mạng cho chồng ta!
Vân Trung Hạc nghe tiếng đoản tiễn rít lên, biết là lợi hại, chồm lên hụp xuống liên tiếp tránh né. Mộc Uyển Thanh vung kiếm lên, vụt vụt đâm luôn vào y. Vân Trung Hạc biết rõ bụng dạ nàng, không dám chống đỡ chỉ tránh qua một bên. Thế nhưng vì bị nàng ngăn trở, Nam Hải Ngạc Thần đã giơ song chưởng đánh tới, chưởng phong vây chặt y vào trong.
Vân Trung Hạc cười gằn:
- Lão tam, ta nhường ngươi mấy lần, chỉ vì không muốn tổn thương hòa khí của Tứ Đại Ác Nhân, chứ ngươi tưởng ta sợ thật hay sao?
Y đưa tay vào hông rút ra hai tay đã cầm hai cương trảo, mỗi chiếc cán dài ba thước, trên đầu là hình một bàn tay, ngón tay vươn ra, đầu ngón tay sáng lấp lánh, hai món binh khí đan chéo vào nhau, trái qua phải phải qua trái chặn hết trước mặt, nhưng là thế chỉ thủ mà không công.
Nam Hải Ngạc Thần mừng nói:
- Hay lắm, bảy năm không gặp, hóa ra ngươi đã luyện thành một món binh khí cổ quái, thế thì xem lão tử đây!
Y lấy cái bao trên lưng xuống mở ra hai món binh khí. Mộc Uyển Thanh biết mình gia nhập cuộc chiến cũng bằng vô ích lập tức lùi ra hai bước. Chỉ thấy Nam Hải Ngạc Thần tay phải cầm một thanh tiễn đao lạ lùng, cán ngắn lưỡi dài, đầy răng như răng cưa, rõ ràng là một cái hàm cá sấu. Tay trái y cầm một nhuyễn tiên cũng có răng cưa hình đuôi cá sấu.
Vân Trung Hạc liếc qua hai món binh khí kỳ lạ kia, cương trảo bên tay phải vung ra, cào vào mặt Nam Hải Ngạc Thần. Nam Hải Ngạc Thần vung ngạc vĩ tiên lên, nghe bịch một tiếng đã gạt được cương trảo ra ngoài. Vân Trung Hạc ra tay thật nhanh, tay phải chưa rút về, tay trái đã tống ra. Chỉ nghe một tiếng lách cách, ngạc chủy tiễn đã tung ra, kẹp chặt lấy cương trảo. Cương trảo đó làm bằng thép nhưng không biết hai hàm răng của ngạc chủy tiễn đúc bằng gì cắt đứt luôn hai ngón tay. Phải nói Vân Trung Hạc giựt tay về thật nhanh nên ba ngón còn lại không bị đứt, tuy nhiên trảo pháp y luyện mười ngón tay mỗi ngón có một công dụng khác nhau, mất đi hai ngón, uy lực liền giảm hẳn, trong bụng cũng thấy mất tinh thần. Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả vung ngạc vĩ tiên ra.
Đột nhiên một bóng xanh ở đâu nhẹ nhàng xông vào giữa hai người, chính là Diệp Nhị Nương. Mụ ta tay trái đè lên cây roi đuôi cá đẩy xéo qua một bên, Vân Trung Hạc liền thừa cơ nhảy trở ra. Diệp Nhị Nương hỏi:
- Lão tam, lão tứ, cớ sao lại ra tay đánh nhau?
Mụ liếc qua nhìn Mộc Uyển Thanh, thấy nhan sắc nàng lập tức sắc mặt đổi hẳn. Mộc Uyển Thanh thấy bà ta tay bồng một đứa bé trai chừng ba bốn tuổi, áo mũ đều may bằng gấm, má trắng môi hồng thật là dễ thương mới hay bà ta vừa xuống núi để đi bắt trẻ con. Mộc Uyển Thanh thấy ánh mắt mụ có vẻ khác thường, vội vàng quay đầu sang nơi khác không dám nhìn. Bỗng nghe thấy thằng bé kêu lên:
- Ba ơi! Ba ơi! Sơn Sơn muốn về với ba.
Diệp Nhị Nương dỗ dành:
- Sơn Sơn ngoan nào, một lát nữa ba con sẽ đến!
Mộc Uyển Thanh nghĩ đến sáu cái xác trẻ con ghê rợn trong đám cỏ, bây giờ nghe giọng điệu thân ái dịu ngọt của mụ ta tự nhiên thấy rùng mình. Vân Trung Hạc cười nói:
- Nhị tỉ, lão tam luyện thành ngạc chủy tiễn và ngạc vĩ tiên ghê gớm thật, thành thử hai người mới tập chơi với nhau. Thế bảy năm nay tỉ tỉ luyện công phu gì? Liệu có địch được với hai món binh khí lợi hại này chăng? E rằng bà chị cũng đánh không lại đâu.
Y không đề cập đến chuyện Nam Hải Ngạc Thần đổ oan cho y giết hại môn đồ mình, chỉ nói sơ qua vài câu nhưng lại đẩy cho Nam Hải Ngạc Thần và Diệp Nhị Nương động thủ. Diệp Nhị Nương khi lên núi đã thấy ngay hai người đánh nhau chí mạng, quyết không phải chỉ luyện võ sách chiêu mà thôi, cười nhạt nói:
- Bảy năm qua ta chỉ tu luyện nội công, bao nhiêu binh khí quyền cước quên hết sạch, chắc chắn không phải là địch thủ của lão tam.
Đột nhiên từ lưng chừng núi có tiếng người quát lớn:
- Con mụ kia, ngươi bắt con ta để làm gì? Mau trả lại cho ta.
Thanh âm chưa dứt, người đã đến đỉnh núi, thân pháp thật là nhanh nhẹn. Người đó chừng độ trên dưới bốn mươi, mặc áo gấm đoạn màu xanh lục, tay cầm trường kiếm. Nam Hải Ngạc Thần quát lớn:
- Ngươi là đứa nào? Sao dám lên đây la lối om xòm? Đồ đệ ta có phải ngươi bắt không?
Diệp Nhị Nương cười đáp:
- Vị lão sư này là chưởng môn Đông Tông Vô Lượng Kiếm Tả Tử Mục tiên sinh, kiếm pháp tinh diệu đã đành mà đẻ được đứa con cũng mập mạp dễ thương quá.
Mộc Uyển Thanh lúc này mới hiểu ra: “Thì ra Diệp Nhị Nương không kiếm được đứa trẻ con nào trong núi Vô Lượng nên bắt luôn con nhỏ của người chưởng môn Vô Lượng Kiếm”. Diệp Nhị Nương nói:
- Tả tiên sinh, lệnh lang trông thật kháu khỉnh, để ta bồng chơi một chút, sáng mai đem trả lại cho không phải nóng ruột.
Nói xong ghé môi hôn trên má Sơn Sơn, giơ tay vuốt tóc thằng bé xem ra yêu thích lắm. Tả Sơn Sơn thấy cha liền gào lên:
- Ba ơi! Ba ơi!
Tả Tử Mục giơ tay trái ra tiến lên mấy bước nói:
- Tiểu nhi ngỗ nghịch lắm, chẳng có gì dễ thương đâu, xin mau đưa trả lại, tại hạ thật là cảm kích.
Y trông thấy con rồi giọng điệu đổi ra khách khí, chỉ sợ người đàn bà kia sử kình giết chết con y. Nam Hải Ngạc Thần cười nói:
- Đã vào tay Vô Ác Bất Tác Diệp Tam Nương này thì dẫu có là Thái Tử, công chúa của hoàng đế cũng không trả.
Tả Tử Mục nghe thế run run hỏi:
- Bà là ... là Diệp Tam Nương? Thế Diệp Nhị Nương ... Diệp Nhị Nương là gì của tôn giá?
Y nghe nói trong Tứ Đại Ác Nhân có người đàn bà đứng hàng thứ hai tên là Diệp Nhị Nương, sáng nào cũng bắt một đứa trẻ về chơi đùa, cho đến tối thì nghịch cho chết, chỉ e Diệp Tam Nương và Diệp Nhị Nương là chị em gì đó, tính tình cũng giống nhau thì thật hỡi ôi.
Diệp Nhị Nương cười lên khanh khách nói:
- Ngươi đừng nghe y nói năng láo lếu, ta là Diệp Nhị Nương, trên đời này làm gì có ai là Diệp Tam Nương?
Mặt Tả Tử Mục chợt xanh như tàu lá, y phát giác đứa con thơ bị bắt nhái đã giở toàn lực đuổi theo tới đây, trên đường đã nhận ra đối phương võ công cao hơn mình nhiều, lúc đầu còn cho rằng người đàn bà này không quen biết gì, cũng chẳng thù oán nên hẳn không làm hại con mình. Bây giờ nghe nói mụ ta là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương thật không biết phải quát tháo hay mở mồm van xin nên vừa lên đến cổ liền nghẹn lại không nói nên lời.
Diệp Nhị Nương nói:
- Các ngươi xem thằng bé này da dẻ nhẵn nhụi, huyết sắc hồng hào, trắng trẻo kháu khỉnh đúng là con nhà võ học danh gia, so với con cái nhà quê nhà mùa thật khác hẳn.
Mụ vừa nói vừa cầm bàn tay thằng bé giơ lên soi trước ánh mặt trời, tặc lưỡi khen ngợi, chẳng khác gì người ta ra chợ mua gà mua dê, khen con vật mập mạp béo tốt. Tả Tử Mục trông thấy mụ thèm nhỏ rãi, tưởng chừng đem con mình làm thịt ăn tới nới, không khỏi vừa sợ vừa tức. Dẫu biết không thể nào địch lại nhưng y cũng thí mạng, lập tức sử chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, mũi kiếm nhắm ngay yết hầu mụ ta đâm tới.
Diệp Nhị Nương cười khan một tiếng, nhẹ nhàng đưa Sơn Sơn ra, nhát kiếm kia của Tả Tử Mục nếu như tiếp tục đâm vào thì đâm trúng ngay con mình trước. Cũng may y kiếm thuật tinh thông, chiêu số chưa hoàn tất đã lập tức thu về, mũi kiếm ở trên không hơi rung một cái thành một bông hoa kiếm, biến chiêu đâm xéo xuống đầu vai Diệp Nhị Nương. Diệp Nhị Nương cũng không thèm né tránh lại đưa Sơn Sơn ra chặn ngay trước mặt. Chỉ trong nháy mắt, Tả Tử Mục đã đâm luôn trên dưới trái phải bốn thế liền, Diệp Nhị Nương chỉ dĩ dật đãi lao chỉ di chuyển Sơn Sơn khiến cho bốn kiếm chiêu thật là lợi hại của Tả Tử Mục đều chỉ sử dụng được nửa chừng rồi phải ngừng lại. Sơn Sơn sợ quá khóc òa lên.
Vân Trung Hạc bị Nam Hải Ngạc Thần đuổi chạy ba vòng núi, cương trảo lại bị gẫy mất hai ngón tay, uất ức không biết phát tiết vào đâu, đột nhiên tung mình nhảy lên cương trảo trong tay trái chộp luôn vào đầu Tả Tử Mục. Tả Tử Mục giơ kiếm lên gạt sử chiêu Vạn Hủy Tranh Diễm kiếm quang rung động khắp nơi bao phủ toàn bộ thượng bàn của địch. Chỉ nghe keng một tiếng nhỏ, hai món binh khí chạm nhau, Tả Tử Mục sử chiêu Thuận Thủy Thôi Chu, mũi kiếm thừa thế đâm vào yết hầu Vân Trung Hạc, lập tức hai bên cương trảo chập lại kẹp ngay mũi kiếm vào giữa.
Tả Tử Mục kinh hãi vô cùng không dám bỏ kiếm vội vàng vận nội lực giựt về, nghe soẹt một tiếng, cương trảo phía phải đã đâm phập ngay vào đầu vai y. Cũng may cương trảo năm ngón đã bị Nam Hải Ngạc Thần chặt đứt mất hai, Tả Tử Mục chỉ bị thương nhẹ nhưng máu cũng tóe ra, ba ngón tay vẫn cắm chặt vào đầu vai không nhả. Vân Trung Hạc tiến lên bồi thêm một cước, đá y ngã lăn ra, chỉ qua mấy chiêu một chưởng môn nhân của danh môn đại phái không sao trả đòn được.
Nam Hải Ngạc Thần khen ngợi:
- Lão tứ, hai món đồ đó hay lắm, không đến nỗi xấu mặt.
Diệp Nhị Nương cười hì hì nói:
- Tả đại chưởng môn, ông có thấy lão đại của chúng tôi đâu không?
Vai phải của Tả Tử Mục bị cương trảo đè xuống không cách gì động đậy, cố nhịn đau nói:
- Lão đại của các vị là ai? Tôi chưa từng gặp qua.
Nam Hải Ngạc Thần cũng hỏi:
- Ngươi có thấy đồ đệ của ta đâu không?
Tả Tử Mục lại đáp:
- Đồ đệ ngươi là ai? Tôi chưa từng gặp.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Nếu ngươi không biết đồ đệ ta là ai, sao biết rằng chưa từng gặp? Con mẹ ngươi chứ chỉ bá láp! Tam muội, đem con y ra làm thịt ăn đi.
Diệp Nhị Nương đáp:
- Nhị tỉ của ngươi đâu có ăn thịt trẻ con. Tả đại chưởng môn, ngươi đi đi, bọn ta không muốn giết ngươi đâu.
Tả Tử Mục nói:
- Nếu quả như thế, Diệp ... Diệp Nhị Nương, xin bà trả lại con cho tôi, tôi sẽ đi ra bắt cho bà ba bốn đứa trẻ con, Tạ mỗ vĩnh viễn cảm tạ đại đức.
Diệp Nhị Nương cười tít mắt nói:
- Thế thì tốt lắm. Ngươi đi kiếm cho ta tám đứa trẻ lại đây. Bọn ta ở đây có bốn người, mỗi người bồng hai đứa đủ dùng cho ta tám ngày. Lão tứ, thả y ra.
Vân Trung Hạc mỉm cười, nhả cơ quan, cương trảo mở ra, Tả Tử Mục nghiến răng cố đứng dậy, quay sang Diệp Nhị Nương vái một cái thật sâu, giơ tay bồng con. Diệp Nhị Nương cười nói:
- Ngươi là người trong giới giang hồ, sao không biết rõ qui củ? Chưa có tám đứa trẻ đem lại đây để đổi, ta đời nào lại giao trả đứa bé này cho ngươi?
Tả Tử Mục thấy con mình bị mụ ta ôm chặt trong lòng, tuy không muốn chút nào nhưng ở vào tình thế này đành phải gật đầu nói:
- Tôi đi chọn lấy tám đứa trẻ mập mạp mang đến đây, mong bà săn sóc cháu bé cho tử tế.
Diệp Nhị Nương không thèm để ý gì đến y nữa, miệng ậm ừ ru:
- Cháu ngoan ơi, bà nội cưng cháu lắm.
Tả Tử Mục đứng ngay trước mặt, mụ ta không thể nào gọi đứa bé là “con” được. Họ Tả nghe mụ gọi con mình như thế có khác nào mụ tự coi là mẹ mình, dở khóc dở cười, quay sang nói với con:
- Sơn Sơn, con ngoan nhé, chỉ một lát là ba quay lại đón con ngay.
Sơn Sơn khóc dãy nảy lên, cố gắng vùng vẫy sà vào lòng y. Tả Tử Mục quyến luyến không muốn rời con cố nhìn thêm mấy bận, tay trái ôm vết thương, quay mình từ từ đi xuống núi.
Đột nhiên từ phía đỉnh núi ở đằng sau truyền đến một hồi còi sắt lanh lảnh liên miên bất tuyệt. Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc cùng vui mừng nói:
- Lão đại đến rồi!
Hai người cùng nhảy vọt lên như một làn khói chạy về phía có tiếng còi vọng đến, chỉ giây lát đã khuất sau những tảng đá. Diệp Nhị Nương không coi vào đâu, vẫn tiếp tục giỡn hớt với thằng bé, quay sang liếc Mộc Uyển Thanh cười nói:
- Mộc cô nương, đôi mắt cô đã đẹp như thế ở trên khuôn mặt xinh xắn của cô lại càng tuyệt vời. Tả đại chưởng môn, ngươi giúp ta một việc, đến móc con ngươi của cô bé đó ra cho ta!
Con Tả Tử Mục ở trong tay người ta không thể không nghe người ta sai bảo bèn nói:
- Mộc cô nương, cô nên nghe lời Diệp Nhị Nương đi cho đỡ phải thêm khổ sở.
Nói xong giơ kiếm lên nhắm Mộc Uyển Thanh đâm tới. Mộc Uyển Thanh rít lên:
- Đồ tiểu nhân vô liêm sỉ.
Nàng vung kiếm lên phản kích, mũi kiếm nhắm thẳng vào vai Tả Tử Mục, chỉ mới ba chiêu thân hình nghiêng qua, đột nhiên hơi vung trái tay về sau, soẹt soẹt soẹt ba mũi tên độc bắn thẳng vào Diệp Nhị Nương cốt để tấn công bà ta một cách bất ngờ. Tả Tử Mục kêu lên:
- Đừng làm con ta bị thương.
Ngờ đâu ba mũi tên bắn ra tuy nhanh thật, Diệp Nhị Nương tay áo trái phất một cái, đã cuốn được ba mũi độc tiễn, vứt qua một bên, tiện tay lột luôn chiếc giày của Sơn Sơn ném vào lưng nàng. Mộc Uyển Thanh nghe thấy tiếng gió, vung kiếm về sau gạt ra nhưng vì mới bị thương nặng ra chiêu không được chính xác, chiếc giày trượt qua mũi kiếm nghe bịch một tiếng đã trúng ngay bên hông. Diệp Nhị Nương sử dụng âm kình vào trong chiếc giày, Mộc Uyển Thanh vội vận nội lực chống lại nhưng không nén được hơi, lập tức nửa thân trên tê đi, trường kiếm liền rơi ngay xuống đất.
Ngay khi đó, chiếc giày thứ hai của Sơn Sơn đã ném tới, lần này trúng ngay giữa ngực. Nàng thấy mắt tối sầm, không còn gượng thêm được nữa liền quỵ ngay xuống. Tả Tử Mục giơ kiếm phóng tới chặn ngay lên ngực nàng, tay trái thò ra toan móc mắt bên phải của cô gái.
Mộc Uyển Thanh kêu lên một tiếng: “Đoàn lang” thân hình ưỡn lên nhào thẳng vào mũi kiếm, thà chịu chết còn hơn phải chịu móc mắt. Tả Tử Mục vội rụt kiếm về nhưng bỗng thấy cổ tay bị giựt mạnh, trường kiếm nắm không chắc bay vụt lên không, thế mạnh khiến y phải lùi về sau hai bước. Ba người giật mình, không hẹn mà cùng ngẩng đầu lên nhìn thanh kiếm. Chỉ thấy thân kiếm bị một sợi dây dài cuốn chặt, đầu kia sợi dây là một chiếc cần sắt do một viên quan mặc áo vàng cầm trong tay. Người đó tuổi chừng trên dưới ba mươi, mặt đầy anh khí, cười nhạt không ngớt. Diệp Nhị Nương nhận ra ngay y là kẻ đã đấu với Vân Trung Hạc bảy hôm trước, võ công xem ra chẳng dở nhưng so với mình còn kém một chút nên không sợ hãi, có điều đồng bạn của y có tới hay không. Mụ ta liền liếc mắt ngó qua, quả nhiên đã thấy một viên quan quân áo vàng khác đứng ở bên trái, bên hông đeo một đôi bản phủ.
Diệp Nhị Nương đang định mở lời bỗng thấy sau lưng có tiếng động nhẹ, vội vàng quay lại thấy ở hai góc đông nam và tây nam đều có một người đứng đó, quần áo mặc giống hệt hai người kia, áo vàng đầu quấn khăn bông theo lối võ quan. Người ở phía đông nam cầm một đôi phán quan bút, còn người ở phía tây nam thì tay cầm một cây thục đồng tề mi côn, bốn người chia ra bốn góc, nghiễm nhiên thành thế bao vây.
Tả Tử Mục lớn tiếng nói:
- Thì ra bốn vị Chử, Cổ, Phó, Chu Tứ Đại Vệ Hộ trong cung cùng đến đây, tại hạ Vô Lượng Tả Tử Mục xin kính chào.
Nói xong hướng về bốn người vái một cái thật sâu. Người Vệ Hộ tay cầm phán quan bút Chu Đan Thần ôm quyền hành lễ, còn ba người kia không lý gì đến. Người đến đầu tiên Chử Vạn Lý vẫy chiếc cần sắt, thanh trường kiếm treo lủng lẳng trên không rung động, dưới ánh nắng chiếu vào lấp loáng phát quang. Y cười khẩy một tiếng nói:
- Vô Lượng Kiếm cũng kể là một danh môn đại phái ở Đại Lý không ngờ người chưởng môn lại hèn hạ đáng khinh đến thế. Đoàn công tử đâu? Đang ở nơi nào?
Mộc Uyển Thanh vốn dĩ quyết tâm nhận cái chết bỗng có người đến cứu, vui sướng không đâu cho hết, nghe y hỏi đến Đoàn công tử dường như quan tâm lo lắng. Tả Tử Mục ấp úng:
- Đoàn ... Đoàn công tử? À, mấy hôm trước tôi có gặp Đoàn công tử vài lần ... bây giờ thì không biết ... không biết ở đâu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Đoàn công tử đã bị tên anh em của con mụ này giết chết rồi.
Nói xong giơ tay chỉ vào Diệp Nhị Nương, nói tiếp:
- Gã đó tên cái gì Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc, người vừa gầy vừa cao, trông như cây tre ...
Chử Vạn Lý kinh hoảng, quát hỏi:
- Có thật không? Là đứa nào?
Vệ Hộ tay cầm thục đồng côn Phó Tư Qui nghe nói Đoàn Dự đã bị chết rồi, vừa đau lòng vừa tức tối, quát lớn:
- Để ta báo thù cho Đoàn công tử.
Y vung thục đồng côn nhắm ngay Diệp Nhị Nương đập xuống. Diệp Nhị Nương nghiêng người tránh ra, gào lên:
- Ối trời ôi, Chử Cổ Phó Chu Tứ Đại Vệ Hộ của nước Đại Lý các con ơi, các con chết non làm cho mẹ xót xa trong dạ! Bốn đứa con yêu quí chết non kia, các con xuống suối vàng đợi mẹ Diệp Nhị Nương với các con ơi!
Tuy Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người tuổi tác có kém mụ vài năm nhưng mụ tự coi mình là mẹ, cứ rền rĩ “Các con ơi!”, “Bốn đứa yêu quí chết non ơi!”. Phó Tư Qui giận quá, thanh đồng côn múa lên tiếng gió nghe vù vù, chỉ giây lát đã biến thành một vầng sương phủ màu vàng, vây chặt mụ vào trong. Diệp Nhị Nương tay bồng đứa con nhỏ của Tả Tử Mục, tránh qua né lại giữa những đường côn, cây gậy thủy chung vẫn không trúng mụ được cái nào. Đứa trẻ kinh hoàng khóc ré lên, Tả Tử Mục vội kêu:
- Hai vị ngừng tay! Hai vị ngừng tay!
Một người Vệ Hộ rút ngay búa đeo ở lưng ra, quát lên:
- Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương quả nhiên danh bất hư truyền, để Cổ Đốc Thành này lãnh giáo cao chiêu.
Tiếng nói chưa dứt người đã đi theo, xông vào vòng chiến, ra tay liền sử dụng tuyệt chiêu Bàn Căn Thác Tiết Thập Bát Phủ, chém bên phải một nhát, bên trái một nhát toàn vào hạ bàn. Diệp Nhị Nương cười nói:
- Thằng bé này vướng chân vướng tay, ngươi chém chết nó đi.
Mụ hạ đứa bé trên tay xuống, nhằm ngay đầu búa mà đỡ. Cổ Đốc Thành giật mình, vội vàng thu búa về, ngờ đâu Diệp Nhị Nương liền tung chân đá theo, trúng ngay đầu vai y. Cũng may thân thể y tráng kiện, bị trúng cước chỉ hơi lảo đảo nhưng không bị thương, lại tiếp tục xông lên đánh nữa. Diệp Nhị Nương lấy đứa bé làm bùa hộ mạng, khiến cho binh khí của Cổ Đốc Thành và Phó Tư Qui bị kiềm chế rất nhiều.
Tả Tử Mục hốt hoảng kêu lên:
- Coi chừng thằng bé! Con tôi đó, coi chừng, coi chừng! Phó huynh, côn đó đánh hơi cao, Cổ huynh, đừng để đầu búa ... đừng để đầu búa chạm vào con tôi.
Ngay trong lúc hỗn loạn, đằng sau núi đột nhiên truyền tới tiếng địch vi vu, âm thanh réo rắt, chỉ giây lát đã vang đến thật gần, từ sau triền núi bước ra một người đàn ông trung niên mặc áo thụng, râu ba chòm, hình mạo cao nhã, hai tay cầm một cây sáo bằng sắt dường như đang ghé môi thổi. Chu Đan Thần vội vàng bước tới bên cạnh y, hạ giọng nói mấy câu. Người kia vẫn tiếp tục thổi sáo, khúc điệu nhàn nhã, chậm rãi đi thẳng vào chỗ ba người đang đấu đến hồi kịch liệt.
Bỗng thấy tiếng địch gấp rút khiến cho ai nấy nhức cả tai, người kia cả mười đầu ngón tay cùng bịt các lỗ sáo thổi mạnh, đầu ống sáo phụt ra một làn kình phong, bắn thẳng vào mặt Diệp Nhị Nương. Diệp Nhị Nương kinh hãi vội quay đầu qua né tránh, đầu sáo liền đâm ngay vào yết hầu.
Biếc cố đó nhanh đến kinh người, tuy Diệp Nhị Nương ứng biến thần tốc nhưng chân tay cũng không khỏi loạng quạng, trong cơn nguy cấp nửa người trên ngửa về đằng sau tránh ra hơn một thước đồng thời ném luôn Tả Sơn Sơn xuống đất, vung tay chộp luôn vào thiết địch. Người khách áo rộng không để cho thằng bé rơi xuống, tay áo phất một cái, cuốn lấy đứa trẻ. Diệp Nhị Nương tuy nắm được chiếc sáo nhưng thấy nóng bỏng như chạm phải cục than, kinh hãi nghĩ thầm: “Trên chiếc địch có bôi thuốc độc chăng?” vội vàng buông tay, nhảy ra ngoài mấy bước. Người nọ vung tay áo, nhẹ nhàng ném Sơn Sơn cho Tả Tử Mục.
Diệp Nhị Nương thoáng thấy bàn tay phải người khách áo thụng đỏ chót như son, kinh hãi: “Thì ra trên ống sáo không tẩm chất độc mà là y đem nội lực thượng thừa truyền vào, chẳng khác nào vừa lấy ở trong lò đúc ra”. Mụ ta không tự chủ nổi vội lui về sau mấy bước, cười nói:
- Các hạ võ công ghê gớm thật, không ngờ cái nước Đại Lý nhỏ xíu thế này mà cũng có được cao nhân dường ấy. Xin được hỏi tôn tính đại danh?
Người áo thụng mỉm cười nói:
- Diệp Nhị Nương giá lâm tệ cảnh, được gặp quả là may mắn thay. Người Đại Lý thể nào cũng cố hết sức để tròn cái vai chủ đất.
Tả Tử Mục ôm được con rồi, vừa mừng vừa sợ, xen vào:
- Tôn giá có phải Cao ... Cao quân hầu chăng?
Người khách kia mỉm cười không trả lời hỏi Diệp Nhị Nương:
- Đoàn công tử nay ở đâu? Mong được cho biết.
Diệp Nhị Nương cười nhạt:
- Ta làm sao biết được, mà dẫu có biết ta cũng chẳng thèm nói.
Đột nhiên mụ tung mình nhảy vọt lên đỉnh núi. Người áo thụng kêu lên:
- Khoan đã!
Ông ta vội đuổi theo, bỗng thấy trước mắt lấp lánh, bảy tám món ám khí liên châu bắn tới nhắm vào toàn những chỗ yếu hại trên đầu trên mặt. Người áo thụng vung ống sáo gạt tất cả xuống, Diệp Nhị Nương lạng người phi thân đã chạy xa rồi không còn có thể đuổi kịp được nữa. Nhìn lại những ám khí dưới chân, mỗi thứ một khác toàn là các món vàng bạc đeo trên người trẻ con, hoặc bùa hộ mạng, hoặc vòng đeo tay, ông chạnh lòng: “Đây toàn là đồ của trẻ con bị mụ ta giết hại. Nếu không trừ được đứa ác tặc này không biết còn bao nhiêu tiểu nhi nước Đại Lý bị giết chết”.
Chử Vạn Lý hất chiếc cần, giựt cho trường kiếm đang nằm dưới đất bay vọt lên, xoay cán kiếm lại nhắm ngay Tả Tử Mục phóng tới. Tả Tử Mục giơ tay bắt lấy, hổ thẹn không nói được lời nào. Chử Vạn Lý quay sang hỏi Mộc Uyển Thanh:
- Quả thực Đoàn công tử nay ở đâu? Có thực là bị Vân Trung Hạc giết hại không?
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Những người này xem ra đều là bạn của Đoàn lang cả, ta phải nói thực cho họ biết, cùng nhau lên trên sơn nhai bên kia xem xét kỹ càng”. Nàng vừa toan mở lời, bỗng nghe từ lưng chừng núi có tiếng người hổn hển gào to:
- Mộc cô nương ... Mộc cô nương ... cô đang ở đâu? Nam Hải Ngạc Thần, ta đến đây, ngươi không được làm hại Mộc cô nương! Có bái hay không bái sư phụ, thủng thẳng mình tính lại ... Mộc cô nương! Mộc cô nương! Cô không sao chứ?
Bọn người áo thụng nghe thấy thế cùng reo lên:
- Công tử gia đây rồi!
Mộc Uyển Thanh chờ đợi mỏi mòn bảy ngày đêm, không còn chút hơi sức nào, bây giờ nghe thấy tiếng Đoàn Dự, vừa mừng vừa lo bỗng mắt tối sầm, lập tức ngất đi. Trong cơn hôn mê, bên tai dường như có tiếng gọi nhỏ:
- Mộc cô nương, Mộc cô nương, cô ... cô mau tỉnh lại.
Nàng thần trí hơi hồi phục thấy đang nằm trong lòng ai đó, bị ôm chặt lấy lưng, đang định vùng ra nhưng nghĩ lại: “Đoàn lang đã đến rồi mà!” trong lòng vừa thấy ngọt ngào, vừa thấy cay đắng, từ từ hé mắt, chỉ thấy một đôi mắt trong như nước mùa thu đang đăm đăm nhìn mình chẳng phải Đoàn Dự thì ai vào đây?
Nàng nghe chàng vui mừng nói:
- A, sau cùng rồi cô cũng tỉnh lại.
Mộc Uyển Thanh nước mắt ứa ra rơi lã chã, giơ tay tát trái một cái thật mạnh vào mặt Đoàn Dự nhưng người vẫn nằm gọn trong lòng chàng không còn hơi sức đâu mà vùng ra được. Đoàn Dự xoa xoa má cười nói:
- Sao cô cứ động một tí là đánh người, thật là ngang ngược quá lắm!
Chàng lại hỏi:
- Nam Hải Ngạc Thần đâu? Y không ở đây đợi tôi hay sao?
Mộc Uyển Thanh nói:
- Người ta đã đợi chàng bảy ngày bảy đêm còn chưa đủ hay sao? Y đi rồi.
Đoàn Dự bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm! Ta đang lo nếu như y nhất định bắt phải bái y làm thầy thì thực không biết sao cho phải.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Nếu chàng không muốn làm đồ đệ y, sao còn đến đây làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Ôi, nàng rơi vào tay y nếu ta không đến thể nào y cũng làm khó, biết làm sao hơn?
Mộc Uyển Thanh cảm thấy an ủi nói:
- Hừ, chàng thật là xấu xa, thiếp hận không giết được chàng mới thỏa lòng. Sao chàng sớm không đến, trễ không đến, đợi đến lúc y đi rồi chàng mới đến? Người đâu mà tử tế đến thế? Bảy ngày bảy đêm qua, ở đâu mà chàng không đi tìm thiếp?
Đoàn Dự thở dài nói:
- Ta hoàn toàn bị người ta chế ngự không sao cử động được, ngày đêm nhớ đến em, nóng ruột muốn chết đi được. Ta vừa thoát thân vội vàng chạy ngay tới đây.
*
* *
Hôm đó Nam Hải Ngạc Thần xách Mộc Uyển Thanh đi rồi, Đoàn Dự một mình ngồi trên đỉnh núi, băn khoăn vô cùng: “Nếu như ta không qua bên đó cầu tên ác nhân này thu làm đồ đệ, tính mạng Mộc cô nương ắt khó mà bảo toàn. Thế nhưng nếu như chịu nhận gã đó làm thầy, học cái ngón lách cách một tiếng, bẻ cổ người ta thì còn ra cái trò gì nữa. Y dạy ta công phu đó thể nào chẳng đi bắt người về cho ta thử, cứ giết hết người này qua người khác quả là ô hô ai tai! Cũng may tên ác nhân này có hung dữ thật, cũng còn biết phải quấy, ta phải tìm cách biện giải thế nào để y chịu thả Mộc cô nương mà lại không thu ta làm đồ đệ”.
Chàng ngồi trên bờ vực bồi hồi bàng hoàng, bụng lại ngâm ngẩm đau, đột nhiên nghĩ ra: “Chao ôi! Không xong rồi, quả là hồ đồ quên khuấy đi mất! Khi ta ở trong sơn động đã từng bái thần tiên tỉ tỉ làm thầy, thế là môn đồ phái Tiêu Dao. Môn đồ phái Tiêu Dao làm sao có thể đổi qua làm môn đồ của Nam Hải Ngạc Thần được? Đúng đó, ta phải nói cho tên ác nhân đó nghe như thế, làm sao cho đanh thép để hắn phải luôn mồm: “Lời đó xem ra cũng có lý” mới được”.
Chàng lại nghĩ thêm: “Tên ác nhân đó thể nào cũng bắt ta phải lộ chút võ công phái Tiêu Dao cho y xem nhưng ta có biết gì đâu, làm sao y tin ta là đệ tử phái Tiêu Dao được? Thần tiên tỉ tỉ đã dặn là mỗi ngày sáng trưa chiều ba lần phải luyện thần công trong cuộn lụa, mấy hôm nay chuyện rối bòng bong, chưa luyện được chút nào, quả thật đáng chết”. Chàng trong bụng hổ thẹn, đang định cho tay vào bọc lấy cuộn sách ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay đầu nhìn lại giật mình hoảng hốt, thấy từ ghềnh đá lục tục kéo ra đến mấy chục người.
Người đi đầu chính là bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền, phía sau là chưởng môn Đông Tông Vô Lượng Kiếm Tả Tử Mục, chưởng môn Tây Tông Tân Song Thanh, ngoài ra là bang chúng bang Thần Nông và các đệ tử của hai tông Vô Lượng Kiếm xen lẫn nhau. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao hai bên lại không đánh nhau? Đổi thù thành bạn thật là tốt quá!”.
Chỉ thấy mọi người chia ra làm hai hàng hai bên, cung kính khom lưng, ra vẻ đang chờ đợi người nào đó đi tới. Chỉ giây lát có bóng xanh thấp thoáng, triền núi đi ra tám cô gái, người nào cũng mang áo khoác ngoài màu bích lục, trên thêu một con đại bàng đen. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ thầm: “Thôi đời ta tàn rồi!”. Tám người con gái đo chia thành hai bên mỗi hàng bốn người, tiếp theo lại có một người cũng mang áo khoác màu lục khác đi tới. Người con gái đó độ chừng khoảng hai mươi, dung mạo thanh tú nhưng trong đầu mày cuối mắt có ẩn sát khí, đưa mắt nhìn Đoàn Dự:
- Ngươi là ai? Ở đây làm gì?
Đoàn Dự nghe hỏi thế trong bụng mừng rỡ: “Nàng ta chưa biết mình và Mộc cô nương giết bốn người chị em đồng bọn, lại mạo xưng thánh sứ của Linh Thứu Cung. Cũng may cái áo choàng của mình đã chùm lên người mụ mập Bình bà bà, còn của Mộc cô nương thì đã bị gió bay xuống sông Lan Thương rồi, tử vô đối chứng, ta cứ chối phắt đi là xong”. Chàng bèn nói:
- Tại hạ là Đoàn Dự người Đại Lý, theo người ta đến Vô Lượng Cung làm khách của vị Tả tiên sinh đây ...
Tả Tử Mục xen vào:
- Đoàn bằng hữu, Vô Lượng Kiếm đã qui thuộc làm bộ hạ Thiên Sơn Linh Thứu Cung, Vô Lượng Cung nay đổi thành Vô Lượng Động, ba chữ Vô Lượng Cung từ nay trở đi xin đừng nhắc đến nữa.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra ngươi đánh không lại người ta nên nhận thua đầu hàng rồi, tính toán thế kể cũng khôn ngoan lắm”. Chàng bèn nói:
- Chúc mừng Tả tiên sinh bỏ chỗ tối tìm về chỗ sáng, thật là hay quá.
Tả Tử Mục nghĩ thầm: “Ta có làm gì đâu mà bảo là “tối”? Còn bây giờ có cái gì để gọi là “sáng”?”. Y tuy nghĩ thế nhưng không dám nói ra, chỉ đành gượng cười.
Đoàn Dự nói tiếp:
- Tại hạ thấy Tư Không bang chủ và Tả tiên sinh có điểm hiểu lầm nhau nên tỏ lòng tốt tiến ra khuyên giải, ngờ đâu lại gây thêm rắc rối. Tôi phụng mệnh Tư Không bang chủ đi kiếm giải dược ngờ đâu lại gặp một tên đại ác nhân, tên là Nam Hải Ngạc Thần Nhạc lão tam. Y bảo tôi tư chất khá nhất định thu làm đồ đệ, tôi nói tôi không thích học võ công nhưng gã Nam Hải Ngạc Thần không biết phải quấy, bắt tôi đem bỏ trên đây để ép tôi không bái y làm thầy không được. Tại hạ trói gà không chặt ...
Nói tới đây chàng giang tay ra làm thế, nói tiếp:
- Trên đỉnh núi cao, vách đá hiểm trở thế này, làm sao mà xuống cho được. Cô nương hỏi tôi ở đây làm chi? Ở đây chờ chết chứ còn làm gì được nữa.
Những câu chàng nói không có chút nào giả dối, đoạn đầu cũng đúng, đoạn sau cũng không sai nhưng có điều khúc giữa chàng bỏ hết không nói tới, nghĩ thầm: “Khổng phu tử cắt bỏ bớt để viết Xuân Thu, chỉ thuật lại mà không thêm vào, cắt chỗ này một khúc, chỗ kia một khúc cũng đâu có vi phạm cái đạo của thánh nhân, nói láo cũng vẫn có thể là người quân tử”.
Cô gái kia “Ồ” một tiếng nói:
- Tứ Đại Ác Nhân quả đã đến Đại Lý thật rồi. Nhạc lão tam muốn thu ngươi làm đồ đệ, vậy tư chất ngươi có cái gì đáng kể?
Nàng ta không đợi Đoàn Dự trả lời, mắt đảo qua nhìn Tư Không Huyền và Tả Tử Mục hỏi:
- Lời y không có gì giả dối chứ?
Tả Tử Mục đáp:
- Dạ, không.
Tư Không Huyền trả lời:
- Khải bẩm thánh sứ, tiểu tử này không biết chút võ công nào nhưng làm bậy làm bạ hỏng hết mọi việc.
Cô gái nói:
- Các ngươi nói là trông thấy hai đứa tiện nhân mạo xưng bọn ta chạy về phía ngọn núi này, nay ở đâu? Đoàn tướng công, ông có thấy hai người đàn bà mặc áo khoác màu xanh giống như bọn ta đây không?
Đoàn Dự đáp:
- Không thấy, tôi không thấy hai người đàn bà ăn mặc giống như các tỉ tỉ.
Chàng nghĩ thầm: “Mặc áo khoác màu lục mạo xưng các ngươi là một nam một nữ đấy chứ. Ta có soi gương đâu làm sao thấy mình được; còn Mộc cô nương thì là một người đàn bà chứ nào phải là hai người đàn bà”.
Cô gái gật đầu, quay sang hỏi Tư Không Huyền:
- Ngươi vào làm thuộc hạ Linh Thứu Cung cũng đã lâu rồi đấy nhỉ?
Tư Không Huyền lập cập đáp:
- Đã ... đã tám năm.
Cô gái kia nói:
- Đến chị em bọn ta ngươi cũng không nhận ra, hồ đồ đến thế còn làm được việc gì cho Đồng Mỗ lão nhân gia? Thuốc giải Sinh Tử Phù năm nay, ngươi đừng trông mong gì nữa.
Tư Không Huyền mặt xám ngoét, quì xuống đất, liên tiếp rập đầu van xin:
- Thánh sứ khai ân, thánh sứ khai ân!
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Gã râu dê này chưa chết, không lẽ thuốc giải Mộc cô nương cho y lại công hiệu sao, hay là Linh Thứu Cung cho y linh đan diệu dược gì khác? Giải dược Sinh Tử Phù là cái món gì đây?”.
Cô gái đó không thèm ngó ngàng gì đến Tư Không Huyền nữa, nói với Tân Song Thanh:
- Đưa Đoàn tướng công xuống núi. Tứ Đại Ác Nhân nếu như đến bắng nhắng thì bảo chúng lên Linh Thứu Cung núi Phiêu Miểu kiếm ta. Việc đi bắt hai đứa mạo danh nay thuộc về trách nhiệm của Vô Lượng Động. Hừ hừ, quả là lớn mật! Còn nữa, Can Quang Hào, Cát Quang Bội hai đứa phản đồ phải bắt về đem giết đi. Khi nào gặp bốn chị em của bọn ta bảo là ta ra lệnh trở về Linh Thứu Cung ngay, ta không đợi họ được nữa.
Cô ta nói tới đâu, Tân Song Thanh vâng dạ tới đó nhưng không dám nhìn thẳng vào mặt. Cô gái nói xong, không thèm ngó ngàng gì thêm, lập tức xuống núi, tám người thuộc hạ lẽo đẽo đi theo.
Tư Không Huyền từ nãy giờ vẫn quì dưới đất thấy chín cô gái hạ phong rồi, vội vàng đứng lên chạy ra bờ vách kêu lên:
- Phù thánh sứ, xin người về bẩm lại với Đồng Mỗ, Tư Không Huyền thật không phải với lão nhân gia.
Y chạy tới bên vực sâu tung mình nhảy xuống giòng sông Lan Thương. Mọi người ai nấy kinh hãi kêu lên, bang chúng Thần Nông Bang hối hả chạy tới bờ vách chỉ thấy sóng nổi cuồn cuộn, ào ào chảy qua, không còn thấy bang chủ đâu, có người liền đấm ngực khóc òa lên.
Những người trong Vô Lượng Kiếm thấy số phận Tư Không Huyền bi thảm như thế, ai nấy mặt mày ngơ ngẩn, thần sắc bàng hoàng.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cái chết của vị bang chủ Tư Không Huyền này, liên hệ với ta thật không phải ít”. Chàng thấy trong lòng tràn đầy ăn năn. Tân Song Thanh chỉ vào hai nam đệ tử bên Đông Tông nói:
- Các ngươi lo đưa Đoàn tướng công xuống núi.
Hai người đó một người tên Úc Quang Tiêu, một người tên Ngô Quang Thắng cùng khom lưng vâng dạ.
Đoàn Dự nhờ có hai gã Úc Ngô đỡ đón nên xuống được chân núi không mấy khó khăn, thở phào một cái, quay sang Tả Tử Mục và Tân Song Thanh chắp tay nói:
- Xin cảm ơn đưa xuống núi, vậy xin từ biệt.
Chàng nhìn vào ngọn núi Nam Hải Ngạc Thần đã chỉ nghĩ thầm: “Lên được ngọn núi này, so với xuống núi còn gian nan gấp mấy lần. Xem ra bọn người Vô Lượng Kiếm chắc chẳng tử tế đến mức giúp gì thêm, đành một mình trèo lên vậy. Vì phải cứu Mộc cô nương thôi ta đành liều mạng cho xong”.
Ngờ đâu Tân Song Thanh nói:
- Ngươi không đi được, phải theo ta về Vô Lượng Động.
Đoàn Dự vội chối từ:
- Không, không! Tại hạ có việc cần phải đi, không thể phụng mệnh được. Xin tha lỗi cho!
Tân Song Thanh hừ một tiếng, vẫy tay ra hiệu, Úc Ngô hai người mỗi đứa giơ tay nắm một bên, giữ chặt Đoàn Dự, xềnh xệch lôi đi. Đoàn Dự kêu lên:
- Này, này! Tân chưởng môn, Tả chưởng môn, Đoàn Dự này có đắc tội gì với quí vị đâu. Lúc nãy vị thánh sứ tỉ tỉ chỉ bảo đưa ta xuống chân núi, nay đến nơi ta cảm ơn các vị, còn muốn gì nữa?
Tân Song Thanh và Tả Tử Mục không thèm nói gì. Đoàn Dự bị hai gã Úc Ngô áp tải hai bên không thể nào kháng cự được, đành phải theo chúng về Vô Lượng Động.
Hai gã Úc Ngô dẫn Đoàn Dự đi qua năm gian phòng rồi lại qua một vườn hoa lớn đến trước một căn nhà ba gian. Ngô Quang Thắng mở cửa phòng, Úc Quang Tiêu liền đẩy mạnh vào lưng chàng khiến Đoàn Dự nhào vào trong nhà rồi lập tức đóng cửa lại, chỉ nghe lạch cạch bọn chúng đã khóa ở bên ngoài.
Đoàn Dự kêu lớn:
- Các ngươi Vô Lượng Kiếm có biết phải quấy gì không? Thế này thì ta có khác gì phạm nhân đâu? Vô Lượng Kiếm nào có phải quan phủ sao dám tự tiện bắt người?
Bên ngoài không nghe động tĩnh, dẫu chàng có gào thét cách mấy cũng chẳng ai thèm ngó ngàng gì đến. Đoàn Dự thở dài nghĩ thầm: “Thôi thì đến đâu hay đó, cũng chỉ đành phó thác cho số mệnh”. Quãng đường xuống được núi rồi đi về đến đây chàng đã mỏi mệt lắm rồi, thấy trong phòng có giường có bàn, chàng liền trèo lên giường nằm ngủ.
Ngủ chưa bao lâu thì có người đem cơm đến, ăn uống cũng không đến nỗi đạm bạc. Đoàn Dự nói với người bộc dịch:
- Nhờ ông lên bẩm với Tả Tân hai vị chưởng môn, nói tôi có chuyện ...
Chàng chưa nói dứt câu đã nghe Úc Quang Tiêu ở bên ngoài quát tháo:
- Họ Đoàn kia, ngươi để yên cho ta, muốn ngồi thì ngồi, muốn nằm thì nằm, nếu còn léo nhéo xí xố, đừng nói chúng ta sao không nể nang. Ngươi mà còn mở mồm nói một câu, ta sẽ cho ngươi một bạt tai, nói hai câu, hai bạt tai, ba câu ba cái. Ngươi biết đếm đấy chứ?
Đoàn Dự vội vàng ngậm miệng, nghĩ thầm: “Thằng cha bặm trợn này nói sao làm vậy. Ta tuy bị Mộc cô nương tát mấy cái thật nhưng tuy đau trên má, trong bụng lại vui vui. Còn như bị anh chàng này cho ăn bạt tai, mùi vị chắc không phải như thế đâu!”. Chàng ăn ba bát đầy rồi lại nằm trên giường mà ngủ, nghĩ thầm: “Mộc cô nương lúc này không biết ra sao rồi? Tốt nhất là nàng phóng tên độc giết được Nam Hải Ngạc Thần, chạy thoát ra đến đây cứu mình. Ôi! Sao ta lại mong nàng giết người?”. Chàng nghĩ ngợi vẩn vơ một hồi rồi lại ngủ tiếp.
Lần này chàng ngủ mãi đến sáng hôm sau mới dậy. Trong phòng trần thiết giản dị, các cửa sổ đều có song sắt, xem ra là chỗ để Vô Lượng Kiếm giam người nhưng được cái thoáng mát rộng rãi nên cũng không đến nỗi thấy tù túng. Chuyện đầu tiên chàng tính đến là theo lời dặn dò của thần tiên tỉ tỉ tập luyện Bắc Minh thần công nên mò trong bọc ra quyển trục, mở trên bàn, vừa nghĩ đến hình người khỏa thân trong cuốn lụa, tim chàng không khỏi đập bình bình, mặt đỏ tía tai, vội vàng ngồi ngay ngắn, khấn thầm: “Thần tiên tỉ tỉ, đệ tử tuân hành lời tỉ tỉ dặn dò, tu tập thần công chứ không phải cốt nhìn trộm quí thể của tỉ tỉ, xin đừng trách cứ”.
Chàng từ từ mở cuộn lụa ra, đọc kỹ những chữ nhỏ viết bên cạnh đồ hình thứ nhất vài lần. Những công phu ghi trên đó chàng đọc dễ dàng chẳng khác gì ăn cơm hàng ngày, chỉ lướt qua là hiểu ngay, đọc đến lần thứ hai thì đã thuộc, đọc đến lần thứ ba thì đã thông hiểu kỹ càng. Chàng không dám nhìn lâu hình vẽ người đàn bà, chỉ ghi nhớ kinh mạch và vị trí huyệt đạo rồi theo những pháp môn ghi chú trong cuộn lụa mà tập luyện.
Trong văn có viết rằng:
Nội công bản môn so với các môn các phái khác thì đi ngược chiều, những ai từng tu tập nội công thì phải quên hết những gì đã học, chuyên tâm tu tập công phu mới, nếu như lẫn lộn với nhau thì hai công phu ắt sẽ chống chỏi, lập tức điên cuồng thổ huyết, các kinh mạch bị phế, cực kỳ hung hiểm.
Trong kinh văn nhắc đi nhắc lại điểm này, coi đây là một vấn đề hết sức trọng đại. Đoàn Dự trước nay chưa hề tập qua nội công nên điểm tối gian nan này không hề quan tâm lại thấy thật là dễ dàng.
Chỉ khoảng nửa giờ chàng đã làm được y như trong hình vẽ, nhớ hết các kinh mạch huyệt đạo trong Thủ Thái Âm Phế Kinh, có điều trong người không có chút nội tức nào nên không làm sao vận chuyển chân khí chạy tới kinh mạch. Tiếp theo chàng luyện sang Nhâm Mạch, mạch này khởi đầu từ huyệt Hội Âm nằm ở giữa hậu môn và sinh thực khí theo các huyện Khúc Cốt, Trung Cực, Quan Nguyên, Thạch Môn ... đi thẳng lên qua bụng, ngực, yết hầu đến tận huyệt Ngân Cơ ở hàm dưới trong mồm. Nhâm Mạch huyệt đạo rất nhiều nhưng mạch chạy thẳng từ dưới lên trên rất là giản dị, chỉ giây lát Đoàn Dự đã nhớ hết những vị trí và tên huyệt đạo, giơ tay sờ thử tất cả những huyệt trên người mình. Mạch này cũng luyện chiều nghịch đi từ Ngân Cơ, Thừa Tương, Liêm Tuyền, Thiên Đột chạy xuống tới Hội Âm thì ngừng.
Trong hình vẽ có nói:
Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch là cơ sở của Bắc Minh thần công trong đó huyệt Thiếu Thương ở ngón tay cái, và huyệt Đãn Trung ở giữa hai vú, là hai nơi quan trọng nhất, một đằng thu vào một đằng chứa lấy. Con người có bốn biển: dạ dày là biển chứa nước và cốc loại, Xung Mạch là biển của mười hai kinh, Đãn Trung là biển của khí, còn não bộ là biển của tủy. Ăn uống chứa vào vị, trẻ sơ sinh vừa mới đẻ đã biết nhưng người ta ăn uống chỉ không quá một ngày đã phải thải ra ngoài. Ta thu nội lực của người một phân cũng giữ lại một phân, không hề tiết ra, càng tích trữ càng nhiều, chẳng khác gì ao trời Bắc Minh có thể cho cá côn dài nghìn dặm vùng vẫy.
Đoàn Dự cuộn trục lại nghĩ thầm: “Môn công phu này chuyên luyện theo đường lối hại cho người để lợi cho mình, đem nội lực người khác mất bao công phu luyện được thu vào tích trữ tại thân thể mình chẳng phải là ăn thịt uống máu người ta hay sao? Thế có khác gì kẻ tham lam vơ vét tiền tài người ta lấy làm của mình? Ta đã nhận lời thần tiên tỉ tỉ không luyện không xong nhưng trong đời ta nhất định không đi hút nội lực của người khác”.
Chàng lại nghĩ thêm: “Bá phụ thường dạy rằng con người sống trên đời, nếu không ăn không mặc thì không thể sống được. Thế nhưng một bát cháo, một bát com, một vuông vải, một mảnh khăn cũng đều là lấy của người khác. Lấy của người khác là chuyện không thể tránh được, có điều phải báo đáp như thế nào? Nếu thu vào ít mà báo đền nhiều thì được. Nếu lấy của kẻ giàu có bất nhân để đem cho kẻ nghèo hèn không cơm áo thì cũng không có điều gì đáng hổ thẹn, hành vi nhân nghĩa của nhà nho, hay tâm từ bi của nhà Phật cũng đều như thế. Lấy máu lấy mỡ của dân để tiêu xài xa xỉ cho thỏa cái lòng tham của mình thì là đường lối tàn dân; còn như đem ra làm điều thiện cho cả thiên hạ, bố thí cho khắp mọi người thì là Phật sống của muôn nhà. Thành thử không phải ở chuyện thu hay không thu, mà tại cách dùng thiện hay ác”.
Chàng nghĩ cho rõ ràng rồi thấy tu tập môn công phu này không có gì còn đáng chê trách nữa. Chàng thấy thoải mái trong lòng, nghĩ tiếp: “Nói đúng ra ta từ khi sinh ra chỉ muốn làm điều hay, không muốn làm điều dở. Con voi to lớn kia có thể mang được nghìn cân, con kiến nhỏ bé kia chỉ mang được một hạt cải, lực có lớn mới làm được chuyện lớn nhưng nếu làm đều xấu cũng càng xấu hơn. Với bản lãnh như Nam Hải Ngạc Thần nếu biết chuyên tâm làm điều tốt há chẳng tạo phúc nhiều lắm hay sao?”. Chàng nghĩ như thế rồi, tự nhủ nếu phải bái Nam Hải Ngạc Thần làm thầy thì sẽ chỉ bẻ cổ những kẻ xấu, xem ra “Lời đó nghe cũng có lý”.
Trong quyển trục này ngoài ra còn rất nhiều phương pháp tu tập kinh mạch, tất cả đều dạy phép làm sao thu được nội lực của người khác, Đoàn Dự tuy đã giải quyết được khúc mắc trong lòng nhưng vẫn cảm thấy dường như tu tập sẽ ngược lại với bản tính của mình, ngay cả việc tham lam muốn đủ mọi thứ cũng đã không có gì hay nên gác qua một bên chưa ngó đến vội.
Chàng giở đến cuối cuốn trục lại gặp bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ liền nghĩ ngay đến bài Lạc Thần Phú có mấy câu:

Chú thích
1 Hai bên cùng chết
2 Trong sách tướng gọi là Trẩm Cốt, là một trong chín xương đầu mà người Trung Hoa coi là có ý nghĩa rất quan trọng. Thần Tướng Toàn Biên viết: Chỗ kỳ lạ của xương sọ là ở chỗ xương sau đầu thành trẩm. Người có trẩm cốt chẳng khác gì trong đá núi có ngọc, trong sông có châu (ngọc trai) ... Xương đằng sau ót sách gọi là Tinh Thai, nếu nổi lên thì gọi là Trẩm Cốt. Người có trẩm cốt rộng thì phú quí, lép hãm thì bần tiện. Trẩm cốt còn gọi là Ngọc Trẩm. (Xin đọc thêm Những Nguyên Lý của Tướng Học của dịch giả)
3 đao hình như cái kéo
4 lấy nhàn tản chống lại nhọc mệt, mình đứng yên mà địch chạy đông chạy tây, kế thứ 4 trong 36 kế.
5 Vạn loại hoa cỏ tranh nhau vẻ đẹp
6 rìu chặt cây
7 Phú ca tụng nữ thần sông Lạc. Lạc thần tức là Mật Phi, con gái họ Mật Hi, chết đuối nơi sông Lạc biến thành thần. Theo sách Hán Thư Âm Nghĩa, Tào Thực (Tử Kiến, con trai út của Tào Tháo nổi tiếng bảy bước thành thơ) làm bài Lạc Thần Phú để ca tụng Chân Phi. Sử chép rằng Chân thị vốn


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptyFri Aug 06, 2010 7:47 pm

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 

Bước đi uyển chuyển đùa trên sóng,
Thấp thoáng xiêm y phủ gót hài.
Lăng ba vi bộ,
La miệt sinh trần ...
Long lanh cuối mắt nhu tình chuyển,
Rạng rỡ bừng lên nét ngọc nhan.
Sóng lòng e ấp khôn đường lộ,
Hơi thở thơm nồng thoảng tựa lan.
Mặt hoa xinh xắn ai là kẻ,
Ăn ngủ thẫn thờ dạ chẳng an.
Chuyển phán lưu tinh,
Quang nhuận ngọc nhan.
Hàm từ vị thổ,
Khí nhược u lan.
Hoa dung a na,
Lệnh ngã vong xan.

Những câu đó của Tào Tử Kiến quả là danh cú của muôn đời, trong óc chàng chầm chậm lướt qua:
Ngón tay thon thon,
Búp măng vừa vặn.
Bờ vai nho nhỏ,
Lưng thắt gọn gàng.
Mỹ lệ thanh thanh,
Cổ cao trắng muốt,
Hương thơm ngây ngất,
Thấp thoáng mịn màng.
Mái tóc bồng bềnh,
Môi son hé mở,
Răng đều như ngọc.
Sóng mắt mênh mang.
Má núm đồng tiền.
Mày lượn mi loan.
Thần thái tĩnh nhàn.
Dáng vẻ cao sang,
Lời ăn tiếng nói,
Êm ái dịu dàng ...
Nùng tiêm đắc trung,
Tu đoản hợp độ.
Kiên nhược tước thành,
Yêu như ước tố.
Diên cảnh tú hạng,
Hạo chất trình lộ.
Phương trạch vô gia,
Duyên hoa phí ngự.
Vân kế nga nga,
Tu mi liên viên.
Đan thần ngoại lãng,
Hạo xỉ nội tiên,
Minh bạn thiện lai,
Phụ yểm thừa quyền.
Hoàn tư diễm dật,
Nghi tĩnh thể nhàn.
Nhu tình xước thái,
Mị ư ngữ ngôn ...

Chàng nghĩ đến dáng điệu thể thái của thần tiên tỉ tỉ:
Rạng rỡ bình minh quyện ráng pha,
Phù dung thấp thoáng sóng vờn hoa.
Hạo nhược thái dương thăng triêu hà,
Thước nhược phù dung xuất lục ba.

Nghĩ đến được nàng sai bảo mà làm thì trên đời này còn gì khoái lạc hơn, dù có phải chết trăm lần cũng chẳng nề, dẫu cho vạn kiếp cũng không hối hận. Chàng nghĩ thầm: “Ta luyện môn Lăng Ba Vi Bộ này trước, đây là phép chạy trốn không phải là bản lãnh hại người, luyện xem ra hàng trăm điều lợi mà không có gì hại cả”.
Trên quyển trục vẽ rõ ràng bộ pháp, lại ghi chú rõ sáu mươi tư phương vị của Dịch Kinh. Chàng vốn rất quen thuộc cuốn kinh này nên học không có gì khó khăn. Tuy nhiên nhiều khi bộ pháp trong cuốn trục thật kỳ lạ, đi một bước rồi không làm sao bước được qua bước thứ hai, mãi đến khi chàng nghĩ ra nhảy lên trên không xoay người lại, lúc đó mới khéo làm sao hợp ngay với bước kế tiếp. Cũng có khi phải nhảy về trước rồi búng mình ra sau, né bên trái lách qua phải mới hợp với bộ pháp trong cuộn lụa.
Cái tính mê sách của chàng nổi lên gặp chuyện gì khó liền ngồi suy nghĩ cho bằng được, đến khi hiểu ra rồi càng thấy sướng rơn, không có cách nào tả cho hết lúc ấy mới thấy rằng: “Thì ra trong võ học cũng có những lạc thú vô cùng như thế này, không kém gì đọc sách tụng kinh”.
Như thế một ngày trôi qua, bộ pháp trên cuốn trục đã học được hai ba thành, sau khi ăn cơm chiều lại học thêm được mươi bước rồi mới lên giường ngủ. Chàng mơ mơ hồ hồ nửa thức nửa ngủ, trong đầu đi qua đi lại nào là Thiếu Thương, Đãn Trung, Quan Nguyên, Trung Cực các huyệt đạo, rồi tới Đồng Nhân, Đại Hữu, Qui Muội, Vị Tế các quẻ Dịch.
Ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng uềnh oang, uềnh oang mấy tiếng thật lớn, lập tức tỉnh dậy. Chẳng bao lâu, lại nghe thêm mấy tiếng uềnh oang, uềnh oang nữa, tiếng kêu tưởng như bò rống nhưng lại có vài phần hung tợn, không biết là con mãnh thú gì. Chàng biết trong dãy núi Vô Lượng này có nhiều độc trùng quái thú, thấy tiếng rống kia ngưng rồi nên cũng không để tâm, lại ngủ tiếp.
Bỗng nghe văng vẳng phía bên kia có người nói:
- Con Mãng Cổ Chu Cáp lâu lắm mới lại thấy xuất hiện, tối qua bỗng dưng kêu, không biết là điềm lành dữ ra sao?
Lại một người khác nói:
- Phe Đông Tông chúng ta bị rơi vào cảnh ngộ này, làm sao mà còn bảo là lành được, chỉ mong họa không xảy đến cũng đã tạ trời tạ đất rồi.
Đoàn Dự nhận ra ngay là hai tên nam đệ tử Úc Quang Tiêu và Ngô Quang Thắng ắt hẳn ngủ ở bên vách bên kia, phụng mệnh giám thị phòng mình đào tẩu. Lại nghe gã Ngô Quang Thắng nói tiếp:
- Vô Lượng Kiếm chúng ta qui thuộc Linh Thứu Cung tuy rằng từ nay bị người ta chế ngự, không còn tự do được nữa nhưng lại được quả núi lớn này, kể ra nửa xấu nửa tốt. Chỉ có điều tức nhất, Tây Tông rõ ràng kém Đông Tông mình, tại sao vị Phù thánh sứ kia lại cho Tân sư thúc làm chủ Vô Lượng Động, sư phụ chúng ta lại phải chịu dưới quyền là cớ làm sao?
Úc Quang Tiêu đáp:
- Thì Linh Thứu Cung từ Đồng Mỗ trở xuống toàn là phái nữ cả, họ cho rằng trong thiên hạ nam nhân chẳng một ai ra gì. Nghe nói vị Phù thánh sứ kia cũng có bụng nâng đỡ mình mới để Tân sư thúc đứng đầu, nên Linh Thứu Cung cũng biệt nhãn với Vô Lượng Động. Ngươi xem đó, Phù thánh sứ đối với Tư Không Huyền của Thần Nông Bang ra tay độc ác biết bao, đối với Tân sư thúc mặt mày cũng dễ coi hơn nhiều.
Ngô Quang Thắng nói:
- Úc sư ca, có một chuyện đệ không minh bạch. Phù thánh sứ sao đối với tên tiểu tử ở vách bên kia sao có vẻ khách khí thế? Gì mà Đoàn tướng công, Đoàn tướng công gọi nghe thân mật quá.
Đoàn Dự nghe bọn chúng nói đến mình càng cố gắng lắng tai nghe. Úc Quang Tiêu cười nói:
- Mấy câu đó chúng mình chỉ nên thì thầm ở đây với nhau thôi. Một cô gái tuổi trẻ, nói chuyện ngọt ngào nể nang với một gã mặt trắng, một “Đoàn tướng công”, hai “Đoàn tướng công” ...
Y nói tới ba chữ “Đoàn tướng công” cố ghìm giọng bắt chước người thánh sứ Linh Thứu Cung làm ra vẻ yểu điệu, lại thêm mấy phần õng ẹo:
- ... thì ngươi đoán thử là vì đâu?
Ngô Quang Thắng nói:
- Không lẽ Phù thánh sứ để mắt vào tên mặt trắng kia?
Úc Quang Tiêu đáp:
- Nói khẽ chứ, đừng để thằng lỏi mặt trắng nghe được.
Y cười nói tiếp:
- Ta nào có ở trong bụng Phù thánh sứ đâu mà biết được, làm sao rõ thánh ý của lão nhân gia? Ta nghĩ rằng Tân sư thúc cũng nhìn ra điều đó nên mới bảo bọn mình chăm sóc cho kỹ càng, đừng để y chạy mất.
Ngô Quang Thắng nói:
- Thế thì phải giam y đến chừng nào?
Úc Quang Tiêu đáp:
- Phù thánh sứ ở trên đỉnh núi có nói: “Tân Song Thanh, đưa Đoàn tướng công xuống núi, Tứ Đại Ác Nhân nếu như đến quấy quả thì bảo họ lên Linh Thứu Cung núi Phiêu Miểu tìm ta...”
Mấy câu đó y học điệu bộ của cô gái áo xanh:
- ... Thế thì đem Đoàn tướng công xuống núi để làm gì? Nếu như lão nhân gia không nói, người ngoài ai dám hỏi. Lỡ như một ngày nào đó Phù thánh sứ đột nhiên sai người tới bảo là: “Tân Song Thanh, đưa Đoàn tướng công lên Linh Thứu Cung gặp ta” mà lúc đó mình đã đem gã họ Đoàn giết mất hay thả ra rồi thì có phải trời ơi đất hỡi không?
Ngô Quang Thắng nói:
- Nếu như Phù thánh sứ sau này không nói năng gì cả chẳng lẽ mình cứ giữ gã mặt trắng này ở đây, chờ tới khi nào có hiệu lệnh của Phù thánh sứ mới thôi ư?
Úc Quang Tiêu cười:
- Chứ còn gì nữa?
Đoàn Dự trong bụng kêu thầm: “Chết rồi! Hỡi ôi! Cô nàng Phù thánh sứ tỉ tỉ kính trọng gọi mình một câu Đoàn tướng công, chẳng qua vì mình là kẻ nho sinh nên nể nang vài phần, bọn chúng sợ bóng sợ gió, nghĩ ra thành chuyện nọ kia? Nếu bọn chúng nhốt mình cho tới khi râu bạc trắng rồi, vị Phù thánh sứ kia có ngờ đâu mình lại thành một tên già mặt trắng”.
Chàng còn đang rầu rĩ bỗng nghe Ngô Quang Thắng nói:
- Thế hai đứa mình chẳng hóa ra ...
Vừa nói tới đây đột nhiên lại nghe uềnh oang, uềnh oang, uềnh oang ba tiếng lớn, con Mãng Cổ Chu Cáp kia lại kêu lên. Ngô Quang Thắng lập tức nín bặt. Một lúc sau không thấy Mãng Cổ Chu Cáp kêu thêm nữa y mới nói:
- Mỗi khi Mãng Cổ Chu Cáp kêu thì tiểu đệ lại ớn xương sống, ông thần ôn dịch này không biết sẽ lấy bao nhiêu mạng người đây.
Úc Quang Tiêu nói:
- Người ta vẫn bảo Mãng Cổ Chu Cáp là con vật thần ôn dịch dùng để cưỡi, thì cũng biết thế mà thôi. Văn Thù bồ tát cưỡi sư tử, Phổ Hiền bồ tát cưỡi voi trắng, Thái Thượng lão quân cưỡi trâu, còn con Mãng Cổ Chu Cáp là vua của mọi loại độc, thần thông quảng đại, độc tính rất ghê gớm các bậc cố lão đã đồn nó là ngựa cưỡi của Ôn Bồ Tát nhưng chắc gì đã đúng đâu.
Ngô Quang Thắng nói:
- Úc sư huynh thử xem con Mãng Cổ Chu Cáp này là giống gì?
Úc Quang Tiêu cười đáp:
- Ngươi có muốn đi xem chăng?
Ngô Quang Thắng cười:
- Sao sư huynh không đi xem rồi về kể cho tiểu đệ nghe.
Úc Quang Tiêu nói:
- Ta vừa trông thấy Mãng Cổ Chu Cáp độc khí liền xông lên mù mắt ngay, sau đó lan vào óc, e rằng không còn về để kể cho ngươi nghe về giống Vạn Độc Chi Vương này như thế nào. Sao cả hai đứa mình cùng đi có hơn không?
Nói xong nghe thấy bước chân người rồi tiếng mở then cửa. Ngô Quang Thắng lập cập nói:
- Thôi ... thôi đừng có đùa nữa.
Thanh âm của y run rẩy lại nghe y tiến ra đóng cửa lại. Úc Quang Tiêu cười:
- Ha ha, ta nào có gan dám đi ra xem. Coi kìa ngươi sợ đến mất vía.
Ngô Quang Thắng nói:
- Thôi đừng có đùa nhả kiểu này, lỡ có chuyện gì thì sao? Thôi thà để yên đi ngủ cho xong.
Úc Quang Tiêu đột nhiên đổi đề tài:
- Ngươi nghĩ xem hai đứa chó má Can Quang Hào và Cát Quang Bội có chạy thoát được không?
Ngô Quang Thắng nói:
- Lâu thế mà không thấy tăm hơi chúng đâu chắc là chạy thoát rồi.
Úc Quang Tiêu nói:
- Can Quang Hào tài cán được bao nhiêu, bọn ta biết rõ như ban ngày. Gã đó lười biếng hiếu sắc, luyện kiếm thì chểnh mảng, chỉ được cái tài nói ngon nói ngọt đi dụ con gái. Bọn mình đông nam tây bắc đã kiếm khắp nơi, ngay cả thánh sứ của Linh Thứu Cung cũng đích thân ra tay vậy mà vẫn để bọn chúng thoát được thì ta không tin.
Ngô Quang Thắng nói:
- Sư ca không tin cũng phải tin.
Úc Quang Tiêu nói:
- Ta đoán chừng đôi trai gái chó má này trốn vào trong núi sâu gặp phải Mãng Cổ Chu Cáp.
Ngô Quang Thắng kêu “A” lên một tiếng, tỏ vẻ sợ hãi, Úc Quang Tiêu tiếp:
- Hai người đó chắc là tìm những nơi thật vắng vẻ mà đi, gặp phải Mãng Cổ Chu Cáp độc khí ăn lên óc, toàn thân tan ra máu bầy nhầy thành thử chẳng còn dấu vết gì.
Ngô Quang Thắng nói:
- Sư ca đoán thế xem ra cũng đôi phần có lý.
Úc Quang Tiêu hỏi lại:
- Sao lại đôi phần có lý? Nếu như không gặp phải Mãng Cổ Chu Cáp thì có lý gì hơn chăng?
Ngô Quang Thắng nói:
- Không chừng hai đứa đó thèm quá nhịn không nổi, ở nơi hoang sơn dã lãnh hứng lên, trong lúc trời đất quay cuồng, ôm nhau ra chiêu “Lý Ngư Phiên Thân”, hì hì, không gượng được lăn tòm xuống vực sâu.
Hai người cùng hinh hích cười một cách cợt nhả. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi quán ăn Mộc cô nương bắn chết Can Cát hai người không lẽ phái Vô Lượng không biết được hay sao? Ồ, đúng rồi, chắc là người chủ quán sợ rắc rối nên lật đật đem hai đứa đó chôn ngay. Người của phái Vô Lượng đến tra hỏi người trong phố chợ thấy bọn chúng cầm binh khí, mặt mày hầm hầm như hung thần ác sát, còn ai dám nói gì nữa”.
Lại nghe Ngô Quang Thắng tiếp tục:
- Đông Tây Tông Vô Lượng Kiếm có hai nam nữ đệ tử đào tẩu thì cũng có gì to tát đâu. Thế nhưng thành đổ vua chẳng lo, gái góa lại lo , thánh sứ của Linh Thứu Cung làm gì mà gấp gáp thế, không bắt hai đứa về không xong?
Úc Quang Tiêu đáp:
- Nhà ngươi thử vắt óc ra nghĩ xem tại sao nào?
Ngô Quang Thắng trầm ngâm một hồi nói:
- Sư ca biết tiểu đệ đầu óc chậm lụt, nghĩ tới nghĩ lui cũng chẳng ra cái gì cả.
Úc Quang Tiêu nói:
- Ta hỏi ngươi nhé: Linh Thứu Cung muốn chiếm Vô Lượng Cung của bọn ta là vì cớ gì?
Ngô Quang Thắng đáp:
- Nghe Đường sư ca nói rằng có lẽ là vì Vô Lượng Ngọc Bích ở hậu sơn. Phù thánh sứ vừa đến, năm lần bảy lượt đều tra vấn chuyện tiên ảnh trên vách núi, kiếm pháp như thế nào.
Úc Quang Tiêu nói:
- Đúng thế! Chúng mình ai cũng phải tuân theo lệnh của thánh sứ thề độc rằng việc tiên ảnh trên ngọc bích không ai được tiết lậu. Can Quang Hào và Cát Quang Bội hai đứa đó không thề, nay đã ly khai bản phái, lẽ nào lại không nói ra?
Ngô Quang Thắng vỗ đùi kêu lên:
- Đúng rồi! Đúng rồi! Linh Thứu Cung vì thế muốn giết hai người đó diệt khẩu.
Úc Quang Tiêu quát khẽ:
- Đừng có ồn lên, vách bên kia có người ngươi quên rồi sao?
Ngô Quang Thắng vội đáp:
- Vâng! Vâng!
Y ngừng lại một chút nói tiếp:
- Gã Can Quang Hào thật là diễm phúc, vớ ngay được em mặt rỗ Cát Quang Bội trắng trẻo ngon lành thế kia, hai đứa ôm nhau trần như nhộng, chậc chậc ... con mẹ nó, dẫu có phải biến thành bầy nhầy máu me, cũng còn ... cũng còn ... hí hí.
Hai người tiếp tục nói chuyện, nói qua nói lại chỉ rặt những điều thô tục, Đoàn Dự không muốn nghe nhưng tiếng cười dâm đãng từ bên kia vách vẫn vọng qua, không nghe cũng không được nên cố tập trung nghĩ đến kinh mạch huyệt đạo trong Bắc Minh thần công chẳng bao lâu tinh thần chuyên chú những âm thanh từ bên kia không còn lọt vào tai nữa.
Hôm sau chàng lại luyện Lăng Ba Vi Bộ theo các bộ pháp trong cuộn trục, từng bước một mà diễn tập. Bộ pháp này ẹo qua trái, nghiêng qua phải dù tiến hay thoái cũng không có bước nào đi thẳng, tuy ở trong nhà nhưng chỉ cần tránh bàn tránh ghế là có thể hoàn toàn sử dụng được. Chàng học được mươi bước rồi nghĩ thầm: “Đợi đến khi gã đưa cơm đến đây, ta chỉ cần đi mấy bước nghiêng qua xéo lại này là lập tức thoát ra khỏi, chạy luôn ra cửa chưa chắc y đã bắt được mình. Nếu không chạy trốn cho nhanh không lẽ ở đây chờ thành ông già mặt trắng?”. Chàng nghĩ thế rồi trong bụng mừng vô hạn: “Ta phải luyện cho thật thuần thục chứ nếu chỉ sai nửa bước là bị y bắt được ngay. Nếu thế không chừng từ nay chân mình còn có thêm một sợi dây xích có khóa nữa, lúc đó thì Lăng Ba Vi Bộ dẫu hay đến đâu, cũng chỉ đi qua đi lại trong vòng sợi dây xích thì thành ông già mặt trắng là chắc chắn rồi”. Nghĩ đến đó chàng đã có chủ ý rõ rệt.
Đoàn Dự đem tất cả hơn trăm bước đã học rồi ôn lại một lượt từ đầu chí cuối, nghĩ thầm: “Ta phải làm cách nào không cần suy nghĩ, cứ bước là đúng. Ôi, Đoàn Dự này quả là một gã đàn ông chẳng ra gì, học đâu cái lối Lạc thần Mật Phi ưỡn a ưỡn ẹo đùa dỡn trên mặt sóng, ta làm gì có cái điệu “La miệt sinh trần”? Rách đít mông trần thì có!”.
Chàng bật cười ha hả, chân trái bước tới lập tức vào vị trí Trung Phu, chuyển qua Ký Tế. Ngờ đâu khi vừa bước lên vị trí quẻ Thái, xoay mình chân phải liền đạp vào vị trí Cổ trong Đan Điền bỗng có một làn khí nóng xông lên, người tê đi, ngã nhào về trước, nằm gục xuống bàn không sao cử động được.
Chàng kinh hãi vô cùng giơ tay vịn vào bàn, toan đứng lên ngờ đâu chân tay mọi nơi không còn như ý, đến cả muốn cử động một ngón tay cũng không được, giống như người ngủ bị bóng đè, càng hoảng hốt càng không động đậy gì được.
Chàng có biết đâu Lăng Ba Vi Bộ là một môn võ công thượng thừa, sở dĩ để ở cuối quyển trục vì muốn người ta luyện xong Bắc Minh thần công rồi, hút được nội lực người khác, chính mình nội lực cũng đã thâm hậu lúc đó mới luyện được. Lăng Ba Vi Bộ mỗi bước đi ra, hành động và nội lực có liên quan chặt chẽ, đâu phải chỉ dựa vào bước đi khéo léo là đủ đâu. Đoàn Dự hoàn toàn không có căn cơ nội lực, cứ đi một bước lại suy nghĩ một hồi, lùi một bước lại ngưng lại một chút thành ra huyết mạch cứ bị khựng lại nhưng chưa đến nỗi trở ngại. Đến khi chàng thuần thục rồi, đột nhiên há miệng thở ra, chân khí trong người tán loạn, lập tức tê liệt tưởng chừng như bị tẩu hỏa nhập ma. Cũng may chàng chỉ mới đi mấy bước, bước chân cũng chưa có gì nhanh nên chưa rơi vào nguy cơ tuyệt kinh mạch.
Chàng còn đang kinh hoàng cố gắng hết sức vùng vẫy nhưng càng ra sức trong ngực càng thấy khó thở dường như muốn nôn ra mà không được. Chàng thở dài đành nằm yên để cho tự nhiên đến đâu hay đó, sức ép trên ngực lập tức giảm đi. Chàng nằm gục trên bàn không nhúc nhích, quyển trục mở ra ngay trước mắt, không còn nghĩ ngợi gì nhìn đến ngay những phần chưa học, trong đầu tưởng đến bộ pháp, từng bước một duyệt qua một lượt. Đến hơn nửa giờ sau, chàng đã thông suốt tất cả hơn hai chục bước sau cùng, bao nhiêu tức ngực khó thở gần như đã hết.
Cho đến gần trưa, những bộ pháp chàng đã ôn lại hết lượt. Chàng bắt đầu lại tất cả sáu mươi tư quẻ, khởi thủy từ Minh Di qua đến Bí, Ký Tế, Gia Nhân đủ hết rồi đi một vòng trở về Vô Vọng, biết là bộ pháp mình học đã xong, trong lòng mừng rỡ nhảy nhổm lên vỗ tay kêu:
- Hay quá! Hay quá!
Bốn tiếng đó vừa ra khỏi miệng chàng mới thấy mình đã hoạt động lại được rồi. Thì ra nội tức của chàng vô hình chung theo ý nghĩ mà vận chuyển, đã đi đủ một vòng tròn nên những tắc nghẽn trong kinh mạch vì thế thông qua được rồi.
Chàng vừa mừng vừa sợ, đem bộ pháp của sáu mươi tư quẻ đó ôn đi ôn lại mấy lần cho thật thông, sợ rằng lại theo vết xe đổ cũ nên thật chậm rãi đi từng bước một, cứ mỗi bước lại nghỉ lấy hơi vài lần, sau khi đi đủ sáu mươi tư quẻ chân cũng đi thành một vòng tròn càng thấy đầu óc khoan khoái, toàn thân đầy rẫy sinh lực, không còn nhịn nổi kêu to:
- Hay thật! Hay thật? Hay thật là hay.
Úc Quang Tiêu ở ngoài cửa hầm hè quát:
- Ngươi la lối gì đó? Lão tử đã nói rồi, đâu phải chỉ để chơi. Ngươi nói một câu là ăn một cái tát.
Nói xong y mở khóa bước vào nói:
- Hồi nãy ngươi nói ba câu, ăn ba cái bạt tai. Thế nhưng mới phạm lần đầu, ba câu tính làm một, bợp tai ngươi một cái.
Y nói rồi bước tới giơ tay tát lên mặt Đoàn Dự.
Chưởng đó vốn chẳng phải chiêu số gì tinh diệu nhưng Đoàn Dự đâu có biết chống đỡ, đầu hơi nghiêng qua, chân tự nhiên đi xéo theo bộ pháp từ quẻ Tỉnh qua quẻ Tụng, tránh được cái tát đó.
Úc Quang Tiêu giận quá, quyền bên trái lập tức tống ra. Đoàn Dự bộ pháp chưa thuần thục đang định bước sang một bộ pháp khác thì bình một cái, ngực đã bị trúng một quyền ngay tại huyệt Đãn Trung.
Đãn Trung là một đại huyệt của con người, Úc Quang Tiêu đánh ra một quyền bỗng cảm thấy hối hận, sợ mình ra tay nặng quá gây ra đại họa, ngờ đâu đánh trúng Đoàn Dự rồi, cánh tay lập tức mềm nhũn không còn hơi sức, trong bụng lại thấy bàng hoàng trống trải, hơi ngạc nhiên nhưng bình thường lại ngay, thấy Đoàn Dự không bị thương mới yên tâm nói:
- Ngươi né được cái tát nhưng bù lại bị một đấm cũng được rồi, coi như đủ số.
Y quay người đi ra, khóa cửa phòng lại.
Đoàn Dự bị y đánh cho một quyền, nghe thật kêu nhưng nơi bị đấm trên ngực lại không cảm thấy gì khác, trong bụng không khỏi ngạc nhiên. Chàng nào có biết trong quyền của Úc Quang Tiêu có chứa nội lực nhưng bao nhiêu đều tống vào biển khí để bắt đầu tính trữ trong huyệt Đãn Trung. Việc đó kể cũng khéo léo, nếu quyền đó trúng phải nơi khác thì dẫu chàng không bị thương cũng đau thấu tâm can, còn huyệt Đãn Trung chính là nơi chất chứa Bắc Minh chân khí. Chàng tu tập thần công mới vài ba lần phải nói chưa có chút căn cơ nào, nếu như dùng huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái để hút nội lực người khác rồi theo Thủ Thái Dương Phế Kinh dẫn vào huyệt Thiên Đột trong Nhâm Mạch rồi tích trữ ở huyệt Đãn Trung, không nói gì chàng hoàn toàn không có khả năng mà dù có tu tập thành công cũng chẳng chịu hấp thu nội lực người khác về cho mình.
Thế nhưng đối phương tự ý đem nội lực trút vào huyệt Đãn Trung cho chàng, Đoàn Dự không có khả năng kháng cự, quyền vừa đụng phải người nội lực liền xâm nhập vào, đúng là của trên trời rơi xuống thế nhưng chàng lại chỉ bàng hoàng ngơ ngẩn nào có biết trời trăng gì, chỉ nghĩ: “Gã này quả là ngang ngược, ta chỉ nói mấy câu “Hay thật!” thì có đụng chạm gì đến y đâu? Tự nhiên khi không đấm mình một quả”.
Nội lực từ cú đấm đó chuyển động xoay vần trong biển khí của chàng, Đoàn Dự thấy tức ngực khó thở, liền thử vận hành Nhâm Mạch và Thủ Thái Âm Phế Kinh hai kinh lạc, thấy có một làn hơi ấm nhẹ nhàng chạy theo hai mạch này rồi lại quay về huyệt Đãn Trung, bao nhiêu khó chịu liền biến mất.
Chàng có biết đâu chỉ một vận hành một vòng tiểu chu thiên ngắn ngủi kia, chút nội lực đó sẽ vĩnh viễn giữ lại trong thân thể chàng không mất được nữa. Đoàn Dự từ chỗ không có chút nội lực nào trở thành có một chút xíu nội lực chính là từ một quyền Úc Quang Tiêu đấm chàng mà ra.
Cũng may là Úc Quang Tiêu nội lực chỉ bình thường, cũng chưa ra tay hết sức, chứ nếu như Nam Hải Ngạc Thần mà đấm vào huyệt Đãn Trung, Đoàn Dự hoàn toàn không có cơ sở nội lực nào, biển khí nơi huyệt Đãn Trung không thể kịp thời dung nạp thì thể nào kinh mạch cũng chấn đoạn, hộc máu chết ngay. Nội lực của Úc Quang Tiêu mất chẳng bao nhiêu nên cũng không hề phát giác.
Sau bữa cơm trưa, Đoàn Dự lại luyện Lăng Ba Vi Bộ, đi một bước lại hít vào, đi qua bước thứ hai thì thở ra, đi hết sáu mươi tư quẻ, chân tay không thấy bị tê mỏi, biết rằng nếu mình hô hấp đều hòa thì không có gì hại. Qua lần thứ hai chàng đi hai bước mớt hít một hơi, hai bước nữa mới thở ra. Pho Lăng Ba Vi Bộ này dùng động công để tu tập nội công, chân bước đủ sáu mươi tư quẻ thành một chu thiên thì nội tức cũng đi đúng một vòng. Thành thử mỗi khi chàng tập luyện hết một vòng thì nội công lại tiến bộ thêm một chút.
Thế nhưng Đoàn Dự không biết mình đang tu luyện nội công, chỉ mong bước đi càng lúc càng thành thuộc, càng đi càng nhanh nghĩ thầm: “Lúc đó Úc lão huynh đánh ta một cái ngay mặt, ta từ vị trí quẻ Tỉnh sang vị trí quẻ Tụng, bước đó quả không sai nên đã tránh được cái tát, kế đó ta đi xéo qua vị trí quẻ Cổ, một quyền đánh vào ngực cũng có thể tránh được. Thế nhưng ta vừa mới nghĩ đến chưa kịp bước đi thì quyền của đối phương đã đánh trúng rồi. Việc vừa mới nghĩ đến là do công phu còn chưa thuần thục mà ra. Nếu muốn dùng bộ pháp này để thoát thân không để đối phương túm được thì phải hết sức thuần thục, xuất bộ rồi không cần suy nghĩ gì hết. Không cần suy nghĩ và vừa mới nghĩ đến hai bên khác nhau một trời một vực, sống chết là ở đó”.
Nghĩ như thế chàng bèn chuyên tâm hết sức luyện tập bộ pháp, ngày ngày từ sáng đến tối, trừ lúc ăn lúc ngủ, đại tiện tiểu tiện ra, không lúc nào ngừng chân. Cũng có khi chàng nghĩ: “Ta nỗ lực luyện bộ pháp này chẳng qua chỉ nhằm đào tẩu thoát thân đi cứu Mộc cô nương chứ nào phải tuân theo lời dặn của thần tiên tỉ tỉ luyện Bắc Minh thần công đâu?”. Chàng nghĩ thế đâm ra áy náy lại luyện Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch nhưng chẳng qua làm cho có chuyện hầu được yên tâm còn những kinh mạch khác vẫn gác qua một bên chưa ngó ngàng gì đến.
Chàng luyện như thế được mấy ngày, Lăng Ba Vi Bộ tương đối đã thuần thục không còn phải đếm hơi thở dẫu có đi thật nhanh khí tức cũng không có chỗ nào bế tắc. Bước chân càng nhịp nhàng, chàng vừa đi vừa nghĩ đến những câu có liên quan đến Lăng Ba Vi Bộ trong bài Lạc Thần Phú:
Phất phơ mây phủ trăng mờ,
Vi vu gió thổi, vật vờ tuyết bay.
Phảng phất hề nhược khinh vân chi tế nguyệt,
Phiêu phiêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết.
Hay
Lồng lộng ngao du khắp đó đây,
Nhẹ nhàng thanh thoát gió chen mây.
Hốt yên túng thể, dĩ ngao dĩ hi,
Hay
Đóng mở không mong trời sáng tối,
Âm dương đắp đổi một vào ra.
Thần quang ly hợp, tác âm tác dương
Hay
Hiên ngang như hạc đứng chờ,
Sẵn sàng nhắp cánh bay vù lên cao.
Tủng khinh khu dĩ hạc lập,
Nhược tương phi nhi vị tường.
Hay
Bay lên như thể cánh hồng,
Êm đềm lãng đãng như cùng thần tiên.
Thể tấn phi phù, tiêu hốt nhược thần
Hay
Đi tới lui về không đoán được,
Tiến lên ngừng lại khó mà suy.
Lúc động chẳng hề theo phép tắc,
Thực thì an trông tưởng như nguy.
Động vô thường tắc, nhược nguy nhược an.
Tiến chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn.

Chàng thấy dường như mười sáu chữ sau cùng này là yếu chỉ của bộ pháp, có điều trong lòng tuy đã lãnh ngộ nhưng chân đạt tới mức “Động vô thường tắc, nhược nguy nhược an. Tiến chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn” thì còn phải mất rất nhiều thời gian khổ luyện, không biết tới bao giờ mới đạt đến mức độ đó. Còn như hiện tại, nếu như địch nhân giơ tay ra chộp liệu có tránh được hay không thì cũng chưa biết, giá như có thời giờ luyện thêm mươi bữa nửa tháng thì mới chắc ăn. Thế nhưng bấm ngón tay nay xa Mộc cô nương đã đủ bảy ngày, nghĩ đến nàng ở bên cạnh Nam Hải Ngạc Thần dài đằng đẵng nên chàng quyết tâm hôm nay phải trốn ra, nghĩ thầm gã bộc dịch đưa cơm không biết võ công, việc lẻn ngang người y mà đi chắc không lấy gì làm khó.
Chàng ngồi trên giường ôn lại bộ pháp kiên nhẫn ngồi chờ. Đến khi nghe tiếng khóa mở lách cách, rồi tiếng chân người đi, người đầy tớ bưng mâm cơm vào, Đoàn Dự liền chậm rãi đi tới, đột nhiên giơ tay hất một cái, bao nhiêu cơm canh rau dưa loảng xoảng hất ngay lên mặt gã. Gã bộc dịch kêu lên:
- Chao ôi!
Đoàn Dự lập tức nhanh chân lẹ tay lẻn ngay ra cửa. Ngờ đâu Úc Quang Tiêu đang đứng canh bên ngoài, nghe tiếng kêu của gã đầy tớ vội vàng chạy tới. Cửa hẹp, hai người liền đâm sầm vào nhau. Đoàn Dự từ bộ vị quẻ Dự bước sang quẻ Quan, đang định lẻn ngang hông y mà ra, ngờ đâu chân trái vấp ngay vào bậc cửa.
Việc xảy ra thật ngoài dự liệu của chàng, trong những chú thích của Lăng Ba Vi Bộ nào có ghi “khi vấp phải bậc cửa, chân cao chân thấp thì phải làm sao?” nên vừa lỡ trớn, bộ vị kế tiếp quẻ Tỉ lại dẵm ngay lên mu bàn chân Úc Quang Tiêu, cái việc “đạp lên chân người ta, đối phương kêu lên oai oái, hầm hầm nổi cáu thì phải làm sao?” cũng không ghi trong bí quyết quyển trục, chắc hẳn nữ thần kia trên sông Lạc Thủy chập chờn cất bước
Nhẹ nhàng như thể chim hồng,
Chập chờn uyển chuyển như rồng đang bay
kia làm gì có thể vấp phải ngạch cửa, hay dẫm lên chân người khác?
Đoàn Dự hoảng hốt quýnh quáng đã thấy cổ tay bị nắm chặt, Úc Quang Tiêu đã bắt được chàng lôi trở vào. Mấy ngày tính toán ngờ đâu khi việc đến nơi bao nhiêu dự liệu đều sai bét, Đoàn Dự trong bụng hỡi ôi, vội vàng tay trái hết sức vùng vẫy, tay phải giằng tay Úc Quang Tiêu ra. Thế nhưng năm ngón tay Úc Quang Tiêu nắm chặt cổ tay chàng làm sao mà mở ra cho được?
Đột nhiên Úc Quang Tiêu kêu Ối một tiếng thấy ngón tay tê đi, vòng tay lỏng ra vội vàng vận kình bóp lại cho chặt nhưng rồi lại mềm nhũn. Y cất tiếng chửi:
- Con mẹ nó!
Cố gắng ra sức một lần nữa nhưng trong chốc lát bàn tay cánh tay đều tê dại. Y có biết đâu khi Đoàn Dự giơ tay ra bẻ tay y ra, khéo làm sao ngón tay cái chàng lại đụng ngay ngón tay cái y, huyệt Thiếu Thương đụng ngay huyện Thiếu Thương của y, y đang vận sức nắm cổ tay Đoàn Dự khiến cho nội lực ào ào chảy vào ngón tay cái của đối phương. Mỗi lần y vận kình, nội lực lại giảm sút đi một chút.
Đoàn Dự nào có biết nguyên do bên trong chỉ thấy tay đối phương khi thì chặt, khi thì lỏng nếu như mình cố gắng giãy dụa chắc có thể thoát thân được, trong lúc nguy cấp cố làm cách nào luồn được ngón tay vào giữa ngón tay cái của y và cổ tay mình để nạy cho ra.
Hôm trước Úc Quang Tiêu đánh chàng một quyền, nội lực từ cú đấm đó lọt vào biển khí nơi huyệt Đãn Trung. Nếu chỉ một quyền đó nội lực thật chẳng bao nhiêu nhưng Đoàn Dự dùng làm ngòi dẫn đi xuôi theo Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch đả thông hai mạch này. Bây giờ nội lực của Úc Quang Tiêu cứ theo cái thông đạo đó chầm chậm đổ vào biển khí của chàng, chính là yếu chỉ Bách Xuyên Hối Hải trong Bắc Minh thần công. Nếu như hai người cùng không ra sức, hai ngón tay cái chỉ nhẹ nhàng chạm vào nhau, Đoàn Dự không biết Bắc Minh thần công thì không thể nào hút nội lực của y được. Thế nhưng lúc này hai bên cùng hết sức sử kình, không khác gì mấy hôm trước Úc Quang Tiêu đánh chàng một quyền, bao nhiêu nội lực trong người đẩy vào người đối phương qua huyệt Thiếu Thương tưởng như rượu trong bình rót xuống chén, cái chén kia có không nhận cũng không được.
Lúc đầu nội lực Úc Quang Tiêu hơn xa Đoàn Dự nếu như y biết rõ nguyên do buông tay lùi lại thì cùng lắm chỉ đển cho Đoàn Dự chạy thoát mà thôi. Thế nhưng họ Úc nhận lệnh canh gác lẽ nào lại để cho gã mặt trắng này đào tẩu được? Y thấy cánh tay tê dại lại càng thúc đẩy kình lực, một tay nắm không xong nên tay trái vươn ra chộp luôn cánh tay chàng. Làm như thế nội lực lại càng tuôn ra nhanh hơn chẳng mấy chốc đến một nửa nội lực toàn thân đã trút vào người Đoàn Dự.
Càng dây dưa thêm, một bên tăng một bên giảm, kình lực y không bằng Đoàn Dự nữa rồi, nội lực càng chảy càng nhanh sau cùng chẳng khác gì đê ngăn nước sông bị vỡ, ào ào như thác. Đoàn Dự tuyệt nhiên không biết gì, tay vẫn nắm chặt tay đối phương trong bụng hoang mang đâu có nghĩ ra chuyện “mình đang nạy tay y ra” đã trở thành “tay mình khư khư nắm lấy tay địch”.
Úc Quang Tiêu thấy toàn thân rã rời, kinh hãi quá kêu lên:
- Ngô sư đệ, Ngô Quang Thắng! Mau ra đây, mau ra đây!
Ngô Quang Thắng lúc ấy đang ở trong nhà xí nghe thấy sư ca hoảng hốt rối rít, hai tay chỉ kịp ôm quần chạy ra. Úc Quang Tiêu kêu lên:
- Tiểu tử này định trốn, ta ... ta giữ y không nổi.
Ngô Quang Thắng buông quần định xông lên tiếp tay đè Đoàn Dự xuống, Úc Quang Tiêu kêu lên:
- Ngươi mau kéo ta ra trước đã!
Trong giọng y dường như có chen tiếng khóc. Ngô Quang Thắng vội đáp:
- Vâng!
Y giơ tay nắm hai vai sư huynh, toan nhấc y lên khỏi thân hình Đoàn Dự, đồng thời hỏi:
- Sư ca bị thương ư?
Trong bụng thầm nghĩ võ công cao siêu như sư huynh mình lẽ nào không giữ nổi một gã thư sinh yếu đuối. Y vừa mở miệng lập tức thấy hai cánh tay rã rời tưởng như không có chút hơi sức nào vội vàng vận sức lên lại thấy cánh tay mềm nhũn tê dại. Thì ra lúc này Đoàn Dự đã hút hết sạch nội lực của Úc Quang Tiêu, tiếp tục hút đến Ngô Quang Thắng, thân thể Úc Quang Tiêu biến thành một ống dẫn nội lực.
Đoàn Dự thấy đối phương có thêm người trợ giúp, bàn tay Úc Quang Tiêu nắm cổ tay mình bỗng mạnh hẳn lên, trong lòng càng hoảng hết sức bẻ ngón tay y ra. Ngô Quang Thắng thấy chân tay uể oải bông bênh luôn mồm kêu lên:
- Lạ thật! Lạ thật!
Thế nhưng y vẫn không chịu buông tay ra. Gã đưa cơm thấy ba người chùm nhum lại thành một đống, hai gã Úc Ngô mặt mày kinh hoàng dường như chịu đựng không nổi vội vàng chạy ra ngoài hớt hải kêu lên:
- Có ai ra ngay đây, tên mặt trắng họ Đoàn đang tính chạy trốn.
Các đệ tử của Vô Lượng Kiếm nghe y hô hoán, lập tức có hai người chạy đến, kế đó lại thêm ba người khác nữa, nhao nhao hỏi dồn:
- Cái gì thế? Tiểu tử đó đâu?
Khi đó Đoàn Dự đang bị Úc Ngô hay gã đè lên nên những người vừa chạy đến không thấy chàng. Úc Quang Tiêu lúc này thở không ra hơi, không còn nói năng gì được còn Ngô Quang Thắng thì nội lực mười phần đã mất hết tám, thở hổn hển nói:
- Úc sư ca đã ... đã bắt được y rồi, mau ... mau đến tiếp tay.
Lập tức có hai tên đệ tử xông tới, mỗi đứa cầm một bên tay Ngô Quang Thắng, vừa nắm được cánh tay liền thấy tê đi, nội lực hai người truyền qua Ngô Quang Thắng sang Úc Quang Tiêu, rồi lại từ Úc Quang Tiêu truyền sang người Đoàn Dự. Lúc này huyệt Đãn Trung của Đoàn Dự đã tích trữ nội lực của hai gã Úc Ngô nay lại thêm một phần của hai người vừa tới nên hơn hẳn hai gã hợp lực. Hai người đó vừa thấy tay chân bải hoải nên lập tức đẩy mạnh kình lực, nhưng vừa vận sức thì nội lực lại tuôn ra ào ào truyền vào người Đoàn Dự. Trong thân thể Đoàn Dự tích trữ nội lực càng nhiều sức hút càng nhanh, lúc trước chỉ tuôn vào ri rỉ nay cuồn cuộn thành một giòng.
Ba người còn lại thấy kỳ lạ, một gã cười hỏi:
- Các ngươi chơi trò gì thế? Trồng tháp người hay sao?
Y giơ tay nắm lấy vừa đụng vào hai tay liền dính chặt kêu lên:
- Tà môn! Tà môn!
Hai gã còn lại lập tức xông lên. Ba người cùng sử dụng lực đạo toan gỡ những người kia ra nhưng cổ tay cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào cả. Bảy tên đệ tử của Vô Lượng Kiếm đè lên nhau chặn cứng cái cửa hẹp không ai ra vào gì được, lèn cho Đoàn Dự không còn thở nổi. Chàng thấy không cách gì chạy thoát nên đành chịu thua rồi tính sau, kêu lên:
- Thả tôi ra, tôi không chạy đâu!
Thế nhưng nội lực đối phương vẫn tiếp tục tràn vào khiến cho huyệt Đãn Trung như bị nghẹn cứng khó chịu không thể nào chịu nổi, lồng ngực như muốn nổ tung.
Chàng buông tay Úc Quang Tiêu ra nhưng khổ nỗi ngón tay cái của y lại đè lên tay chàng không thể nào động đậy chỉ tiếp tục kêu:
- Đè chết tôi rồi! Đè chết tôi rồi!
Úc Quang Tiêu và Ngô Quang Thắng lúc này dĩ nhiên chỉ còn thoi thóp, năm người vừa chạy đến cũng đang tá hỏa tam tinh, càng kinh hãi lại càng gắng sức nhưng cố bao nhiêu nội lực lại tuôn ra nhiều bấy nhiêu.
Tám người dồn thành một khối trong đó sáu người kêu gào rộn cả lên, chẳng còn ai biết ai kêu những gì. Một lúc sau chỉ còn bốn người la hét, rồi xuống còn ba. Sau cùng chỉ còn mình Đoàn Dự kêu:
- Đè chết tôi mất, mau thả tôi ra, tôi không chạy đâu.
Chàng kêu một câu thì lại bớt tức ngực một chút, nên mồm không ngớt gào thét, âm thanh tuy bị nén nhưng sức không kiệt, càng lúc kêu càng to. Đột nhiên nghe đâu có người quát:
- Con mụ kia ăn trộm con ta chạy mất rồi, tất cả mau đuổi theo. Bốn người các ngươi chặn cửa chính, ba người các ngươi nhảy lên mái nhà canh chừng, còn bốn người các ngươi chặn cửa đông, năm người này chặn cửa tây. Không được ... không được để con mụ đó ôm con ta chạy mất.
Tuy y quát tháo ra lệnh nhưng trong âm thanh đầy nỗi kinh hoàng. Đoàn Dự văng vẳng nghe thấy tiếng của Tả Tử Mục, trong đầu liền nghĩ ngay: “Sao lại có mụ đàn bà nào vào ăn trộm con y? À, chắc là Mộc cô nương đến cứu ta đây, ăn trộm con y để đổi lấy ông chồng theo kiểu dắt bò đổi lấy ngựa, cách đó quả không dở chút nào”. Chàng bèn ngừng lại không kêu la nữa.
Đoàn Dự vừa mới định thần thấy năm ngón tay Úc Quang Tiêu nắm mình đã lỏng ra, dùng sức quẫy mấy cái bảy người đè lên chàng lịch bịch rơi xuống. Đoàn Dự mừng quá: “Con của sư phụ bọn chúng bị Mộc cô nương ăn trộm mất rồi ai nấy bối rối hoảng hốt không còn nghĩ tới chuyện bắt ta nữa”. Chàng bèn chui trong đống người ra, trong bụng hơi ngạc nhiên: “Sao những người này nằm êm ru dưới đất thế này? Đúng rồi, chắc họ sợ sư phụ quở phạt nên giả vờ làm như bị thương”.
Thế nhưng chàng đâu có thì giờ để nghĩ xem suy luận của mình hợp tình hợp lý không, lập tức co giò bỏ chạy, có nằm mơ cũng không ngờ được rằng bao nhiêu nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm đã trút hết vào người mình.
Đoàn Dự ba chân bốn cẳng chạy ra phía sau nhà, thật chẳng còn nhớ được đang ở phương vị Ký Tế hay Vị Tế: Khinh vân tế nguyệt, Lưu phong hồi tuyết gì gì đó chẳng qua chỉ là Tào Tử Kiến vẽ vời ra, chứ chàng thì lúc này hớt hải như chó mất chủ, bụng thấp thỏm như cá lọt lưới, trước mắt thấy đám đệ tử Vô Lượng Kiếm lăm lăm trường kiếm, chạy đông chạy tây kêu la:
- Đừng để con mụ đó chạy thoát!
- Mau đoạt lại tiểu sư đệ!
- Ngươi đuổi bên kia, ta qua bên này!
Chàng nghĩ thầm: “Cái kế “Tẩu Mã Hoán Tướng” của Mộc cô nương đã thành kế “Điệu Hổ Ly Sơn”, lại càng tuyệt diệu. Thôi thì ta cứ kế thứ ba mươi sáu mà làm”.
Chàng bèn chui luôn vào trong bụi cỏ, bò được hơn chục trượng nghĩ thầm: “Ta sử dụng cả chân lẫn tay, phải gọi là Lăng Ba Vi Bà mới đúng”.
Chàng nghe thấy tiếng kêu la xa dần, không ai đuổi theo cả nên đứng thẳng lên nhắm hướng rừng rậm đằng sau núi mà chạy. Chạy một hồi lâu nhưng không thấy mỏi mệt chút nào, trong bụng thấy hơi lạ lùng, nghĩ thầm: “Ta chớ có quá sợ hãi mà kiệt sức mất”. Chàng bèn ngồi dưới một gốc cây nghỉ ngơi nhưng chỉ thấy toàn thân tinh lực đầy rẫy, dường như quá nhiều có cần gì phải nghỉ?
Chàng nhủ thầm: “Người ta khi gặp chuyện vui thì tinh thần đâm ra sảng khoái nhưng rồi về sau mới thấy chịu không nổi. Quẻ Chấn hào lục nhị có viết là: Vật trục, thất nhật đắc . Hôm nay chẳng đúng là mình bị khốn khổ đúng bảy ngày hay sao? Hai chữ “vật trục” phải ghi nhớ kỹ”.
Chàng bèn đem nội lực tích trữ được trong huyệt Đãn Trung từ từ đẩy vào Thủ Thái Âm Phế Kinh nhưng vì nội lực quá nhiều, đi tới đi lui, đưa mãi không hết đến về sau bỗng thấy sợ hãi: “Việc này xem ra có điều không xong, e rằng thật là nguy hiểm”. Chàng thấy đã bớt tức ngực nên ngừng lại không vận khí nữa đứng lên đi tiếp, nghĩ thầm: “Ta làm sao đến gặp Mộc cô nương để cho cô ta biết là mình đã chạy được rồi? Đứa con nhỏ của Tả Tử Mục đem trả lại cho y để cho y khỏi lo lắng nhớ mong”.
Đi được chừng một dặm nghe thấy mấy tiếng chít chít, trước mắt thấy một vật gì màu xám tro thấp thoáng, một con thú nhanh nhẹn dị thường chạy vụt qua, đúng là con thiểm điện điêu của Chung Linh. Có điều con vật chạy nhanh quá nên nhìn không rõ nhưng loại thú nhỏ mà nhanh như thế thì nhất định phải là con chồn đó rồi. Đoàn Dự mừng lắm nghĩ thầm: “Chung cô nương đi kiếm ngươi khắp nơi, thì ra chú mày chạy tới tận đây. Để ta bồng ngươi đem về trả lại cho chủ, cô nàng thể nào cũng mừng lắm đó”.
Chàng bắt chước Chung Linh huýt sáo miệng mấy tiếng. Bóng xám vụt một cái, một con vật từ trên cao nhảy xuống trước mặt chàng chừng một trượng, đôi mắt long lanh chuyển động, chăm chăm nhìn chàng, quả đúng là con thiểm điện điêu. Đoàn Dự lại huýt thêm mấy tiếng nữa, con chồn đi lên mấy bước, nằm phục trên mặt đất không động đậy.
Đoàn Dự kêu khẽ:
- Chồn ngoan ơi! Chồn cưng ơi! Để ta đem ngươi về cho chủ ngươi nhé.
Chàng vừa huýt sáo vừa tiến lên, con thiểm điện điêu vẫn không cử động. Đoàn Dự biết rằng con chồn này chạy nhanh như gió, răng có chất độc nhưng đối với chủ nhân thì mười phần dễ bảo, thấy đôi mắt linh hoạt của nó xoay chuyển không ngừng trông thật dễ thương, bèn huýt sáo mấy tiếng tiến lại gần thêm mấy bước, chậm rãi ngồi xuống nói:
- Điêu nhi ngoan quá!
Chàng khoan thai đưa tay ra vỗ vỗ lưng nó, con chồn vẫn nằm yên không cử động. Đoàn Dự vuốt nhẹ lên sống lưng mềm mại mượt mà của con vật, dịu dàng nói:
- Chồn ngoan ơi, thôi mình đi về nhà nhé!
Tay trái lòn xuống toan bồng con thiểm điện điêu lên. Đột nhiên chàng thấy hai tay giật mạnh một cái, tiếp theo đùi trái đau nhói, một bóng xám thấp thoáng con chồn đã chạy vụt ra ngoài xa cả trượng nhưng vẫn đứng đó đôi mắt nhỏ long lanh nhìn chàng. Đoàn Dự kinh hãi kêu lên:
- Chao ôi! Ngươi cắn phải ta rồi!
Chỉ thấy ống quần bị rách một lỗ nhỏ, vội vén quần lên thấy bên trong đùi có hai vết răng, máu tươi đang rướm ra. Chàng nghĩ đến thảm trạng bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền phải chịu tự chặt cánh tay, sợ đến không còn hồn vía nào nữa, chỉ biết ấp úng:
- Ngươi ... ngươi ... ngươi sao không biết phải quấy gì cả? Ta là bạn của chủ ngươi mà! Chết ta rồi!
Chàng thấy chân trái ê ẩm, quì phục xuống đất, hai tay bóp chặt bên trên vết thương để chặn cho chất độc khỏi chạy lên. Tiếp theo chàng thấy chân phải cũng tê đi, liền ngã lăn ra. Chàng hết sức kinh hoàng chống hay tay xuống đất toan đứng lên nhưng cánh tay rồi cũng cứng đơ không còn hơi sức gì nữa. Chàng bò lết về trước mấy bước, con thiểm điện điêu vẫn nằm yên chăm chăm nhìn chàng.
Đoàn Dự kêu khổ thầm: “Ta quả là lỗ mãng thái quá, con chồn này là do Chung cô nương nuôi dưỡng chỉ nghe một mình nàng mà thôi. Chắc là ta huýt sáo không đúng điệu. Thế ... thế thì làm sao đây?”. Chàng biết rằng nếu bị thiểm điện điêu cắn phải thì chỉ có cách học Tư Không Huyền, rút đao chặt luôn chân trái. Thế nhưng trong tay chàng đâu có đao kiếm gì, cũng không dám quả đoán dũng cảm như y, lại vừa mới học xong Lăng Ba Vi Bộ, nếu như mất đi một chân thì chỉ có nước thi triển môn Lăng Ba Nhảy Lò Cò thật là vô vị hết nước nói.
Chàng tự oán trách mình một hồi, chân tay và thân mình dần dần đờ đẫn, biết rằng chất độc đã lan ra khắp người, sau cùng thì mắt cũng mở trừng trừng, mồm há hốc không còn ngậm lại được. Tuy nhiên thần trí chàng vẫn còn tỉnh táo, nghĩ thầm: “Ta chết như thế này, hình dáng thật là bất nhã khó coi, mồm mở toang hoác không biết sẽ thành quỉ khờ hay quỉ đói? Thế nhưng trong trăm điều hại cũng được một điều hay, Mộc cô nương nếu như thấy cái xác ta đít không khố, mắt trợn trừng, ghê tởm muốn mửa, lòng nhớ nhung ắt sẽ giảm đi nhiều, như thế cũng có đôi chút lợi ích cho nàng”.
Bỗng nghe mấy tiếng uềnh oang, uềnh oang, uềnh oang rền vang, tiếp theo mấy tiếng bạch bạch, từ trong cỏ nhảy ra một con vật khiến cho Đoàn Dự càng kinh hãi thêm: “Chao ôi, vạn độc chi vương Mãng Cổ Chu Cáp đến rồi. Hai gã kia nói nếu gặp phải con này toàn thân sẽ hóa thành một đống máu bầy nhầy, biết làm thế nào?” Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Thật là dở hơi! Một đống thịt nát với cái xác hở mông, há hốc mồm có khác gì nhau, cái nào đẹp hơn cái nào? Thà là một đống bầy hầy còn hơn cái xác xấu xa”.
Chàng chỉ nghe uềnh oang liên tiếp, con vật đã nhảy ngay đến bên cạnh nhưng cổ cứng đơ rồi nên không sao quay đầu nhìn nó được, có muốn thành một đống máu thì cũng không xong. Lại nghe mấy tiếng bạch bạch, con vật đã nhảy tới chỗ con thiểm điện điêu. Đoàn Dự không khỏi kinh ngạc vạn phần, thấy đó chỉ là một con nhái nhỏ xíu, dài chừng hai tấc, toàn thân đỏ như máu, đôi mắt lấp lánh kim quang. Con nhái há mồm, làn da mỏng bên dưới cổ lại rung động, một tiếng uềnh oang như bò rống nổi lên. Con vật bé như thế mà lại có thể kêu lớn đến vậy, nếu không chính mắt trông thấy thì thật chẳng ai dám tin. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cái tên của nó nghe thật đúng, tiếng thì kêu như bò mộng, thân hình thì đỏ như son, tên Mãng Cổ Chu Cáp là phải rồi. Tuy nhiên bảo là vừa thấy nó lập tức biến thành một đống máu là sai. Mãng Cổ Chu Cáp hẳn là cái tên người nào đó đã từng gặp nó đặt cho. Thế nhưng nếu đã thành một đống máu thị bầy hầy thì còn làm sao đặt tên cho nó được?”.
Con thiểm điện điêu thấy con chu cáp dường như có vẻ hơi sợ, quay đầu định chạy nhưng lại không dám, đột nhiên tung mình xông tới. Con nhái há mồm uềnh oang một tiếng, một làn hơi màu đỏ nhạt phun thẳng vào con chồn. Thiểm điện điêu đang nhảy ở trên không bị phun trúng hơi độc liền rơi phịch xuống cố xông lên đớp vào lưng con chu cáp. Đoàn Dự nghĩ thầm: "Hóa ra con chồn vẫn ghê gớm hơn". Ngờ đâu chàng vừa nghĩ thế, con chồn đã ngã lăn ra, bốn chân dãy dãy vài cái rồi không còn cử động gì nữa.
Đoàn Dự trong bụng kêu lên: “Chết rồi!”. Con chồn này tuy cắn “chết” chàng thật nhưng chàng biết lỗi ở mình chưa biết sai bảo con vật, đường đột đụng vào nó chứ bụng không oán trách gì con chồn dễ thương kia. Nay thấy con vật chết tươi, trong bụng xót xa: “Ôi, Chung cô nương nếu như biết được không biết sẽ đau lòng biết chừng nào?”.
Chỉ thấy con chu cáp nhảy lên cái xác con thiểm điện điêu, ghé miệng hút má bên trái, xong lại hút má bên phải. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mãng Cổ Chu Cáp được gọi là vua của mọi loại độc, quả thật danh bất hư truyền. Con chồn răng có chất kịch độc, cắn vào người nó có khác gì tự uống thuốc độc mà chết, bây giờ con chu cáp lại đi hút túi chất độc của con điêu này. Thiểm điện điêu dĩ nhiên lanh lợi dễ thương, con chu cáp cũng thân đỏ như son, mắt vàng sáng chóe thật là đẹp đẽ, có ai biết đâu bên ngoài mỹ lệ là thế, bên trong lại độc địa kinh hồn. Thần tiên tỉ tỉ ơi, ta không có nói về nàng đâu!”.
Con chu cáp nhảy từ trên mình con chồn xuống, uềnh oang, uềnh oang mấy tiếng. Bỗng trong đám cỏ có tiếng sột soạt chui ra một con rết lớn màu đen vằn đỏ, chân dài đến bảy tám tấc. Con nhái đỏ liền xông lên nhưng con rết kia bò thật nhanh, lập tức bỏ chạy. Chu cáp vồ luôn mấy lượt nhưng đều không trúng liền uềnh oang một tiếng đang toan phun sương độc, con rết bỗng nhảy vọt lên rơi thẳng vào trong mồm Đoàn Dự.
Đoàn Dự kinh hãi quá nhưng khổ nỗi không sao cử động được, ngay cả ngậm mồm lại cũng không xong, trong bụng kêu thầm: “Ôi, đây là cái miệng của ta, lão huynh chớ có tưởng lầm, lại tưởng là hang rết ...” Nghe sột soạt, con rết kia chẳng nể nang gì bò luôn qua lưỡi chàng chui tọt xuống. Đoàn Dự sợ hãi dường như muốn xỉu chỉ thấy cổ họng rồi thực quản ngứa ngáy, con rết đã vào hẳn trong bụng chàng rồi.
Ngờ đâu họa vô đơn chí, Mãng Cổ Chu Cáp cũng nhảy lên, ngồi chồm chỗm ngay trên lưỡi chàng, tiếp theo là cổ họng lạnh toát, con nhái cũng đã chui vào đuổi theo con rết. Con nhái da trơn tuột, chui xuống còn nhanh hơn. Đoàn Dự nghe đâu trong bụng mình có mấy tiếng uềnh oang, uềnh oang nhưng âm thanh uất nghẹn, thấy rằng trên đời này thật không còn gì bi thảm hơn, mà cũng không gì tức cười bằng, chỉ muốn khóa òa lên, cũng lại muốn cười hô hố. Thế nhưng bắp thịt đã cứng đờ rồi làm gì còn phát xuất được thanh âm? Mắt chàng lệ rơi lã chã, tí tách rớt xuống đất.
Chỉ trong khoảnh khắc, trong bụng như thấy sôi lên, sùng sục thật là khổ sở, cũng chẳng biết con nhái đã bắt được con rết chưa, chỉ biết kêu thầm: "Chu cáp nhân huynh, mau mau bắt anh chàng rết rồi chui ra đi. Bụng của tại hạ có gì là vui thú đâu”.
Một lúc sau, trong bụng không còn thấy lục cục gì nữa, đến tiếng uềnh oang cũng không nghe nhưng càng đau đớn hơn nhiều. Thêm một lát nữa, miệng chàng bỗng đóng lại được, răng cắn ngay phải lưỡi đau nhói lên đầu lưỡi liền rụt trở vào. Chàng vừa mừng vừa sợ, kêu lên:
- Chu cáp nhân huynh, xin mau mau ra cho.
Chàng há mồm cho con nhái bò ra đợi một lúc lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Chàng lại kêu lên:
- Uềnh oang, uềnh oang!
Dụ cho con chu cáp chui ra nhưng không biết con nhái đó nghe mà không thèm để ý hay vì thấy không đúng giọng nên chẳng buồn trồi lên, cứ nằm yên trong bụng chàng.
Đoàn Dự hết sức bồn chồn, thò tay vào móc trong mồm, móc đi móc lại bỗng nhớ ra: “Ồ! Tay ta cử động được rồi”. Chàng vươn vai đứng lên, cảm giác tê dại của chân tay không biết biến mất từ bao giờ. Chàng kêu lên:
- Lạ thật! Lạ thật!
Nghĩ thầm: “Cái anh chàng vạn độc chi vương này chắc ở luôn trong bụng ta, tính chuyện an cư lạc nghiệp, phải làm gì đây? Không thể nào không mời y dọn nhà đi chỗ khác cho xong”. Chàng bèn chống hai tay xuống đất trồng chuối ngược, hai chân tựa vào một cây to, há mồm cố hết sức lắc người một hồi lâu nhưng vẫn không nghe động tĩnh gì của con nhái đỏ, dường như nó đã quyết định chọn bụng chàng làm nơi ăn chốn ở mãn đời mãn kiếp.
Đoàn Dự không còn biết cách gì hơn đành tự nhủ: “Chắc là anh chàng vạn độc chi vương này và con rết kia vào rồi biến thành đồ ăn trong bụng ta, dĩ độc công độc, thành ra giải được chất độc của con chồn. Ta ăn phải những con vật kịch độc như thế nhưng sao giờ đây không thấy đau bụng nữa thật là lạ lùng”.
Chàng có biết đâu chất độc của rắn rết tan vào máu thì sẽ chết ngay nhưng ăn vào trong bụng, nếu trong miệng, yết hầu, thực quản và ruột không có vết thương thì lại không sao cả. Thành ra khi người ta bị rắn độc cắn vẫn có thể dùng mồm hút máu độc ra. Có điều chất độc trong thiên hạ thiên biến vạn hóa, không thể một lời mà nói hết được. Con Mãng Cổ Chu Cáp tuy là loại kỳ độc nhưng vào trong dạ dày lại không sao, lại bị chất dịch vị tiêu hóa. Đối với con nhái đỏ thì chính chất cường toan trong ruột mới thực là chất độc đã biến nó thành một cục máu bầy nhầy.
Đoàn Dự đứng lên, đi tới vài bước bỗng thấy trong bụng có một làn hơi nóng như lửa đốt, không khỏi kêu lên:
- Chao ôi!
Làn hơi nóng đó chạy đông chạy tây không sao tống ra được. Chàng há miệng định nôn nhưng không cách nào mửa được, hít một hơi dài, hết sức khạc mạnh chỉ mong chất độc con chu cáp theo đó mà ra, ngờ đâu vừa thổ thì làn hơi nóng đó biến thành một nhiệt tuyến, chầm chậm chui vào Nhâm Mạch. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Giỏi nhỉ, thôi thì mình một liều ba bảy cũng liều, chu cáp lão huynh ơi, hồn ma lão huynh quấn quít tại hạ, thôi thì biển khí nơi huyệt Đãn Trung của ta cầm bằng là nơi an nghỉ nghìn thu của lão huynh. Nếu như lão huynh muốn hạ độc giết ta, Đoàn Dự này lúc nào cũng sẵn sàng”.
Chàng theo đúng phương pháp thở hút vận khí, làn hơi ấm quả nhiên đi theo đường kinh mạch chạy vào trong biển khí ở huyệt Đãn Trung nhưng không thấy gì khác lạ.
Đoàn Dự loay hoay mất cả nửa ngày nhưng không thấy gì mệt mỏi, bèn kiếm đất đá vùi xác con thiểm điện điêu lại, khấn thầm: “Thiểm điện điêu tiểu đệ đệ ơi, lần sau ta sẽ dẫn Chung cô nương tới đây viếng phần mộ ngươi cúng vái, bắt vài con rắn độc cho mi. Vừa rồi mi cắn ta một cái là do vô tâm, ta không mách lại với chủ ngươi đâu để nàng khỏi trách, ngươi cứ an tâm”.
Chàng ra khỏi khu rừng, chẳng mấy chốc đã gặp Tả Tử Mục cầm kiếm chạy thục mạng, nghĩ thầm: “Y vẫn còn đang đuổi theo Mộc cô nương, ta không thể nào đứng ngoài được”. Nghĩ thế bèn len lén đuổi theo sau, lúc này trong người chàng đã có nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm nên không phí hơi sức đã lên được trên núi. Tả Tử Mục lo lắng cho an nguy của đứa con nên không để ý có người đuổi theo mình. Đoàn Dự thì sợ y quay lại gây sự, lại bắt mình đem đến đánh đổi với Mộc Uyển Thanh nên ở cách thật xa, đi đến lưng chừng núi nghĩ đến mình sắp được gặp lại Mộc Uyển Thanh, trong lòng rộn ràng, lại e ngại Nam Hải Ngạc Thần đợi lâu không được đã giết nàng mất rồi nên nhịn không nổi bèn gọi toáng lên.

Chú thích
8 là vợ của Viên Hi, con trai Viên Thiệu, khi Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu bắt được Chân thị. Tào Thực xin cha gả cho mình nhưng Tào Tháo lại gả cho Tào Phi (con trưởng). Khi Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, Chân thị được lập làm Hoàng Hậu sinh ra Minh Đế. Năm Hoàng Sơ thứ hai Hậu chết, năm sau Tào Thực về triều đi ngang sông Lạc nhớ đến Chân thị, bỗng thấy Chân thị hiện ra giãi bày tấm lòng mình. Thực vừa mừng vừa buồn nên làm bài Cảm Chân Phú để ghi lại việc hai người gặp gỡ. Về sau Minh Đế đọc được đổi tên thành Lạc Thần Phú (Ngụy Chí Văn Chiêu Chân Hoàng Hậu truyện).
9 Trong chương này có rất nhiều thi văn. Người dịch chỉ gượng gạo thoát ý chuyển sang văn vần cho khỏi lạc điệu nguyên tác nhưng chắc chắn kém xa những tác giả chuyên dịch cổ văn. Nếu vị nào kiếm được bản dịch Lạc Thần Phú của một người khác đã dịch làm ơn chuyển lại cho chúng tôi để thay vào thì thật quí hóa. Xin cảm ơn trước. (Nguyễn Duy Chính)
10 con nhái đỏ, nhái tiếng kêu rống như bò
11 Manjusri tức Văn Thù Sư Lợi tượng trưng cho trí huệ bát nhã
12 Samantabhadra là bồ tát đại diện cho bình đẳng
13 Lão tử được các đạo sĩ tôn xưng lên thành một vị tiên
14 thần ôn dịch truyền bệnh
15 nguyên tác dùng câu tục ngữ Trung Hoa, vua không lo, thái giám lại lo tương đương với câu ca dao Việt Nam “Thành đổ đã có vua xây, Việc gì gái góa lo ngày lo đêm”.
16 Một vòng tròn từ đầu đi hết rồi vòng trở lại. Nội công có hai vòng, nhỏ là tiểu chu thiên, lớn là đại chu thiên.
17 phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long
18 Trăm sông đổ vào biển cả
19 cầu tiêu
20 Kế cuối cùng trong Tam Thập Lục Kế là Tẩu Kế tức bỏ chạy.
21 Bộ là bước đi, Bà là bò dưới đất
22 Dù có mất nhưng đừng đuổi theo, bảy ngày sẽ lấy lại được


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySat Aug 07, 2010 7:08 am

peheophuthuy
hok cần mình đẹp...chỉ cần người khác xấu !!! :))
peheophuthuy

Giáo Sư
Giáo Sư

Giới tính : Nữ
Cung : Bò Cạp
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 767
Tài khoản Tài khoản : 845
Được cảm ơn : 4
Sinh nhật Sinh nhật : 29/10/1996
Tuổi Tuổi : 27
Đến từ Đến từ : địa ngục
Châm ngôn Châm ngôn : hok cần mình đẹp...chỉ cần người khác xấu !!! :))
Level: 27 Kinh nghiệm: 767%
Sinh mệnh: 767/100
Pháp lực: 27/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
dài wé..làm piếng đọc ghê..!!!


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:04 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Chàng là con cái nhà ai,
Để cho thiếp phải trúc mai đi tìm?
*
* *

Đoàn Dự ôm Mộc Uyển Thanh vào lòng, vừa hoan hỉ, vừa lo lắng hỏi:
- Mộc cô nương, vết thương của nàng ra sao rồi? Gã ác nhân kia không hiếp đáp nàng chứ?
Mộc Uyển Thanh hờn dỗi đáp:
- Thế em là gì của chàng? Sao vẫn cứ Mộc cô nương, Mộc cô nương gọi mãi thế?
Đoàn Dự thấy nàng phụng phịu lại càng xinh đẹp thêm vài phần, bảy ngày qua quả thực nhớ nhung khôn tả, choàng tay xiết lại dịu dàng nói:
- Uyển muội, Uyển muội! Ta gọi em như thế đã được chưa?
Nói xong ghé môi hôn lên môi nàng. Mộc Uyển Thanh “A” lên một tiếng, mặt đỏ bừng nhảy dựng lên kêu:
- Có người khác ở bên đây, chàng ... chàng ... sao lại thế? Ủa, những người đó đâu rồi?
Nàng nhìn chung quanh không thấy người áo thụng và bốn vị Chử, Cổ, Phó, Chu đâu cả, Tả Tử Mục cũng đã ôm con đi rồi, chung quanh không còn một ai.
Đoàn Dự ánh mặt lộ vẻ kinh hãi nói:
- Có ai đâu nào? Nam Hải Ngạc Thần ư?
. Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Chàng đến đã bao lâu rồi?
Đoàn Dự đáp:
- Cũng chỉ mới đến thôi. Ta lên trên đỉnh núi thấy nàng ngất đi nằm đây, ngoài ra có ai khác đâu. Uyển muội, hai đứa mình đi thôi để Nam Hải Ngạc Thần khỏi đuổi kịp.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Phải lắm.
Nàng lẩm bẩm nói một mình: “Quả là kỳ quái, những người đó thoắt một cái đã biến đâu mất rồi”. Bỗng nghe từ phía sau tảng đá tiếng người ngâm nga:
Xách kiếm đi nghìn dặm,
Thân hèn có sá đâu.
Trượng kiếm hành thiên lý,
Vi khu cảm nhất ngôn.
Tiếng ngâm chưa dứt đã có một người bước ra, chính là một trong Tứ Đại Vệ Hộ Chu Đan Thần. Đoàn Dự reo lên:
- Chu huynh.
Chu Đan Thần tiến lên hai bước, khom lưng hành lễ, vui mừng nói:
- Công tử gia, thật may mắn công tử bình yên không sao cả, mới rồi cô nương đây nói mấy câu khiến cho ta sợ đến mất cả hồn vía.
Đoàn Dự cũng chắp tay đáp lễ nói:
- Thì ra hai bên đã gặp nhau rồi? Chu huynh ... Chu huynh sao lại tới nơi đây? Quả thực khéo quá.
Chu Đan Thần mỉm cười:
- Bốn anh em chúng tôi phụng mệnh đến đón công tử gia trở về chứ không phải may gặp nhau đâu. Công tử quả là lớn mật, một mình dám xông pha vào chốn giang hồ. Chúng tôi tìm đến nhà Mã Ngũ Đức rồi lại qua núi Vô Lượng, mấy hôm nay cả bọn thật là lo lắng.
Đoàn Dự cười nói:
- Ta quả cũng chịu không biết bao nhiêu khổ sở. Bá phụ và cha ta chắc giận lắm, phải không?
Chu Đan Thần đáp:
- Dĩ nhiên các vị không lấy gì làm hứng thú. Có điều khi chúng tôi ra đi thì hai vị gia đài đã hết giận, mấy hôm nay chắc là nhớ mong lắm. Về sau Thiện Xiển Hầu nghe tin Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, sợ rằng công tử gia có thể chạm mặt với họ nên phải tự mình xuất mã.
Đoàn Dự nói:
- Cao thúc thúc cũng đi tìm ta ư? Nếu thế thì quả ta đáng trách thật. Ông ta đang ở đâu?
Chu Đan Thần nói:
- Mới rồi chúng tôi đều ở đây cả. Cao hầu gia ra tay đánh đuổi một mụ đàn bà, nghe tiếng công tử gọi, ai nấy đều yên tâm, bảo tôi ở đây chờ. Những người kia đuổi theo ác nữ nhân kia rồi. Công tử gia, thôi mình cũng cùng về phủ đi thôi, để cho hai vị gia đài khỏi thêm lo lắng.
Đoàn Dự nói:
- Thì ra ... thì ra Chu huynh nãy giờ vẫn ở đây.
Chàng nghĩ đến mình cùng Mộc Uyển Thanh nói năng thân mật đều bị y nhìn thấy nghe thấy cả, mặt liền đỏ bừng.
Chu Đan Thần nói:
- Mới đây ta ngồi sau tảng đá đọc bài thơ ngũ tuyệt của Vương Xương Linh:
Xách kiếm đi nghìn dặm,
Thân hèn có sá đâu.
Đã làm người khách trọ,
Há dám phụ ơn sâu.
Trượng kiếm hành thiên lý,
Vi khu cảm nhất ngôn.
Tằng vi Đại Lương khách,
Bất phụ Tín Lăng ân.
Chỉ vỏn vẹn có hai mươi chữ mà khẳng khái xiết bao khiến cho ai nấy đọc lên đều phải cảm thán ngậm ngùi.
Y nói xong rút trong bọc ra một quyển sách, chính là Vương Xương Linh thi tập. Đoàn Dự gật đầu:
- Người đời thường chỉ nói tới thất tuyệt của Vương Xương Linh, tưởng như ngũ tuyệt của ông ta không phải là sở trường. Thế nhưng bài ngũ tuyệt này quả là giai cấu. Còn như bài Tống Quách Tư Thương há chẳng phải vấn vương tha thiết lắm hay sao?
Chàng nổi hứng ngâm lên:
Một lần duyên gặp gỡ,
Nào dám coi như chủ.
Trăng sáng chiếu nóc nhà.
Sớm chiều luôn tưởng nhớ.
Ánh môn hoài thủy duyên,
Lưu kỵ chủ nhân tâm.
Minh nguyệt tùy lương chuyên,
Xuân triều dạ dạ thâm.
Chu Đan Thần vái một cái thật sâu nói:
- Đa tạ công tử.
Vừa rồi Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh hai người thân mật, tình ý dạt dào đều bị Chu Đan Thần nghe được có điều thấy Đoàn Dự có vẻ sượng sùng nên đem thơ Vương Xương Linh ra gỡ rối. Y dẫn câu “Tằng vi Đại Lương khách” vân vân là nói mình chẳng khác gì Hầu Doanh, Chu Hợi nhất định đem cái chết để báo đền công tử. Đoàn Dự lại dẫn bốn câu thơ của Vương Xương Linh ý tứ nói là chủ nhân đối với người dưới hết lòng hết dạ, coi như bạn bè. Hai người nhìn nhau mỉm cười lòng đầy thông cảm.
Mộc Uyển Thanh không đọc sách ngâm thơ nghĩ thầm: “Cái anh chàng đồ gàn này chẳng còn biết mình đang ở đâu, đàm luận đến thơ văn là thích thú mải mê. Còn gã võ quan này cũng giỏi tài bợ đít nên đi đâu cũng mang sách vở theo”. Nàng có biết đâu Chu Đan Thần văn võ toàn tài, thường ngày cũng đam mê thơ phú văn chương.
Đoàn Dự quay qua nói:
- Mộc ... Mộc cô nương, vị Chu Đan Thần Chu tứ ca đây là bạn thân nhất của ta đó.
Chu Đan Thần cung kính hành lễ nói:
- Chu Đan Thần tham kiến cô nương.
Mộc Uyển Thanh đáp lễ, thấy y đối với mình thật cung kính, trong lòng vui vẻ cất tiếng chào:
- Chu tứ ca.
Chu Đan Thần cười đáp:
- Không dám nhận tiếng xưng hô đó.
Y nghĩ thầm: “Cô gái này mặt mày xinh xắn, vừa mới ra tay tát công tử một cái, thủ pháp linh động, xem ra võ công cũng khá. Công tử gia bị một bạt tai vậy mà vẫn cười không giận. Anh chàng bỏ nhà đi tự bấy nay lại đối với cô ta như thế, chắc hẳn say mê nàng lắm. Không biết cô này lai lịch ra sao. Công tử gia tuổi còn trẻ không hiểu chuyện hiểm ác trên chốn giang hồ, nếu như sa vào vòng mỹ sắc e rằng thân bại danh liệt”. Y cười khì khì tiếp:
- Hai vị gia đài nhớ mong công tử, xin công tử trở về phủ ngay. Mộc cô nương nếu không có việc gì quan trọng xin được mời làm khách trong phủ công tử ít ngày.
Y sợ Đoàn Dự không chịu trở về nên mời luôn cả cô gái này cùng đi tin rằng thể nào chàng cũng thuận. Đoàn Dự ngập ngừng đáp:
- Ta ... ta biết nói sao với bá phụ, gia gia đây?
Mộc Uyển Thanh mặt đỏ bừng, quay đầu sang chỗ khác. Chu Đan Thần nói:
- Tứ Đại Ác Nhân võ công thật cao cường, vừa rồi Thiện Xiển Hầu đánh đuổi được Diệp Nhị Nương cũng bởi vì tấn công lúc mụ ta không phòng bị, lại thêm ba phần may mắn. Công tử gia thân đáng nghìn vàng, không nên xông vào hiểm địa, chúng mình đi ngay là hơn.
Đoàn Dự nghĩ tới thái độ hung ác của Nam Hải Ngạc Thần không khỏi ngán ngẩm, gật đầu nói:
- Được rồi, tất cả cùng đi. Chu tứ ca, kẻ đối đầu lợi hại như thế, tứ ca đi theo giúp đỡ Cao thúc thúc, ta cùng với Mộc cô nương về nhà được rồi.
Chu Đan Thần cười nói:
- Kiếm được công tử gia đâu có phải dễ, tại hạ phải tự mình hộ tống công tử về phủ mới được. Mộc cô nương võ công trác tuyệt thật nhưng xem thần tình dường như bị thương rồi chưa hoàn toàn bình phục, trên đường chẳng may gặp phải cường địch, e không tiện, xin để cho tại hạ phô chút công lao nhỏ mọn thì hơn.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:
- Ông nói chuyện với tôi không phải dùng những chữ nghĩa lý la lý lố ấy làm gì, tôi là con gái nhà quê, chưa từng đọc sách. Ông dùng những chữ văn chương quá, tôi chỉ hiểu được một nửa.
Chu Đan Thần cười nói:
- Đúng lắm! Đúng lắm! Tại hạ tuy là võ quan nhưng lại học đòi văn nhân, lâu ngày thành thói, xin cô nương đừng trách.
Đoàn Dự nào có muốn trở về nhà nhưng nay bị Chu Đan Thần tìm được rồi, xem ra không về không xong, chỉ còn cách trên đường đi sẽ tìm cách bỏ trốn thành thử ba người cùng xuống núi. Mộc Uyển Thanh chỉ chăm chăm muốn biết chàng bảy ngày qua ở đâu nhưng Chu Đan Thần ở ngay bên cạnh, tra vấn xem ra không tiện, đành cố nhịn. Chu Đan Thần có mang theo lương khô, lấy ra cho hai người cùng ăn.
Ba người xuống chân núi rồi, đi được vài dặm, thấy bên cạnh đường ở nơi một cây lớn buộc năm con tuấn mã vốn là ngựa của bọn Cổ Đốc Thành cưỡi đến đây. Chu Đan Thần đến tháo dây cương ba con, đỡ Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh lên ngựa rồi tự mình cưỡi một con đi theo sau. Đêm hôm đó ba người trọ lại một tiểu khách điếm, chia ra ba phòng. Chu Đan Thần đi mua một bộ quần áo về, Đoàn Dự thay xong bấy giờ mới thoát được cái cảnh “đít không khố”.
Mộc Uyển Thanh đóng cửa phòng lại, chống tay lên má ngồi nhìn ngọn nến đỏ trên bàn, trong lòng vui buồn lẫn lộn, ý nghĩ miên man: “Đoàn lang không nề nguy hiểm nhất định đi tìm ta, đối với ta quả là tình sâu ý nặng. Mấy ngày qua ta không ngớt chửi mắng chàng là kẻ bạc tình, hóa ra đã trách lầm rồi. Xem gã Chu Đan Thần cung kính như thế, hẳn chàng phải là con cái một đại quan. Một đứa con gái như ta, tuy có đính ước hôn nhân với nhau nhưng chẳng nguyên do gì theo chàng về nhà thật xấu hổ lắm thay. Xem chừng bá phụ và gia gia chàng khó tính lắm, nếu như họ coi ta chẳng ra gì, tỏ ý khinh thường thì biết phải làm sao? Chậc chậc, ta sẽ phóng tên độc giết sạch cả nhà chàng, chỉ để một mình Đoàn lang thôi”.
Nàng còn đang nghĩ tới biện pháp hung tợn đó, bỗng nghe hai tiếng gõ nhẹ ở ngoài cửa sổ. Mộc Uyển Thanh phất tay trái một cái dập tắt ngọn nến, nghe thấy tiếng Đoàn Dự ở bên ngoài:
- Ta đây!
Mộc Uyển Thanh thấy chàng đêm khuya canh vắng lại mò sang tìm mình, lập tức tim đập thình thình, trong bóng tối đôi má nóng bừng, hỏi nhỏ:
- Có chuyện gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Nàng mở cửa ra đã ta sẽ nói sau.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Thiếp không mở đâu.
Nàng một thân đầy võ nghệ, lúc này lại e sợ một anh chàng văn nhược thư sinh, chính mình cũng thấy lạ lùng. Đoàn Dự không hiểu được nguyên do tại sao nàng lại không mở cửa bèn nói:
- Thế thì nàng ra đây, chúng mình phải chạy cho mau mới được.
Mộc Uyển Thanh giơ ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ hỏi lại:
- Sao thế?
Đoàn Dự đáp:
- Chu tứ ca ngủ rồi, đừng làm y tỉnh dậy. Ta không muốn về nhà.
Mộc Uyển Thanh mừng lắm, nàng nghĩ đến chuyện phải gặp mặt cha mẹ Đoàn Dự mà buồn rười rượi, lập tức nhẹ nhàng mở cửa sổ nhảy ra ngoài. Đoàn Dự nói nhỏ:
- Để ta đi dắt ngựa.
Mộc Uyển Thanh xua tay, giơ tay cặp ngang hông chàng, đề khí nhảy lên đầu tường, rồi lại nhẹ nhàng nhảy ra bên ngoài, nói nhỏ:
- Một khi tiếng vó ngựa nổi lên, Chu tứ ca của chàng sẽ hay biết mất.
Đoàn Dự cũng cười khúc khích:
- Nàng nghĩ thế chu đáo lắm.
Hai người tay nắm tay đi về hướng đông. Đi được vài dặm không nghe thấy tiếng người đuổi theo lúc ấy mới yên tâm. Mộc Uyển Thanh nói:
- Vì cớ gì chàng lại không muốn về nhà?
Đoàn Dự nói:
- Một khi ta về nhà rồi, bá phụ và gia gia thể nào cũng nhốt lại, không cho ra ngoài nữa. Chỉ sợ rằng lúc đó gặp nàng một lần cũng không phải dễ.
Mộc Uyển Thanh thật là sung sướng, trong lòng dâng lên một nỗi êm đềm nói:
- Không về nhà chàng thì cũng hay. Từ nay hai đứa mình phiêu đãng giang hồ chẳng tiêu dao khoái hoạt hay sao? Thế hai đứa mình bây giờ đi đâu đây?
Đoàn Dự đáp:
- Việc đầu tiên là đừng để cho Chu tứ ca và Cao thúc thúc đuổi kịp, việc thứ hai là làm sao tránh không gặp Nam Hải Ngạc Thần.
Mộc Uyển Thanh gật đầu:
- Đúng lắm. Thôi mình đi về hướng tây bắc, tốt nhất là trốn nơi một nhà nông nào độ dăm bữa nửa tháng tránh họ đã, đợi vết thương trên lưng thiếp khỏi hẳn, lúc đó không còn sợ gì nữa.
Hai người bèn quay qua hướng tây bắc, trên đường chỉ cắm cúi mà đi không dám truyện trò, mong sao càng xa núi Vô Lượng càng sớm càng tốt.
Đi đến khi trời sáng, Mộc Uyển Thanh nói:
- Bọn đầy tớ nhà họ Vương ở Cô Tô chắc cũng còn đang đi kiếm thiếp. Vậy thì để tránh tai mắt mọi người, mình nên tìm chỗ nghỉ ngơi. Ban ngày thì ăn uống nằm ngủ, ban đêm thì lên đường.
Chuyện trên chốn giang hồ Đoàn Dự nào có biết gì bèn nói:
- Nàng muốn tính sao thì tính.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Để đến khi ăn cơm xong, chàng kể lại rành mạch cho thiếp nghe bảy ngày bảy đêm qua đi những đâu, nếu nói dối nửa nhời, thì chàng coi chừng ...
Nói chưa dứt câu bỗng nhiên “Ồ” lên một tiếng. Ngay đằng trước dưới tàn một cây liễu có buộc ba con ngựa, một người ngồi trên tảng đá, tay cầm một quyển sách, đang gật gù ngâm nga, chẳng phải Chu Đan Thần thì còn ai? Đoàn Dự cũng trông thấy rồi, giật mình hoảng hốt, nắm tay Mộc Uyển Thanh giục:
- Chạy mau.
Thế nhưng Mộc Uyển Thanh đã minh bạch, biết rằng đêm qua hai người lén trốn đi Chu Đan Thần đều biết cả. Y đoán được Đoàn Dự không biết khinh công, dĩ nhiên có chạy cũng không nhanh, định rõ đường đi của hai người, cưỡi ngựa vòng lên chặn trước nên nhíu mày nói:
- Chàng ngốc ơi! Bị y bắt được rồi còn chạy đường nào bây giờ?
Nàng bèn ngang nhiên đi tới nói:
- Gớm! Mới sáng sớm mà đã ngồi đây đọc sách, định đi thi Trạng Nguyên hay sao?
Chu Đan Thần cười, quay sang nói với Đoàn Dự:
- Công tử đoán xem tôi đang đọc sách gì nào?
Nói rồi y cao giọng ngâm:
Chim buồn cành cũ bi thương,
Núi hoang vượn hú đêm trường hư không.
Giá như nghìn dặm mắt trông,
Hoang mang chợt thấy hồn mong trở về.
Trăm gian ngàn hiểm dám nề,
Mang danh quốc sĩ chỉ bề tận trung.
Kìa người Quí Bố một lòng,
Hầu Doanh lời nặng sánh cùng Thái Sơn.
Cuộc đời chí khí lên cân,
Ai đem chức tước để phân sang hèn?
Cổ mộc minh hàn điểu,
Không sơn đề dạ viên.
Ký thương thiên lý mục,
Hoàn kinh cửu chiết hồn.
Khởi bất đạn gian hiểm?
Thâm hoài quốc sĩ ân.
Quí Bố vô nhị nặc,
Hầu Doanh trọng nhất ngôn.
Nhân sinh cảm ý khí,
Công danh thùy phục luận?
Đoàn Dự dáp:
- Phải chăng đây là bài Thuật Hoài của Ngụy Trưng ?
Chu Đan Thần cười đáp:
- Công tử gia bác lãm quần thư , quả thật đáng phục.
Đoàn Dự biết y sở dĩ dẫn bài thơ này, ý nói canh khuya không nề gian hiểm đi tìm là bởi vì đã chịu đại ân của bác và cha chàng, không dám phụ lời ủy thác. Mấy câu sau cũng có ý ám chỉ chàng đã bằng lòng trở về nhà rồi, nói ra sao lại không giữ lời?
Mộc Uyển Thanh đi đến cởi giây cương ngựa nói:
- Đi về Đại Lý, không biết chúng tôi đi đường này có đúng không?
Chu Đan Thần đáp:
- Hiện nay không có chuyện gì gấp, đi hướng đông cũng được, đi hướng tây cũng tốt, đường nào cũng đến Đại Lý cả.
Hôm qua y để cho Đoàn Dự cưỡi con ngựa khỏe nhất trong ba con, lần này y cầm cương con ngựa đó đề phòng Đoàn Mộc hai người phóng ngựa đào tẩu thì mình cũng còn đuổi kịp.
Đoàn Dự lên yên rồi, giục ngựa chạy về hướng đông. Chu Đan Thần sợ chàng bực mình, trên đường cùng chàng đàm luận thi từ ca phú, tiếc thay không biết Kinh Dịch nếu không hai người chắc nói chuyện càng thêm tương đắc. Thế nhưng Đoàn Dự thì cao hứng đàm luận thao thao, còn Mộc Uyển Thanh một câu chen vào cũng không được. Chẳng bao lâu đi ra đường cái, đến chừng buổi trưa, ba người liền ghé vào một cái quán gọi mì ăn.
Đột nhiên bóng người thấp thoáng, từ ngoài cửa một người vừa cao vừa gầy xông vào, vừa ngồi xuống ghế đã giơ tay vỗ mạnh lên bàn, quát lớn:
- Cho hai hồ rượu, hai cân thịt bò nóng, mau mau!
Mộc Uyển Thanh không cần phải nhìn, chỉ nghe giọng nói lúc thì ồm ồm lúc thì sắc nhọn cực kỳ khó nghe của y đã biết ngay chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Cũng may nàng đang quay vào trong nên không đối diện với y, lập tức giơ ngón tay nhúng vào tô mì, viết lên bàn: “Đệ Tứ Ác Nhân”. Chu Đan Thần cũng viết lên: “Chạy mau, đừng chờ tôi”. Mộc Uyển Thanh giựt giựt tay áo Đoàn Dự, hai người đi vào nhà trong còn Chu Đan Thần lẻn ngay vào nơi khuất nẻo ở góc nhà.
Vân Trung Hạc từ khi vào trong quán chỉ ngồi hướng ra ngoài đường nghe thấy sau lưng có tiếng chân người vội quay lại thấy bóng Mộc Uyển Thanh lẻn vào trong nhà sau liền quát lớn:
- Ai đó! Đứng lại ta coi.
Y đứng lên xông vụt ra chộp vào lưng Mộc Uyển Thanh. Chu Đan Thần cầm bát mì, từ góc nhà đột nhiên nhào ra kêu lên:
- Ối chà!
Giả vờ làm như lỡ tay, bát mì nóng đổ ụp ngay lên mặt y. Hai người đứng quá gần nhau, Chu Đan Thần lại tạt thật nhanh, cái quán nhỏ nào thật khó mà xoay trở nhưng Vân Trung Hạc lập tức nghiêng qua tránh được một nửa, còn một nửa vẫn ập vào mặt, trước mắt nhạt nhòa không trông rõ, trong cơn cuồng nộ, vung tay chộp về phía Chu Đan Thần định banh ngực moi ruột y ra.
Thế nhưng Chu Đan Thần vừa vung bát mì ra, lập tức hất ngay cái bàn, bao nhiêu chén bát bay thẳng vào người Vân Trung Hạc. Chỉ nghe soạt một tiếng, năm ngón tay Vân Trung Hạc đâm ngập vào mặt bàn nhưng chén bát vẫn vùn vụt bay tới.
Ở trong cái quán nhỏ này chỉ trong chớp mắt bị cường địch tấn công, y tuy võ công cao cường thật nhưng tay chân cũng rối loạn, vội vận nội kình lên khắp thân thể, bao nhiêu đồ sành sứ văng vào người đều bật ngược trở lại nhưng nước canh, mì sợi cũng văng đầy người quả thật khó coi. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng vó câu, nhìn ra thấy hai người giục ngựa chạy vọt về hướng bắc. Vân Trung Hạc vừa giơ tay chùi nước lèo dính trên mặt, bỗng thấy hơi gió ập tới, có vật gì đó đâm vào ngực mình. Y hít một hơi, lồng ngực đột nhiên hóp lại nửa thước, tay trái từ trên chém xuống, lật một cái biến luôn thành trảo, bốn ngón tay đã chộp được phán quan bút địch nhân điểm vào.
Chu Đan Thần vội vận kình đoạt lại, nội lực y vốn kém đối phương một mức, đáng lẽ giựt không được, món binh khí yêu quí sẽ bị cướp mất nhưng may nhờ tay Vân Trung Hạc dính đầy nước canh mỡ màng trơn tuột nên cầm không chắc nên y mới giựt được binh khí về.
Chỉ qua mấy chiêu, Chu Đan Thần thấy kẻ địch ứng biến nhanh nhẹn, võ công ghê gớm kêu lên:
- Người cầm cần, người cầm búa, mau chặn cửa lại đừng để cho tên sếu vườn chạy thoát.
Y từng nghe Chử Vạn Lý và Cổ Đốc Thành kể lại, đêm hôm trước đánh nhau với một người cao lênh khênh như cò hương, hai người hợp lực mới may mà thắng được nên hư trương thanh thế giả vờ gọi đồng bọn. Vân Trung Hạc biết đâu là kế nghĩ thầm: “Chết rồi! Tên cầm cần và tên cầm búa hóa ra mai phục bên ngoài, ta một địch ba, thể nào cũng thua mất.
Y không còn thiết tha gì đánh nữa vội chạy vào bên trong vượt tường mà chạy. Chu Đan Thần lại kêu lên:
- Tên sếu vườn chạy mất rồi, đuổi theo mau, lần này đừng để cho y chạy thoát.
Y chạy ra ngoài nhảy lên lưng ngựa đuổi theo Đoàn Dự.
Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh chạy được vài dặm liền ghìm cương cho ngựa chậm lại, chẳng mấy chốc nghe tiếng ngựa đuổi theo sau Chu Đan Thần giục ngựa chạy đến. Hai người dừng lại đứng chờ đang định lên tiếng hỏi thăm, Mộc Uyển Thanh bỗng kêu lên:
- Không xong! Gã kia đuổi đến kìa.
Chỉ thấy trên đường một người nhô lên hụp xuống lênh khênh như cây tre đang vùn vụt đuổi theo. Chu Đan Thần kinh hãi nói:
- Khinh công tên này ghê gớm thật.
Y giơ roi quất vào mông con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi một cái, cả ba con ngựa cùng tung vó chạy vọt lên chẳng mấy chốc đã bỏ xa Vân Trung Hạc. Chạy được vài dặm, Mộc Uyển Thanh thấy con ngựa mình cưỡi thở phì phò, càng lúc càng chậm nhưng nếu ngừng chân, Vân Trung Hạc thể nào cũng đuổi kịp. Gã kia nếu một đoạn đường ngắn chạy không bằng ngựa nhưng đường dài thì sức lực miên miên bất tuyệt.
Chu Đan Thần biết rằng ngụy kế của mình đã bị y khám phá có hư trương dọa non dọa già cũng không đi đến đâu, xem ra trong vòng hai mươi dặm thể nào cũng bị y bắt kịp chỉ có nước tới được thành Đại Lý thì dù có đến đâu cũng không sợ. Thế nhưng ba con ngựa mỗi lúc một chậm, tình thế mỗi lúc một thêm khẩn cấp. Lại thêm vài dặm nữa, con ngựa Đoàn Dự cưỡi đột nhiên khuỵu chân trước, hất chàng ngã văng đi. Mộc Uyển Thanh phi thân nhảy xuống, không để cho Đoàn Dự chạm đất đã chộp ngay được lưng chàng, cũng may con ngựa nàng cưỡi vừa chạy tới ngang bên, tay trái liền ấn lên yên một cái, cả hai người cùng nhảy vọt lên trên mình ngựa.
Chu Đan Thần lẽo đẽo chạy theo phía sau cho tiện việc ngăn trở kẻ địch nên khi Đoàn Dự ngã xuống không cách nào cứu kịp, thấy Mộc Uyển Thanh ra tay không khỏi buột miệng khen:
- Thân pháp đẹp quá!
Đột nhiên phía sau có hơi gió, xem ra kẻ địch dùng binh khí tấn công. Chu Đan Thần vội vàng đưa phán quan bút về sau, nghe keng một tiếng gạt cương trảo ra. Vân Trung Hạc thừa thế đang nhảy tới năm ngón tay đúc bằng đồng chộp luôn vào mông ngựa khiến máu chảy ròng ròng. Con vật đau quá hí lên một tiếng càng chạy cho nhanh, chẳng mấy chốc đã bỏ Vân Trung Hạc một quãng. Thế nhưng trong tình hình một con ngựa phải mang hai người, một con bị thương không cách nào kéo dài được, Chu Đan Thần và Mộc Uyển Thanh đều cảm thấy hoang mang.
Đoàn Dự không biết đang lâm vào cảnh nguy hiểm hỏi:
- Người đó ghê gớm lắm phải không? Không lẽ Chu tứ ca lại thua y hay sao?
Mộc Uyển Thanh lắc đầu:
- Tiếc thay thiếp đang bị thương không sử lực khí được nên chẳng làm sao giúp Chu tứ ca chống lại ác nhân kia.
Đột nhiên nàng nghĩ ra một kế nói:
- Để em giả vờ ngã ngựa bị thương, nằm phục dưới đất nhắm khi y không phòng bị bắn y hai mũi tên độc may ra thành công. Chàng cưỡi ngựa cứ việc chạy tiếp đừng đứng lại đợi em làm gì.
Đoàn Dự quýnh quít, vòng ngược hai tay lại, tay trái bá cổ nàng, tay phải ôm ngang hông kêu bải hải:
- Không được! Không được! Ta không để nàng mạo hiểm như thế.
Mộc Uyển Thanh thẹn đến đôi má đỏ bừng, hờn dỗi nói:
- Chàng ngốc ơi! Có bỏ người ta ra không nào. Để Chu tứ ca nhìn thấy thì còn ra cái gì nữa?
Đoàn Dự hoảng hồn suýt soa:
- Ta xin lỗi! Nàng đừng trách nhé.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Chàng là chồng em có gì mà phải xin lỗi?
Còn đang qua lại, quay đầu đã thấy Vân Trung Hạc vùn vụt chạy tới còn Chu Đan Thần thì luôn luôn xua tay ra hiệu cho hai người chạy cho mau rồi nhảy xuống ngựa đứng chắn giữa đường, dẫu biết rằng đánh không lại nhưng cố ngăn y được lúc nào hay lúc ấy để y không đuổi kịp Đoàn Dự. Ngờ đâu Vân Trung Hạc chủ tâm đuổi theo Mộc Uyển Thanh lập tức chạy vòng xuống ruộng, vượt qua Chu Đan Thần rồi tiếp tục đuổi theo Đoàn Mộc hai người.
Mộc Uyển Thanh hết sức ra roi con ngựa đang cưỡi, con vật mồm sùi bọt mép chạy thục mạng. Đoàn Dự nói:
- Giá như mình cưỡi con Hắc Mai Côi thì ác nhân kia không thể nào đuổi kịp được.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Cái đó thì còn phải nói.
Con ngựa vòng qua một vách núi, đằng trước là một con đường thẳng tắp, không có một chỗ nào có thể ẩn nấp được nhưng phía tây có một khu rừng liễu, bên cạnh một chiếc hồ nhỏ có một mảng tường vàng lộ ra. Đoàn Dự mừng rỡ nói:
- Hay lắm! Chúng mình chạy về đằng kia.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Không được, chỗ đó là tử địa, không có đường chạy.
Đoàn Dự nói:
- Nàng cứ nghe lời ta đi, không sao đâu.
Chàng cầm lấy giây cương kéo đầu ngựa chạy về phía đám cây liễu. Chạy đến gần, Mộc Uyển Thanh mới biết bức tường vàng đó là một đạo quan , trên biển ngạch viết dường như Ngọc Hư Quan thì phải, trong bụng tính thầm: “Anh chàng ngốc này chạy tới đây, không có lối thoát. Chi bằng ta náu ở một chỗ khuất nẻo, bắn cho tên sếu vườn kia một mũi tên”.
Trong chớp mắt con ngựa đã chạy đến trước cửa đạo quan, bỗng nghe phía sau có tiếng người cười sằng sặc, chính là tiếng của Vân Trung Hạc, cách nhau chỉ độ vài trượng. Chỉ nghe Đoàn Dự kêu to:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Ra mau, mẹ ơi.
Mộc Uyển Thanh bực mình quát lên:
- Đồ ngốc, có câm mồm không nào?
Vân Trung Hạc cười nói:
- Đến giờ này có kêu ông kêu bà thì cũng chẳng đi đến đâu.
Y tung mình nhảy tới, Mộc Uyển Thanh giơ tay vận kình đẩy vào lưng Đoàn Dự kêu lên:
- Chạy vào trong quan đi.
Nàng vừa nói vừa giơ tay trái lên, một mũi tên bắn ngược về sau. Vân Trung Hạc rụt đầu tránh được, thấy Mộc Uyển Thanh đã nhảy ra khỏi yên, cương trảo trong tay trái liền tung ra, chộp vào đầu vai nàng. Mộc Uyển Thanh vội co người luồn xuống dưới bụng ngựa, soẹt soẹt soẹt bắn luôn ba mũi tên. Vân Trung Hạc né đông tránh tây rồi nhảy vụt về sau tránh được.
Ngay khi đó một đạo cô từ bên trong đạo quan đi ra, Đoàn Dự thấy thế liền reo lên, bà ta cũng tiến lên ôm lấy chàng cười nói:
- Lại nghịch ngợm trò gì nữa đây, sao mà gọi réo om sòm thế?
Mộc Uyển Thanh thấy đạo cô đó tuổi tác xem chừng lớn hơn Đoàn Dự một chút nhưng dung mạo xinh đẹp, lại thân mật với Đoàn Dự như thế, còn Đoàn Dự thì vòng tay ôm chặt lấy lưng đạo cô kia, vẻ mặt vui mừng khôn xiết, liền nổi cơn tam bành lục tặc, không còn kể gì đến cường địch ở sau lưng nhảy vọt qua, giơ chưởng đánh luôn vào mặt đạo cô, quát lớn:
- Sao bà lại ôm anh chàng ta? Mau bỏ ra nào.
Đoàn Dự vội kêu:
- Uyển muội, chớ có vô lễ.
Mộc Uyển Thanh thấy chàng bênh đạo cô lại càng tức hơn, chân chưa chấm đất chưởng lại gia tăng thêm ba thành kình lực. Đạo cô kia hất cây phất trần một cái, đuôi phất trần liền cuộn một vòng trên không, cuốn lấy cổ tay nàng. Mộc Uyển Thanh thấy lực đạo trên phất trần không phải nhẹ, tiếp theo lại bị kéo một cái khiến nàng không tự chủ nổi dạt sang mấy bước mới đứng lại được, vừa tức tối vừa nóng ruột liền mắng:
- Bà là kẻ xuất gia sao không biết xấu.
Vân Trung Hạc lúc thấy đạo cô kia bước ra, dung mạo xinh đẹp, trong bụng mừng thầm: “Hôm nay quả là số đỏ, một mũi tên bắn hai con chim , ta bắt luôn cả hai ả”. Đến khi đạo cô ra tay đánh phất trần nhẹ nhàng hóa giải chưởng thế mãnh liệt của Mộc Uyển Thanh, biết đạo cô này võ công ghê gớm liền tung mình nhảy lên yên ngựa, ngồi xem biến chuyển thế nào, bụng nghĩ thầm: “Cả hai cô nàng đều xinh, tiện người nào bắt người ấy cũng được rồi”.
Đạo cô giận đữ nói:
- Tiểu cô nương, cô nói năng láo lếu gì đó? Cô ... cô là ai mới được chứ?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Tôi là vợ của Đoàn lang, bà có thả y ra không?
Đạo cô kia liền ngẩn người, bỗng nhiên mặt mày tươi rói, véo tai Đoàn Dự cười hỏi:
- Có thực không?
Đoàn Dự cũng cười:
- Thực một phần mà giả cũng một phần.
Đạo cô lại véo trên mặt chàng một cái rõ mạnh, cười tiếp:
- Chẳng học được cha một tí võ công nào, nhưng cái trò phong lưu quấy quả thì không sót một li, ta phải đánh gãy đùi ngươi mới xong.
Bà nghiêng đầu ngắm Mộc Uyển Thanh rồi nói:
- Ồ, cô nương này đẹp thật nhưng quá ư là mộc mạc, phải quản giáo thật gắt gao mới được.
Mộc Uyển Thanh lại nổi cơn xung thiên nói:
- Tôi mộc mạc hay không kệ xác tôi, việc gì đến bà? Bà không chịu bỏ chàng ra. Tôi sẽ bắn tên đó.
Đạo cô cười:
- Cô bắn tên thử xem nào.
Đoàn Dự kêu to:
- Uyển muội, không thể được. Nàng có biết ai đây không?
Nói rồi giơ tay ra bá cổ đạo cô, Mộc Uyển Thanh thấy thế như điên như cuồng, tay vung lên, tách tách hai tiếng, hai mũi độc tiễn bắn thẳng vào người đàn bà. Đạo cô kia vốn dĩ mặt tươi như hoa, vừa thấy mũi tên nhỏ sắc mặt lập tức biến đổi hẳn, phẩy một cái đã cuộn được hai mũi tên vào trong phất trần, gằn giọng hỏi:
- Tu La Đao Tần Hồng Miên là gì của ngươi?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Cái gì mà Tu La Đao Tần Hồng Miên? Chưa nghe nói đến. Có thả Đoàn lang của ta ra không nào?
Nàng rõ ràng thấy Đoàn Dự lúc này ôm bà ta chứ đâu phải đạo cô giữ chàng lại nhưng vẫn cho rằng bà ta không ra gì. Đoàn Dự thấy đạo cô giận đến tái mặt, vội khuyên:
- Mẹ ơi, mẹ đừng giận.
Năm chữ “mẹ ơi, mẹ đừng giận” lọt vào tai Mộc Uyển Thanh khiến nàng không khỏi giật mình, tưởng chừng không tin ở mình nữa, ấp úng:
- Cái gì, bà này ... bà này là mẹ chàng đấy ư?
Đoàn Dự cười nói:
- Mới rồi ta đã gọi “mẹ ơi” nàng không nghe hay sao?
Chàng quay sang nói với đạo cô:
- Mẹ à, đây là Mộc Uyển Thanh cô nương. Hôm trước nhi tử bị kẻ ác hiếp đáp gặp hung hiểm liên tiếp, may được Mộc cô nương mấy lần cứu cho thoát chết.
Bỗng từ bên ngoài rặng liễu có tiếng vọng vào:
- Ngọc Hư tản nhân xin hãy hết sức cẩn thận. Đây là một trong Tứ Đại Ác Nhân.
Tiếng vừa dứt đã thấy một người hớt hải chạy vào, chính là Chu Đan Thần. Y thấy đạo cô mặt mày biến sắc lại tưởng bà ta đã bị lép vế dưới tay Vân Trung Hạc, run run hỏi:
- Bà đã động thủ với y rồi ư?
Vân Trung Hạc cười sằng sặc đáp:
- Bây giờ động thủ cũng chưa muộn.
Y nói chưa dứt câu, hai chân đã đứng phắt dậy trên yên ngựa tưởng như một cái cột cờ dựng trên yên ngựa, đột nhiên thân ngả về đằng trước, chân phải móc vào yên, hai chiếc cương trảo cùng bổ lên người đạo cô. Đạo cô nghiêng người lạng đến bên mình ngựa, phất trần hất luôn hai mũi tên độc còn nằm trong đó vào người y. Vân Trung Hạc nghiêng qua né tránh, đạo cô liền xông tới dùng phất trần đánh luôn vào đùi, Vân Trung Hạc không chống đỡ, cương trảo bên trái chộp vào lưng bà ta.
Đạo cô nghiêng qua tránh được, phất trần đánh ngược trở về, Vân Trung Hạc tiến lên một bước, chân trái đạp vào đầu ngựa cương trảo bên phải từ cao đánh tạt xuống. Chu Đan Thần tung mình nhảy lên mông ngựa quát lên: “Ngã này” phán quan bút bên trái điểm vào hông y. Vân Trung Hạc giơ trảo gạt được, lấy trường công đoản, phản kích trở lại. Ngọc Hư tản nhân lại múa phất trần đánh vào hạ bàn của địch thủ, Vân Trung Hạc hai tay hai trảo múa tít lên một mình đánh với hai nhưng không kém chút nào.
Mộc Uyển Thanh thấy y đứng trên mình ngựa nên không cần phải bảo vệ trên ngực có vẻ lợi thế nghe soẹt một tiếng bắn luôn một mũi tên vào mắt trái con ngựa. Con vật đau quá hí lên một tiếng thảm thiết ngã khuỵu xuống, Ngọc Hư tản nhân liền cuộn phất trần quấn chặt những ngón tay cương trảo bên phải của Vân Trung Hạc, hai người giằng co cố đoạt binh khí về còn Chu Đan Thần liều mạng xông vào, tấn công liên tiếp ba chiêu.
Vân Trung Hạc tuy nội lực mạnh hơn nhiều nhưng phải chia ra một nửa chống đỡ phán quan bút của Chu Đan Thần, lại phải đề phòng Mộc Uyển Thanh bắn tên độc, chỉ thấy cánh tay giựt mạnh, cả phất trần lẫn cương trảo cùng rời khỏi tay, bay vụt lên không.
Y liệu chừng hôm nay khó mà thành công liên chửi:
- Mẹ kiếp, bọn Đại Lý chỉ giỏi tài chó cậy gần nhà, lấy đông đánh một.
Y hai chân đạp vào yên ngựa, thân hình như một mũi tên bay vọt ra, cương trảo bên trái móc vào một cành liễu, uốn mình một cái đã ở cách xa mấy trượng. Mộc Uyển Thanh bắn theo một mũi tên, nghe bụp một tiếng cắm ngay vào cành cây, còn Vân Trung Hạc thì quả là “chim hồng bay vụt đã mờ mờ xa” không còn thấy tung tích đâu nữa. Tiếp theo là tiếng loảng xoảng vang lên, cả phất trần lẫn cương trảo cùng rơi xuống đất.
Chu Đan Thần phục xuống lạy Ngọc Hư tản nhân, cung kính hành lễ nói:
- Đan Thần hôm nay gặp phải nguy nan, tính mệnh khó mong bảo toàn, nhờ có tản nhân cứu cho.
Ngọc Hư tản nhân mỉm cười nói:
- Hơn chục năm nay không dùng binh khí, bao nhiêu công phu lâu nay gác một bên. Chu huynh đệ, gã này là ai đó?
Chu Đan Thần đáp:
- Nghe nói Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, người này xếp hạng cuối cùng trong bốn người, võ công đã ghê gớm như thế, ba người kia ra sao cũng đã đoán được rồi. Xin mời ... xin mời bà quay trở về vương phủ tạm lánh ít lâu, đợi khi thanh toán xong bốn tên ác nhân rồi sẽ tính sau.
Ngọc Hư tản nhân sắc mặt hơi đổi, chậm rãi nói:
- Ta còn về vương phủ làm gì nữa? Tứ Đại Ác Nhân cùng đến nếu ta địch không lại, có chết cũng xong.
Chu Đan Thần không dám nói thêm, đưa mắt nhìn Đoàn Dự mong y tiếp lời. Đoàn Dự nhặt phất trần lên, đưa cho mẹ, cầm cương trảo của Vân Trung Hạc ném vào trong hồ nói:
- Mẹ ơi, bốn gã ác nhân này quả là hết sức hung dữ, nếu mẹ không chịu về nhà thì để con đưa mẹ sang bên bá phụ vậy.
Ngọc Hư tản nhân lắc đầu:
- Ta không đi đâu cả.
Đôi mắt bà đỏ lên rưng rưng dường như muốn khóc. Đoàn Dự nói:
- Thôi được, nếu mẹ không đi, để con ở lại đây với mẹ vậy.
Chàng quay sang nói với Chu Đan Thần:
- Chu tứ ca, phiền ông bẩm lại bá phụ và gia gia ta, hai mẹ con ta ở lại đây hợp lực chống lại Tứ Đại Ác Nhân.
Ngọc Hư tản nhân bật cười nói:
- Gớm sao con không biết thẹn, con có tài cán gì mà đòi hợp lực với ta để chống với Tứ Đại Ác Nhân?
Tuy bà bị con chọc cho bật cười nhưng những giọt lệ long lanh kia vẫn chảy dài xuống má, vội vàng quay người đi, đưa tay áo chùi nước mắt.
Mộc Uyển Thanh trong bụng ngạc nhiên: “Mẫu thân của Đoàn lang sao lại xuất gia? Xem chừng Vân Trung Hạc bỏ đi thể nào cũng gọi ba ác nhân đồng bọn của y tới cùng tấn công, mẹ chàng làm sao chống đỡ nổi? Tại sao bà ta nhất định không quay trở về nhà lánh nạn? À, ta hiểu rồi, đàn ông con trai bạc bẽo trên đời này thật nhiều, chắc là cha của Đoàn lang say mê người khác cho nên mẹ chàng mới giận dỗi bỏ đi tu”.
Nàng suy nghĩ như thế nên lòng nảy sinh ra mối đồng tình, cảm thấy bà ta thật đáng thương, bèn nói:
- Ngọc Hư tản nhân, để tiểu nữ giúp bà ngự địch.
Ngọc Hư tản nhân quan sát kỹ càng tướng mạo cô gái, đột nhiên nghiêm nghị hỏi:
- Cô nói thực cho ta nghe, Tu La Đao Tần Hồng Miên là gì của cô?
Mộc Uyển Thanh bực tức nói:
- Tôi đã nói rồi, từ xưa đến nay tôi chưa nghe cái tên đó bao giờ. Tần Hồng Miên là đàn ông hay đàn bà, là con người hay súc vật, tôi có biết đâu.
Ngọc Hư tản nhân nghe nàng nói: “là con người hay súc vật” lập tức an tâm, nghĩ thầm: “Nếu quả như cô ta là hậu bối của Tu La Đao thì đời nào đám dùng hai chữ “súc vật” bao giờ”. Tuy nghe cô nàng nói có vẻ đốp chát ngược ngạo, bà lập tức đổi mặt ôn hòa cười nói:
- Cô nương đừng trách. Ta vừa nhìn thấy thủ pháp phóng tên của cô lập tức liên tưởng đến một người đàn bà ta có biết, thậm chí đến mặt mũi cô cũng có đôi phần giống người đó thành thử mới nghi ngờ. Mộc cô nương, thế lệnh tôn, lệnh đường tên gọi ra sao? Võ công cô giỏi như thế, chắc hẳn dòng dõi danh môn.
Mộc Uyển Thanh lắc đầu:
- Tiểu nữ từ nhỏ mồ côi cả cha lẫn mẹ, do sư phụ nuôi dưỡng lớn khôn. Thành thử không biết tên cha tên mẹ là gì.
Ngọc Hư tản nhân hỏi gặng thêm:
- Như thế tôn sư là vị nào thế?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tiểu nữ tên là U Cốc Khách.
Ngọc Hư tản nhân trầm ngâm lẩm bẩm:
- U Cốc Khách? U Cốc Khách?
Bà quay sang Chu Đan Thần, liếc mắt có ý dò hỏi. Chu Đan Thần lắc đầu nói:
- Đan Thần sống lánh ở biên cương phương Nam, kiến thức hẹp hòi, những anh hiệp tiền bối đất Trung Nguyên, phần nhiều không biết đến. Vị tiền bối U Cốc Khách này hẳn là một cao sĩ ẩn dật chốn sơn lâm.
Y nói như thế chẳng qua chỉ là muốn bảo rằng cái tên U Cốc Khách chưa từng nghe đến. Còn đang nói chuyện bỗng nghe từ bên ngoài rặng liễu có tiếng chân ngựa gấp rút, từ xa có người kêu lên:
- Tứ đệ, công tử gia không việc gì chứ?
Chu Đan Thần vội đáp lời:
- Công tử gia đang ở đây, bình an đại cát.
Chỉ trong giây lát, ba con ngựa đã chạy tới ngừng ngay trước đạo quan, Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Phó Tư Qui cùng nhảy xuống chạy vào, hướng về Ngọc Hư tản nhân phục xuống vái lạy.
Mộc Uyển Thanh từ nhỏ lớn lên nơi sơn dã, thấy lễ số hoa dạng, hơi bực mình, nghĩ thầm: “Mấy người này võ công đều cao minh, sao lại cứ gặp ai cũng lạy lục là thế nào?”.
Ngọc Hư tản nhân thấy ba người hình mạo tang thương, Phó Tư Qui trên mặt bị một vết thương, một nửa mặt buộc bằng vải trắng, còn Chu Đan Thần thì trên người đầy vết máu, còn cái cần dài của Chử Vạn Lý gãy mất một nửa vội hỏi:
- Chuyện gì thế? Địch nhân mạnh lắm hay sao? Vết thương của Tư Qui ra thể nào?
Phó Tư Qui nghe bà ta hỏi lập tức mặt hầm hầm, lớn tiếng đáp:
- Tư Qui này học nghệ chưa tinh, thật đáng hổ thẹn, phiền Vương Phi phải lo lắng.
Ngọc Hư tản nhân ngậm ngùi nói:
- Ông còn gọi ta là Vương Phi nữa sao? Trí nhớ của ông hơi lẫn rồi đó.
Phó Tư Qui cúi đầu nói nhỏ:
- Vâng! Xin Vương Phi thứ tội.
Y mở miệng gọi “Vương Phi” đã thành thói, không dễ gì sửa đổi. Chu Đan Thần nói:
- Cao hầu gia ra sao?
Chử Vạn Lý đáp:
- Cao hầu gia bị chút nội thương, không tiện cưỡi ngựa chạy nhanh, chắc cũng đã đến rồi.
Ngọc Hư tản nhân kêu lên một tiếng “A” nho nhỏ, nói:
- Cao hầu gia cũng bị thương ư? Không ... không nặng lắm chứ?
Chử Vạn Lý đáp:
- Cao hầu gia đối chưởng với Nam Hải Ngạc Thần, đang lúc kịch liệt, Diệp Nhị Nương lén đánh trộm từ phía sau, Hầu gia không cách nào phân thủ, nên sau lưng bị trúng một chưởng của con ác bà kia.
Ngọc Hư tản nhân cầm tay Đoàn Dự nói:
- Mình ra xem Cao thúc thúc thế nào!
Hai mẹ con cùng ra rừng liễu, Mộc Uyển Thanh cũng đi theo. Bọn Chử Vạn Lý cũng buộc ngựa vào cây liễu đi theo nốt. Từ đằng xa một con ngựa chầm chậm đi tới, một người nằm phục trên yên. Cả bọn Ngọc Hư tản nhân cùng rảo bước đi tới, người đó chính là Cao Thăng Thái. Đoàn Dự vội vã tiến lên trước hỏi:
- Cao thúc thúc thấy trong người ra sao?
Cao Thăng Thái đáp:
- Cũng chưa sao.
Ông ta ngẩng lên thấy Ngọc Hư tản nhân vội cố gượng xuống ngựa hành lễ. Ngọc Hư tản nhân nói:
- Cao hầu gia đang bị thương, chẳng cần đa lễ.
Thế nhưng Cao Thăng Thái đã xuống được ngựa khom lưng nói:
- Cao Thăng Thái kính thăm hỏi Vương Phi an hảo.
Ngọc Hư tản nhân đáp lễ nói:
- Dự nhi, con đỡ Cao thúc thúc.
Mộc Uyển Thanh bụng đầy nghi hoặc: “Ông họ Cao này võ công thật là kinh người, chỉ với một ống sáo sắt trong vài chiêu đã đánh đuổi được Diệp Nhị Nương sao gặp mẹ của Đoàn lang lại cung kính đến thế? Lại còn gọi bà ta là Vương Phi, không lẽ ... không lẽ Đoàn lang .. chàng là ... chàng là vương tử gì chăng? Có điều anh chàng đồ gàn này làm chuyện gì cũng không giống ai, đâu có vẻ gì là con vua cháu chúa?”.
Ngọc Hư tản nhân nói:
- Xin mời Hầu gia lập tức trở về Đại Lý nghỉ ngơi.
Cao Thăng Thái đáp:
- Vâng! Tứ Đại Ác Nhân cùng đến Đại Lý, tình thế cực kỳ hung hiểm, xin Vương Phi tạm thời quay về vương phủ.
Ngọc Hư tản nhân thở dài, nói:
- Ta đã nhất quyết kiếp này không trở về nữa rồi.
Cao Thăng Thái đáp:
- Nếu quả như thế, bọn chúng tôi đóng ở bên ngoài Ngọc Hư Quan canh gác vậy.
Ông quay sang nói với Phó Tư Qui:
- Tư Qui, ngươi mau quay về bẩm báo.
Phó Tư Qui đáp lời:
- Vâng!
Y vội vàng đi tới bên con ngựa buộc bên ngoài Ngọc Hư Quan. Ngọc Hư tản nhân nói:
- Khoan đã!
Bà cúi đầu trầm tư, Phó Tư Qui liền ngừng bước.
Mộc Uyển Thanh thấy sắc mặt Ngọc Hư tản nhân biến đổi liên tiếp, rõ ràng trong bụng gặp chuyện khó khăn không dễ gì quyết đoán. Ánh sáng xế trưa chiếu nghiêng nghiêng lên mặt bà ta, xinh tươi rạng rỡ, tuy đã vào tuổi trung niên nhưng nhan sắc chưa suy giảm, nghĩ thầm: “Mẹ của Đoàn lang đẹp quá chừng, trông thật chẳng khác gì Quan Âm bồ tát trong tranh vẽ”.
Qua một lúc sau, Ngọc Hư tản nhân ngửng đầu lên nói:
- Thôi được, tất cả chúng ta cùng về Đại Lý, nếu không chỉ vì mình ta mà bao nhiêu người phải mạo hiểm.
Đoàn Dự mừng quá, nhảy cỡn lên, chạy tới bá cổ mẹ, kêu lên:
- Có thế mới thực là mẹ yêu của con.
Phó Tư Qui nói:
- Thuộc hạ xin đi trước báo tin.
Y quay lại cởi giây buộc ngựa, xoay mình nhảy lên, chạy vụt về hướng bắc. Chử Vạn Lý dẫn ngựa lại để Ngọc Hư tản nhân, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh ba người cưỡi.
Cả đoàn người cùng đi về hướng Đại Lý, Ngọc Hư tản nhân, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh và Cao Thăng Thái bốn người cưỡi ngựa, Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Cổ Đốc Thành ba người đi bộ bên cạnh. Đi được vài dặm thấy trước mặt là một đội kỵ binh chạy tới. Chử Vạn Lý vội vàng tiến lên trước nói với tên đội trưởng mấy câu. Gã đội trưởng liền quay lại ra lệnh, tất cả các kỵ binh cùng nhảy xuống, quì phục xuống đất. Đoàn Dự vẫy tay, cười nói:
- Khỏi phải đa lễ.
Tên đội trưởng ra lệnh nhường lại ba con ngựa cho bọn Chử Vạn Lý cưỡi, rồi chính mình tất lãnh kỵ binh đi trước mở đường, cả đoàn lộp cộp chạy về hướng thành Đại Lý.
Mộc Uyển Thanh thấy vậy biết rằng Đoàn Dự không phải người thường bỗng đâm lo: “Ta vẫn tưởng chàng chỉ là một thư sinh lang thang lưu lạc muốn lấy ai thì lấy. Xem đây thì thân thế anh ta không phải là hèn, nếu như chàng là hoàng thân quốc thích, hoặc là đại quan trong triều, e rằng có coi một đứa con gái rừng rú quê mùa như ta ra gì đâu. Sư phụ thường bảo, đàn ông càng phú quí thì càng vô lương tâm, lấy vợ lại còn đòi phải môn đăng hộ đối. Chậc chậc, nếu chàng bằng lòng lấy ta thì không nói gì, còn như thay lòng đổi dạ, tính chuyện nọ kia thì ta chém vài nhát cho biết tay. Ta chẳng cần biết anh chàng là hạng người gì!”.
Nàng nghĩ thế nhưng trong bụng vẫn thấy không xong giục ngựa chạy lên ngang Đoàn Dự hỏi nhỏ:
- Này, chàng là hạng người gì thế? Những gì mình thề hẹn với nhau trên đỉnh núi kia, liệu có tính đến hay không?
Đoàn Dự thấy chung quanh đầy người, bỗng nàng đề cập thẳng đến chuyện hôn nhân, không khỏi sượng sùng, cười nói:
- Để vào trong thành Đại Lý, thủng thẳng rồi ta sẽ nói cho nàng nghe.
Mộc Uyển Thanh hậm hực:
- Nếu như chàng phụ ... chàng phụ bạc ... thiếp ... thiếp ...


Chú thich
1 Thất tuyệt là thơ bốn câu mỗi câu bảy chữ (thất ngôn tứ tuyệt) còn ngũ tuyệt là thơ bốn câu mỗi câu năm chữ (ngũ ngôn tứ tuyệt)
2 Lương chuyên là cột nhà, xà nhà ý nói bề tôi lương đống
3 Vô Lượng là tên cả một dãy núi chạy dài từ Tây Tạng xuống tận miền Bắc nước ta chứ không phải chỉ là một ngọn núi mà thôi
4 tự Huyền Thành (580-643) một danh thần đời Đường, hình mạo xấu xí nhưng rất trung liệt, khẳng khái làm quan tới chức Trịnh Quốc Công
5 thông hiểu hết mọi sách vở
6 chùa, đền dành riêng cho đạo sĩ
7 nhất tiễn song điêu
8 hồng phi minh minh


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:05 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Chàng là con cái nhà ai,
Để cho thiếp phải trúc mai đi tìm?
*
* *

Nói hai chữ “thiếp” rồi không nói thêm được nữa. Đoàn Dự thấy nàng mặt đỏ bừng, nước mắt rưng rưng, trông thật kiều diễm, càng thấy yêu hơn nói nhỏ:
- Ta mong còn chưa được, nàng yên tâm, mẹ ta cũng thương em lắm.
Mộc Uyển Thanh sắp khóc bỗng bật cười hạ giọng:
- Mẹ anh có thích em hay không, điều đó đâu phải là chủ yếu.
Ý nàng muốn bảo là “chỉ cần anh yêu em thế cũng đủ rồi”. Đoàn Dự nghe vậy bỗng nổi sóng tình, đưa mắt thấy mẹ đang nhìn mình cười nửa miệng bối rối không để đâu cho hết.
Đến khoảng giờ thân thì chỉ còn cách thành Đại Lý chừng hai ba chục dặm thấy xa xa trước mặt bụi bay mù mịt, khoảng một nghìn kỵ binh xếp thành hàng ngũ chạy tới, hai bên hai lá cờ màu vàng nhạt phất phới bay, một bên thêu “Trấn Nam” hai chữ màu đỏ, còn một bên thêu hai chữ “Bảo Quốc” màu đen. Đoàn Dự kêu lên:
- Mẹ ơi, cha con đích thân ra đón mẹ kìa.
Ngọc Hư tản nhân hừ một tiếng ghìm cương đứng lại. Bọn Cao Thăng Thái tất cả lập tức xuống ngựa, đứng tránh ra hai bên đường. Đoàn Dự giục ngựa chạy lên, Mộc Uyển Thanh chần chừ rồi cũng đuổi theo sau.
Chỉ giây lát hai bên đến gần, Đoàn Dự kêu lớn:
- Gia gia, mẹ con về đây.
Hai tên kỳ thủ liền giạt qua hai bên, một người mặc áo bào tía, cưỡi một con ngựa trắng cao lớn chạy vọt lên, quát lớn:
- Dự nhi, mi quả thật quấy phá quá lắm, làm cho Cao thúc thúc phải bị trọng thương, ta phải đánh cho gãy hai đùi mi mới xong.
Người áo bào tía kia mặt hình chữ quốc , thần thái uy nghiêm, mắt to mày rậm, chỉ thoáng trông đã biết là bậc vương giả, thấy con lành lặn trở về, tuy ba phần giận dữ không khỏi bảy phần mừng rỡ. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Cũng may Đoàn lang tướng mạo giống mẹ nhiều hơn, không giống cha. Nếu như chàng mặt mày cũng hầm hầm hung dữ như bố, ta thật chẳng ưa chút nào”.
Đoàn Dự giật cương vọt lên, cười nói:
- Cha ơi, lão nhân gia khỏe chứ?
Người áo bào tía vẫn hầm hầm:
- Khỏe ở chỗ nào? Chưa chết vì bực tức cũng là may.
Đoàn Dự cười giả lả:
- Nếu như con không đi ra ngoài thì làm sao đón được mẹ quay về. Nhi tử lập được chút công lao hãn mã này, cũng không phải nhỏ. Cha ơi, thôi thì lấy công chuộc tội, cha đừng giận con nhé.
Người áo bào tía hừ một tiếng nói:
- Dẫu ta có tha cho ngươi thì bá phụ ngươi cũng không dung cho đâu.
Ông kẹp hai chân thúc một cái, con bạch mã chạy tới như bay về phía Ngọc Hư tản nhân. Mộc Uyển Thanh thấy đội kỵ binh ai nấy mặc áo gấm, giáp trụ sáng choang, binh khí lấp loáng, hai chục người đi đầu tay cầm nghi trượng, một bên là tấm biển sơn son viết một hàng sáu chữ “Đại Lý Trấn Nam Vương Đoàn”, bên kia là một tấm biển vẽ đầu hổ trên viết sáu chữ “Bảo Quốc Đại Tướng Quân Đoàn”. Nàng tuy là loại gái ngang bướng không sợ trời đất gì cả nhưng thấy khí thế uy nghi, trong bụng không khỏi phập phồng, hỏi Đoàn Dự:
- Này, vị Trấn Nam Vương Bảo Quốc Đại Tướng Quân là cha chàng đấy ư?
Đoàn Dự mỉm cười gật đầu, nói sẽ:
- Đó là bố chồng em đó.
Mộc Uyển Thanh ghìm cương đứng lại thẫn thờ, trong phút chốc thấy lòng thật là trống trải. Nàng ngơ ngẩn hồi lâu rồi giục ngựa chạy đến bên cạnh Đoàn Dự. Trên đường trước sau trái phải đầy những người nhưng sao trong thâm tâm nàng thấy mình cô đơn lạ lùng nên phải nép vào bên Đoàn Dự mới thấy đôi chút bình an.
Trấn Nam Vương dừng ngựa trước Ngọc Hư tản nhân chừng một trượng, hai người đăm đăm nhìn nhau, không ai mở miệng trước. Đoàn Dự nói:
- Mẹ ơi, cha con đích thân ra đón mẹ đây.
Ngọc Hư tản nhân đáp:
- Con chạy lên thưa với bá mẫu rằng mẹ sang bên đó ở ít ngày, đẩy lui được địch nhân rồi ta sẽ quay về Ngọc Hư Quan.
Trấn Nam Vương cười góp:
- Phu nhân chưa hết giận hay sao? Để khi mình về nhà rồi, từ từ ta sẽ bồi lễ.
Ngọc Hư tản nhân sầm mặt xuống:
- Tôi không muốn về nhà, tôi muốn vào cung kia.
Đoàn Dự nói:
- Hay lắm, thôi mình tiến cung trước, bái kiến bá phụ, bá mẫu rồi tính sau. Mẹ ơi, lần này con trốn ra ngoài đi chơi, bá phụ nhất định giận lắm, cha con chắc chẳng thèm nói giúp con đâu. Mẹ giúp nhi tử nói chữa vài câu nhé!
Ngọc Hư tản nhân nói:
- Cậu ấm càng lớn càng hư, cứ để cho bác cậu đánh đòn một chập cho xong.
Đoàn Dự cười:
- Đánh vào thân con nhưng mẹ đau trong dạ, không đánh có phải hay hơn không?
Ngọc Hư tản nhân bị chàng trêu ghẹo bật cười nói:
- Gớm, đánh càng đau tôi càng mừng chứ tôi chẳng thương cậu đâu.
Trấn Nam Vương và Ngọc Hư tản nhân hai người đang ngượng ngùng, được Đoàn Dự chen vào pha trò mấy câu, bà tươi lên cười một tiếng, cục thế liền dịu lại. Đoàn Dự nói:
- Thưa cha, ngựa cha cưỡi đẹp quá, sao cha không nhường cho mẹ con cưỡi đi?
Ngọc Hư tản nhân nói:
- Ta không cưỡi.
Nói rồi giục ngựa chạy về trước. Đoàn Dự đuổi theo, giơ tay ghìm cương ngựa của mẫu thân lại. Trấn Nam Vương lúc này đã xuống ngựa, dắt con bạch mã đến. Đoàn Dự cười hì hì, nhắc mẹ để lên yên, cười nói:
- Mẹ à, một người xinh đẹp tuyệt thế vô song như mẹ cưỡi trên lưng con ngựa trắng này trông càng dễ coi hơn. Thật đúng là Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm.
Ngọc Hư tản nhân cười đáp:
- Mộc cô nương của con mới thật là mỹ nhân tuyệt thế vô song, con trêu một bà già như mẹ đấy à?
Trấn Nam Vương quay sang nhìn Mộc Uyển Thanh. Đoàn Dự lắp bắp:
- Nàng ... nàng là Mộc cô nương, là ... là hảo bằng hữu ... nhi tử kết giao đó.
Trấn Nam Vương nhìn thần sắc của con, đã biết ý, thấy Mộc Uyển Thanh dung nhan xinh đẹp, tấm tắc khen thầm: “Dự nhi quả có con mắt tinh đời”.
Ông nhìn thấy ánh mắt Mộc Uyển Thanh đầy vẻ chất phác, cũng không đến bái kiến mình, nghĩ thầm: “Hóa ra là một cô gái nhà quê chẳng biết lễ nghi là gì”. Ông trong bụng lo cho thương thế của Cao Thăng Thái, vội vã đi đến bên cạnh ông ta hỏi:
- Thái đệ, nội thương hiền đệ ra sao?
Ông giơ tay bắt mạch. Cao Thăng Thái đáp:
- Đốc mạch tiểu đệ bị thương, nhưng cũng không sao. Vương huynh chẳng cần ... chẳng cần tổn hao công lực ...
Nói chưa dứt câu, Trấn Nam Vương đã giơ ngón tay trỏ bên phải, điểm luôn ba cái vào sau cổ, rồi đè tả chưởng vào ngang hông ông ta. Chỉ thấy trên đầu Trấn Nam Vương từng tia khí trắng li ti bốc lên, độ chừng uống một chén trà mới rút về. Cao Thăng Thái nói:
- Thuần ca, đại địch ở trước mặt, sư ca việc gì phải hao tốn công lực vì tiểu đệ trong lúc này?
Trấn Nam Vương cười nói:
- Nội thương của hiền đệ không phải nhẹ, trị sớm chút nào hay lúc ấy. Để khi gặp đại ca rồi chắc hẳn ông ấy không chịu để ta ra tay đâu mà thể nào cũng tự mình làm lấy.
Mộc Uyển Thanh thấy Cao Thăng Thái sắc mặt vốn tái mét trông thật đáng sợ nhưng chỉ trong giây lát, hai má đã có sắc hồng, nghĩ thầm: “Thì ra cha của Đoàn lang nội công thật là thâm hậu, vậy mà sao chàng ... chàng chẳng biết tí võ công nào?”. Chử Vạn Lý dắt một con ngựa tới, hầu Trấn Nam Vương lên yên. Trấn Nam Vương và Cao Thăng Thái hai người cưỡi ngựa đi song song, hỏi nhỏ địch tình thế nào. Hai mẹ con Đoàn Dự nói nói cười cười, đằng trước đằng sau có thiết giáp vệ sĩ tiền hô hậu ủng đi về phái thành Đại Lý, để Mộc Uyển Thanh lủi thủi một mình.
Đến khi chiều xuống, đoàn người tiến vào cửa thành phía nam. Hai lá cờ Trấn Nam, Bảo Quốc đi đến đâu, bách tính đều reo hò:
- Trấn Nam Vương Gia thiên tuế!
- Đại tướng quân thiên tuế!
Trấn Nam Vương liền giơ tay đáp lại. Mộc Uyển Thanh thấy trong thành Đại Lý dân cư đông đúc, chợ búa nhộn nhịp, đường sá đều lót đá xanh. Đi qua mấy con đường trước mặt là một con đường đá thẳng tắp, tận cùng đầu kia vô số cung điện ngói vàng cao vút lên, ánh tà dương chiếu vào lớp đá lưu ly quả thật rực rỡ xán lạn, khiến ai nấy lóa cả mắt.
Cả đoàn người đi đến trước một cái cổng vòm tất cả đều xuống ngựa. Mộc Uyển Thanh thấy trên tấm biển có bốn chữ vàng lớn: Thánh Đạo Quảng Từ, nghĩ thầm: “Đây chắc là hoàng cung nước Đại Lý. Bá phụ của Đoàn lang sống trong hoàng cung, chắc hẳn cũng là một vị quan lớn, vương gia, đại tướng quân chi đó!”.
Mọi người đi qua cái cổng vòm, Mộc Uyển Thanh thấy biển ngạch trên cửa cung viết ba chữ vàng: Thánh Từ Cung. Một người thái giám vội vã đi ra nói:
- Khải bẩm vương gia: Hoàng thượng và nương nương đang chờ ở vương gia phủ, xin mời vương gia, vương phi quay về Trấn Nam Vương phủ kiến giá.
Trấn Nam Vương đáp:
- Được.
Đoàn Dự cười nói:
- Hay lắm! Hay lắm!
Ngọc Hư tản nhân lườm chàng một cái, giận dỗi hỏi:
- Hay cái gì? Ta ở trong hoàng cung chờ nương nương cũng được.
Gã thái giám nói:
- Nương nương có dặn vương phi lập tức triều kiến ngay, nương nương có việc quan trọng cần phải bàn với vương phi.
Ngọc Hư tản nhân lẩm bẩm:
- Có việc gì mà bảo là quan trọng? Chỉ bày chuyện ra thôi.
Đoàn Dự biết rằng đây là hoàng hậu cố ý an bài, liệu rằng mẹ chàng ắt sẽ không chịu về vương phủ nên đến Trấn Nam Vương phủ trước để chờ, thực thì chỉ có ý tốt muốn cha mẹ chàng tái hợp nên trong lòng vui lắm.
Cả đoàn người lại ra khỏi cổng vòm, lên ngựa quay về hướng đông, đi khoảng chừng hai dặm, đến trước một tòa phủ đệ thật lớn. Trước phủ môn là hai lá đại kỳ, trên cờ thêu một bên Trấn Nam, một bên Bảo Quốc, còn trên phủ ngạch là bốn chữ Trấn Nam Vương Phủ. Trước cửa phủ đứng đầy thân binh, vệ sĩ thấy đoàn người liền khom lưng cúi chào, nghinh đón vương gia, vương phi trở về.
Trấn Nam Vương đi vào phủ đầu tiên, Ngọc Hư tản nhân đạp chân lên bậc thềm đầu tiên bỗng nhiên ngừng lại, mắt rưng rưng, nước mắt rơi lã chã. Đoàn Dự vừa dìu vừa đỡ mẹ đi vào đại môn nói:
- Thưa cha, nhi tử mời được mẫu thân trở về quả là đại công, cha thưởng con gì nào?
Trấn Nam Vương trong lòng vui sướng nói:
- Con hỏi xem mẹ muốn thưởng gì, ta cứ thế mà ban cho.
Ngọc Hư tản nhân đang khóc bật cười nói:
- Ta bảo thưởng cho ngươi mấy roi.
Đoàn Dự le lưỡi không nói gì. Bọn Cao Thăng Thái đến đại sảnh, chia ra đứng hai bên, Trấn Nam Vương nói:
- Thái đệ trên người bị thương, hãy ngồi xuống.
Đoàn Dự quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:
- Uyển muội ngồi đây chờ một lát, ta bái kiến hoàng thượng, hoàng hậu rồi sẽ ra với nàng.
Mộc Uyển Thanh quả không muốn rời chàng ra phút nào nhưng không cách gì ngăn trở, chỉ đành miễn cưỡng gật đầu rồi ngồi xuống chiếc ghế đầu tiên. Những người còn lại ai nấy đều đứng, chờ cho vợ chồng Trấn Nam Vương và Đoàn Dự vào trong nội đường, khi ấy Cao Thăng Thái mới ngồi xuống, nhưng bọn Chử Vạn Lý, Chu Đan Thần, Cổ Đốc Thành vẫn thõng tay đứng thẳng.
Mộc Uyển Thanh chẳng để ý, đưa mắt nhìn đại sảnh, thấy ngay chính giữa là một tấm biển nằm ngang viết bốn chữ đại tự “Bang Quốc Trụ Thạch” , lạc khoản có thêm bốn chữ nhỏ “Đinh Mão ngự bút”. Trên các cột trong sảnh đường treo đầy tự họa, nhưng nàng chẳng coi được bao nhiêu, lại thêm nhiều chữ nàng không biết. Người hầu bưng trà lên, cung kính nâng cao quá đỉnh đầu. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Những người này thật là lạ lùng”. Nàng thấy chỉ có mình và Cao Thăng Thái hai người là có trà uống, còn bọn Chu Đan Thần khi ngự địch uy phong biết bao nhiêu, đến Trấn Nam Vương phủ rồi, cung kính đứng sững đến thở mạnh cũng không dám, đâu còn gì là vẻ anh hùng hảo hán thân mang võ công thượng thừa?
Qua độ nửa giờ, Mộc Uyển Thanh đợi lâu quá không chịu nổi, kêu ầm lên:
- Đoàn Dự, Đoàn Dự, sao mãi chưa ra?
Trong đại sảnh tuy đầy những người nhưng ai nấy nín thở không dám nói tiếng nào, đột nhiên Mộc Uyển Thanh la lối ầm ỹ, khiến mọi người nhảy dựng lên vì sợ. Cao Thăng Thái mỉm cười nói:
- Cô nương đừng sốt ruột, tiểu vương gia ra ngay bây giờ.
Mộc Uyển Thanh kỳ lạ hỏi lại:
- Cái gì mà tiểu vương gia?
Cao Thăng Thái đáp:
- Đoàn công tử là thế tử của Trấn Nam Vương chẳng phải là tiểu vương gia hay sao?
Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm nói một mình:
- Tiểu vương gia! Tiểu vương gia! Anh chàng đồ gàn ấy có vẻ gì là tiểu vương gia đâu nhỉ?
Chỉ thấy từ nội đường một người thái giám đi ra nói:
- Hoàng thượng có chỉ: Đòi Thiện Xiển Hầu và Mộc Uyển Thanh vào triều kiến.
Cao Thăng Thái thấy người thái giám đi ra vốn đã cung kính đứng lên, còn Mộc Uyển Thanh vẫn ngang nhiên ngồi đó, nghe tên thái giám gọi thẳng tên mình, trong bụng không vui, nói nhỏ:
- Không lẽ ta không đáng gọi một tiếng cô nương hay sao mà phải kêu réo tên của ta ra?
Cao Thăng Thái nói:
- Mộc cô nương, chúng ta cùng vào khấu kiến hoàng thượng.
Mộc Uyển Thanh tuy chẳng biết sợ trời sợ đất là gì nhưng nghe nói vào triều kiến hoàng đế, trong bụng cũng hơi chột dạ, chỉ lẽo đẽo đi theo Cao Thăng Thái, qua một hành lang dài, tới một đình viện đi hết phòng này sang phòng khác, sau cùng đến bên ngoài một hoa sảnh.
Người thái giám đó báo:
- Thiện Xiển Hầu, Mộc Uyển Thanh triều kiến hoàng thượng và nương nương.
Nói rồi liền vén màn lên. Cao Thăng Thái đưa mắt cho Mộc Uyển Thanh, tiến vào hoa sảnh, hướng về một người đàn ông và một người đàn bà ngồi ngay chính giữa quì xuống. Mộc Uyển Thanh không quì, thấy người đàn ông mặc hoàng bào, để râu dài, tướng mạo tuấn tú thanh nhã bèn hỏi:
- Ông là hoàng đế đó sao?
Người đàn ông ngồi ngay chính giữa đó chính là đương kim hoàng đế nước Đại Lý Đoàn Chính Minh, đế hiệu là Bảo Định Đế. Nước Đại Lý kiến quốc từ năm Thiên Phúc thứ hai nhà Hậu Tấn đời Ngũ Đại, còn sớm hơn vụ khoác áo hoàng bào lên người Triệu Khuông Dẫn trong binh biến Trần Kiều tới hai mươi ba năm.
Họ Đoàn nước Đại Lý vốn là người quận Võ Uy, thủy tổ là Đoàn Kiệm Ngụy, làm Thanh Bình Quan cho họ Mông nước Nam Chiếu, truyền sáu đời tới Đoàn Tư Bình thì làm chức Tiết Độ Sứ đất Thông Hải. Năm Đinh Dậu họ Đoàn chiếm được nước này xưng là Thái Tổ Thần Thánh Văn Võ Đế. Truyền được mười bốn đời thì tới Đoàn Chính Minh đến nay đã hơn một trăm năm mươi năm.
Đời bấy giờ nhà Tống ở Biện Lương vua Triết Tông đang tại vị, tuổi còn nhỏ, bà Thái Hoàng Thái Hậu Cao thị ngồi sau màn điều khiển việc triều chính. Bà Thái Hoàng Thái Hậu biết dùng những danh thần, loại bỏ những chính sách hà khắc khiến cho trăm họ an lạc, đất Trung Nguyên thanh bình, thật là vị nữ vương anh minh nhân hậu số một của Trung Quốc nên sử gọi là “bậc Nghiêu Thuấn nữ lưu” (nữ trung Nghiêu Thuấn). Nước Đại Lý ở riêng một cõi cương vực phương nam, các vị hoàng đế ai nấy sùng tín Phật pháp, tuy tự lập đế hiệu nhưng vẫn thần phục nhà Đại Tống nên hai bên chưa từng có việc can qua. Bảo Định Đế tại vị mười một năm đổi niên hiệu ba lần gồm Bảo Định, Kiến An, Thiên Tá. Lúc này đang vào thời Thiên Tá, bốn phương phẳng lặng, quốc thái dân an.
Bảo Định Đế thấy Mộc Uyển Thanh không quì lạy mình, mở miệng hỏi ngay mình có phải hoàng đế không, không khỏi nực cười, nói:
- Ta chính là hoàng đế đây. Cô đi chơi trong thành Đại Lý có thấy vui không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Tiểu nữ vừa vào trong thành là đi gặp ông ngay, chưa từng đi chơi.
Bảo Định Đế mỉm cười:
- Thế thì sáng mai bảo Dự nhi dẫn cô đi mọi nơi để xem phong cảnh trong thành Đại Lý của chúng ta nhé.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hay lắm, thế ông có đi chung với chúng tôi không?
Nàng vừa nói câu này ra, ai nấy không khỏi mỉm cười. Bảo Định Đế quay lại nhìn hoàng hậu đang ngồi bên cạnh mình, cười nói:
- Hoàng hậu, cô bé này bảo mình dẫn cô ta đi chơi, bà có chịu đi không?
Hoàng hậu mỉm cười chưa kịp trả lời, Mộc Uyển Thanh đưa mắt nhìn bà xem xét nói:
- Bà là hoàng hậu nương nương đấy ư? Thảo nào bà đẹp quá đi thôi.
Bảo Định Đế cười ha hả nói:
- Dự nhi, Mộc cô nương thành thực ngây thơ, thật là thú vị.
Mộc Uyển Thanh hỏi lại:
- Sao ông lại gọi anh ta là Dự nhi? Anh ấy thường nhắc đến bá phụ, có phải là ông không? Lần này anh ấy lén trốn nhà ra đi, chỉ sợ ông nổi giận, ông đừng đánh anh ấy có được không?
Bảo Định Đế mỉm cười:
- Trẫm vốn định đánh cho nó năm mươi roi nhưng cô nương đã xin thì tha cho y vậy. Dự nhi, con mau cảm tạ Mộc cô nương đi chứ!
Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh làm cho hoàng thượng cao hứng, trong lòng rất mừng, biết tính bác mình hiền hòa, nên quay sang vái Mộc Uyển Thanh một cái nói:
- Xin cảm tạ ân đức của Mộc cô nương đã xin giùm cho.
Mộc Uyển Thanh đáp lễ nói nhỏ:
- Bá phụ chàng bằng lòng tha cho chàng rồi, thiếp mới an tâm. Chẳng cần chàng phải tạ ơn làm gì.
Nàng quay sang nói với Bảo Định Đế:
- Tiểu nữ cứ tưởng hoàng đế là phải hung ác dễ sợ, có ngờ đâu ... ngờ đâu ông ... ông tốt quá.
Ngoại trừ khi còn bé được phụ hoàng, mẫu hậu khen ngợi, hơn mười năm qua Bảo Định Đế chỉ thấy người khác sợ hãi, cung kính chưa từng nghe ai bảo “ông tốt quá”, nay thấy Mộc Uyển Thanh hồn nhiên như vàng ngọc chưa mài, không thông thế sự nhân tình nên càng thêm yêu mến, quay sang nói với hoàng hậu:
- Bà có gì thưởng cho cô ấy không?
Hoàng hậu tháo chiếc vòng ngọc ở cổ tay ra, đưa cho nàng nói:
- Thưởng cho cô đây!
Mộc Uyển Thanh tiến lên tiếp lấy, đeo vào tay mình, nở một nụ cười nói:
- Cám ơn bà. Lần sau tôi sẽ đi tìm vật gì thật đẹp để tặng cho bà.
Hoàng hậu mỉm cười:
- Vậy thì ta cám ơn cô trước.
Bỗng nghe từ mé phái tây trên mái nhà cách chừng mấy căn có tiếng loạt soạt, tiếp theo mái nhà kế bên cũng nghe một tiếng động khác. Mộc Uyển Thanh kinh hãi, biết là có kẻ địch đến tấn công, người đó đi quả là nhanh. Lại nghe vèo vèo, đã có ai đó nhảy lên nóc nhà, rồi tiếng Chử Vạn Lý quát lên:
- Các hạ đêm khuya vào trong vương phủ là có ý gì?
Một giọng ồm ồm như nghẹt mũi cất lên:
- Ta đi kiếm học trò ta! Mau gọi học trò cưng của ta ra gặp ta.
Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần. Mộc Uyển Thanh càng kinh hãi hơn, tuy biết rằng vương phủ giới bị sâm nghiêm, vệ sĩ đông như kiến, Trấn Nam Vương, Cao Thăng Thái, Ngọc Hư tản nhân và Chử Cổ Phó Chu đều là những người võ công trác tuyệt nhưng Nam Hải Ngạc Thần quá ư lợi hại, nếu như lại có cả Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc và cái kẻ được mệnh danh là ác nhất thiên hạ chưa từng gặp kia đến tiếp tay, tứ ác liên thủ, nhất định bắt Đoàn Dự cho bằng được thì e rằng khó mà ngăn trở.
Lại nghe Chử Vạn Lý hỏi tiếp:
- Cao đồ của các hạ là ai? Trong phủ Trấn Nam Vương làm gì có đồ đệ của các hạ? Mau đi ra đi.
Đột nhiên nghe soẹt một tiếng, từ trên không một bàn tay to lớn thò xuống xé toạc chiếc rèm che sảnh môn ra làm hai, rồi một bóng người thấp thoáng, Nam Hải Ngạc Thần đã đứng ngay giữa sảnh đường. Đôi mắt ti hí của y đảo vòng quanh, đã thấy ngay Đoàn Dự liền cười ha hả kêu lên:
- Lão tứ nói chẳng sai, học trò cưng của ta ở đây thật. Mau mau cầu ta thu ngươi làm đồ đệ để theo ta học công phu.
Y nói xong liền giơ bàn tay như chiếc chân gà chộp vào vai Đoàn Dự. Trấn Nam Vương thấy thế trảo của y đến thật nhanh, quả thực ghê gớm, sợ đứa con yêu bị thương, lập tức múa chưởng đánh ra. Hai người đụng nhau, nghe bình một tiếng, đều thấy chấn động. Nam Hải Ngạc Thần trong bụng kinh hãi thầm hỏi:
- Ngươi là ai? Ta đến đón học trò ta có liên can gì đến ông.
Trấn Nam Vương mỉm cười:
- Tại hạ Đoàn Chính Thuần. Thằng bé này là con trai ta, bái ông làm thầy hồi nào?
Đoàn Dự cười nói:
- Sao ông cứ khăng khăng muốn thu ta làm đồ đệ, ta đã nói ta có sư phụ rồi, ông cứ một mực không tin.
Nam Hải Ngạc Thần đưa mắt nhìn Đoàn Dự, rồi lại nhìn Trấn Nam Vương nói:
- Sao bố thì võ công cao cường, con thì một mảy không biết, ta không tin hai người là cha con. Đoàn Chính Thuần, thôi ta bỏ qua không bắt bẻ nhưng dẫu y có là con ông thật thì hoặc là ông dạy không đúng cách, hoặc là con ông quá chậm lụt. Tiếc quá, hà hà, tiếc quá.
Đoàn Chính Thuần hỏi lại:
- Tiếc cái gì?
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Con ông thật là giống ta, quả là một nhân tài hiếm có để học võ, chỉ cần theo ta mười năm, bảo đảm sẽ thành một cao thủ võ lâm thật ghê gớm.
Đoàn Chính Thuần vừa bực mình, vừa nực cười, thế nhưng vừa rồi đối chưởng với y, biết gã này võ công quả thực đáng nể, đang định trả lời, Đoàn Dự đã bước ra nói:
- Nhạc lão tam, nhà ngươi võ công có ra gì đâu, không thể nào bằng sư phụ ta được, mau quay về đảo Vạn Ngạc ngoài Nam Hải luyện thêm hai chục năm rồi hãy quay lại đây đàm luận võ học với ta.
Nam Hải Ngạc Thần nổi cáu, quát lên:
- Cỡ như ngươi mà dám chê bai võ công của ta không ra gì ư?
Đoàn Dự đáp:
- Ta hỏi ngươi: “Phong lôi, Ích. Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải” là nghĩa thế nào?
Nam Hải Ngạc Thần đứng ngơ ngẩn, nổi cọc đáp:
- Làm đếch có nghĩa lý gì? Nói láo lếu thôi.
Đoàn Dự nói:
- Đến mấy câu ý nghĩa nông cạn như thế ngươi cũng không biết mà nói gì đến võ học? Ta hỏi thêm câu nữa: “Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương. Tự thượng hạ hạ, kỳ đạo đại quang” thế là nghĩa làm sao?
Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương, Cao Thăng Thái tất cả thấy chàng đem Kinh Dịch ra để đùa rỡn gã này, không khỏi nực cười. Mộc Uyển Thanh tuy không hiểu chàng đang nói gì nhưng cũng đoán được là chàng đồ gàn đang xổ chữ nghĩa.
Nam Hải Ngạc Thần đứng ngẩn ngơ thấy ai nấy đang mủm mỉm cười chế nhạo mình, đoán chừng Đoàn Dự nói chẳng phải là điều hay ho gì, liền rống lên một tiếng, định tung chưởng đánh ra. Đoàn Chính Thuần tiến lên nửa bước, chặn ngay trước mặt con. Đoàn Dự cười nói:
- Ta nói đây toàn là võ công bí quyết, bên trong vô cùng ảo diệu, xem ra ngươi chẳng hiểu gì cả. Ngươi đúng là ếch ngồi đáy giếng, vậy mà đòi làm sư phụ ta, không sợ thiên hạ cười đến trẹo quai hàm hay sao? Ha ha! Những sư phụ ta từng bái gồm có Ngọc Động thần tiên, túc nho học rộng, đại đức cao tăng. Còn ngươi ư, có luyện thêm một chục năm nữa cũng chưa đáng học trò ta.
Nam Hải Ngạc Thần gầm lên:
- Sư phụ ngươi là ai? Mau mau gọi y ra đây, lộ chút tài nghệ ta xem nào.
Đoàn Chính Thuần thấy chỉ có một người trong tứ ác đến đây, võ công tuy cao cường thật nhưng so với mình vẫn còn kém một chút, cũng muốn nhân dịp này đùa rỡn y một phen để hoàng thượng, hoàng hậu và phu nhân giải trí nên thấy con mình huyên hoang khoác lác, ông vẫn để yên không ngăn trở.
Đoàn Dự thấy bá phụ cười hì hì, phụ thân cũng mặc kệ không nói gì, được thể làm già, quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:
- Được, ngươi có gan thì chờ ở đây, ta đi mời sư phụ ta tới, chỉ sợ ngươi co giò chạy mất.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Ta Nhạc lão nhị một đời tung hoành giang hồ, đã sợ ai chưa? Đi mau, đi mau.
Đoàn Dự quay mình đi ra. Nam Hải Ngạc Thần đưa mắt nhìn mọi người, thấy ai nấy đều mỉm cười, nghĩ thầm: “Gã học trò ta võ công tệ hại dở như rắm chó, sư phụ y thì đã bằng ai? Lão tử chẳng đếch gì mà phải sợ”.
Chỉ nghe tiếng dép lẹp xẹp, Đoàn Dự đã dẫn một người tiến vào vừa tới ngoài cửa đã nói:
- Nhạc lão tam chạy mất chưa? Cha đừng để y chạy mất, sư phụ con tới đây.
Nam Hải Ngạc Thần gầm lên:
- Ta chạy đâu mà chạy? Con mẹ nó chứ, mau nói sư phụ ngươi vào đây. Ngươi không chịu theo học minh sư chắc là bởi vì gã ám sư của ngươi không chịu. Để ta bẻ cổ tên sư phụ chó chết kia trước, ngươi không có sư phụ, không thể không bái ta làm thầy, ý kiến đó cao minh hết nước nói.
Y còn đang tự mèo khen mèo dài đuôi, Đoàn Dự đã dẫn một người vào, vừa thấy mặt ai nấy cười sằng sặc. Người đó đầu đội tiểu mạo, thân mặc trường bào, râu cá chốt loe hoe vàng ệch, đôi mắt lờ đờ đỏ ngầu, so vai rụt cổ, hình dáng thật là bệ rạc. Ngọc Hư tản nhân cả bọn nhận ra y là Hoắc tiên sinh, một trong đám thủ hạ của người quản phủ. Người này suốt ngày lờ đờ, ngủ chẳng ra ngủ, thức chẳng ra thức, chỉ thích lê la bài bạc với đám đầy tớ trong vương phủ. Lúc này y nửa say nửa tỉnh, áo quần đầy dầu mỡ, bị Đoàn Dự nắm tay lôi lên, khép nép rụt rè không dám vào. Y vừa đến hoa sảnh vội vàng quì xuống khấu đầu bái kiến Bảo Định Đế và hoàng hậu. Bảo Định Đế không biết y là ai chỉ nói:
- Miễn lễ!
Đoàn Dự cầm tay Hoắc tiên sinh quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:
- Nhạc lão tam, trong số các vị sư tôn, vị sư phụ này võ công kém nhất, ngươi phải thắng được ông ta đã rồi hãy nói chuyện tỉ võ với các vị sư phụ khác.
Nam Hải Ngạc Thần hầm hè nói:
- Trong ba chiêu mà Nhạc lão nhị này không đánh cho y gãy gối tối mặt thì ta sẽ lạy ngươi làm thầy.
Đoàn Dự ánh mắt lóe lên một tia hi vọng nói:
- Ngươi nói có thật chăng? Nam tử hán đại trượng phu nói ra mà không giữ lời, thì là đồ rùa đen, là quân đê tiện.
Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:
- Lại đây! Lại đây! Lại đây!
Đoàn Dự nói:
- Nếu chỉ đánh ba chiêu thì chẳng cần phải sư phụ ta ra tay, để ta tiếp ngươi ba chiêu cũng được rồi.
Nam Hải Ngạc Thần nghe Vân Trung Hạc báo tin, lật đật chạy tới Trấn Nam Vương phủ quyết ý bắt cho bằng được Đoàn Dự để làm truyền nhân phái Nam Hải nhưng sau khi đối chưởng với Đoàn Chính Thuần rồi cũng hơi ngán ngẩm. Y thấy cao thủ đông đảo vây quanh thế này, muốn bắt Đoàn Dự đem đi quả không phải dễ, chỉ riêng cha của đứa học trò này, xem ra cũng đánh không lại, nay nghe Đoàn Dự tự nguyện động thủ với mình, thật mừng không để đâu cho hết. Y chỉ ra tay là bắt được chàng ngay, lúc đó bọn Đoàn Chính Thuần dù võ công cao cường đến đâu thì cũng phải chịp lép một bề không dám chống cự đành giương mắt nhìn mình xách tên học trò đi, bèn nói:
- Hay lắm, ngươi ra đây đỡ ta ba chiêu, ta không dùng nội lực, quyết không đả thương ngươi đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Hai người mình phải nói rõ trước, trong vòng ba chiêu ngươi không đánh ngã được ta thì sẽ ra thế nào?
Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả, y biết Đoàn Dự chỉ là một thư sinh trói gà không chặt, chẳng nói gì ba chiêu, chỉ sợ nửa chiêu cũng không chịu nổi bèn nói:
- Trong ba chiêu nếu không đánh ngã được ngươi, ta sẽ lạy ngươi làm thầy.
Đoàn Dự cười nói:
- Ở đây ai cũng nghe thấy cả, liệu ngươi có tính bài chây hay không?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Nhạc lão nhị này xưa nay nói ra một là một, hai là hai.
Đoàn Dự nói:
- Nhạc lão tam!
Nam Hải Ngạc Thần cãi:
- Nhạc lão nhị!
Đoàn Dự lại nói:
- Nhạc lão tam!
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Mau lại đây động thủ, nói lảm nhảm cái đếch gì nữa?
Đoàn Dự tiến lên hai bước, đứng đối diện với y.
Những người trong sảnh từ Bảo Định Đế, hoàng hậu trở xuống trừ Mộc Uyển Thanh, ai nấy đều biết Đoàn Dự từ nhỏ đến lớn vốn thích văn chương ghét võ nghệ. Chàng trước nay chưa từng học võ công, mới đây vì Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần ép học võ nên mới bỏ nhà ra đi, không nói gì ra tay đấu với một cao thủ hạng nhất mà ngay cả một vệ sĩ hay một người lính quèn cũng không thể nào địch lại.
Lúc đầu mọi người tưởng chàng cố ý chọc ghẹo gã ngốc nghếch này thế nhưng tới đây xem ra quả thực muốn cùng y giao đấu. Mặc dầu Nam Hải Ngạc Thần một lòng một dạ muốn thu chàng làm đồ đệ ắt không làm hại tính mạng nhưng y là người tính tình hung hăng, man dã, nhỡ khi cuồng tính phát tác, cái thân cành vàng lá ngọc của Đoàn Dự sao có thể khinh thị mạo hiểm được?
Ngọc Hư tản nhân là người đầu tiên lên tiếng ngăn con lại:
- Dự nhi không được phá rối, một gã sơn dã thất phu như y, việc gì phải dài dòng.
Hoàng hậu liền truyền lệnh:
- Thiện Xiển Hầu mau hạ lệnh bắt tên cuồng đồ này.
Thiện Xiển Hầu khom lưng đáp:
- Thần Cao Thăng Thái tiếp chỉ.
Ông ta quay lại quát lớn:
- Chử Vạn Lý, Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần bốn người nghe lệnh: Nương nương có chỉ dụ bắt ngay gã cuồng đồ phạm giá này.
Bọn Chử Vạn Lý tất cả khom lưng đồng thanh đáp lời:
- Thần tiếp chỉ.
Nam Hải Ngạc Thần thấy mọi người sắp sửa xông lên tấn công mình, quát lớn:
- Chúng bay tất cả cùng xông lên đi, lão tử có sợ đếch gì. Hai người là hoàng đế, hoàng hậu phải không? Cùng xông lên nốt cũng không sao.
Đoàn Dự vội xua tay nói:
- Khoan đã, khoan đã, để ta tỉ thí với y ba chiêu rồi tính sau.
Bảo Định Đế biết đứa cháu mình hành sự trước nay vốn khác người, xem chừng bên trong còn có cơ mưu gì, vả lại Nam Hải Ngạc Thần cũng không muốn hại đến tính mạng y, lại có hai anh em mình cùng Thiện Xiển Hầu ở bên cạnh hẳn không có gì đáng ngại bèn nói:
- Mọi người ngừng tay, để cho gã cuồng đồ này lãnh giáo cao chiêu của tiểu vương tử nước Đại Lý trước cũng không sao.
Bọn bốn người Chử Vạn Lý đang xông lên nghe thấy hoàng thượng hạ chỉ như thế vội vàng đứng lại. Đoàn Dự nói:
- Nhạc lão tam, chúng mình nói trước cho rõ ràng, nếu trong ba chiêu ngươi không đánh ngã được ta thì phải bái ta làm thầy. Ta dẫu có là sư phụ ngươi nhưng ngươi tư chất dốt nát, võ công ta không dạy ngươi được, ngươi có chịu hay không?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ nói:
- Ai cần ngươi dạy võ công? Ngươi biết võ quái gì mà nói?
Đoàn Dự nói:
- Được rồi, thế là ngươi bằng lòng. Sau khi bái sư rồi, lệnh của sư tôn truyền ra không được vi phạm, ta bảo ngươi làm gì, ngươi phải tuân lệnh mà làm, nếu không thì là khi sư diệt tổ, không hợp qui củ võ lâm, ngươi có chịu không thì bảo?
Nam Hải Ngạc Thần không nổi giận mà cười hềnh hệch nói:
- Lẽ dĩ nhiên là thế. Ngươi bái ta làm thầy thì cũng thế thôi.
Đoàn Dự nhẩm lại độ mươi bước Lăng Ba Vi Bộ đã học, xem ra muốn tránh được ba chiêu của y không phải là chuyện khó khăn nhưng trong đời chưa từng động thủ với người nào, Nam Hải Ngạc Thần võ công lại quá cao siêu, có hiệu nghiệm hay không thật chưa thể biết được nên phải thêm một đường lui cho chắc ăn. Chàng bèn nói:
- Nếu đã như thế, quả thực ngươi muốn thu ta làm đồ đệ thì phải đánh ngã được những sư phụ khác của ta đã, để cho thấy võ công ngươi cao hơn các thầy cũ của ta, lúc ấy ta mới bái ngươi làm thầy.
Chàng nghĩ thầm: “Nếu chẳng may trong ba chiêu y bắt được ta, ta sẽ kể hết những người cao cường ra là sư phụ để cho y tỉ thí một phen”. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Cũng được! Cũng được! Nếu như ngươi không để ta tỉ thí thì thật chẳng bằng lòng chút nào. Phái Nam Hải nhà ta nói đánh là đánh, không úp mở gì cả.
Đoàn Dự chỉ về phía sau lưng y mỉm cười nói:
- Một vị sư phụ của ta đã đứng sau lưng ngươi kìa ...
Nam Hải Ngạc Thần đâu có ngờ sau lưng mình lại có người vội quay đầu lại, Đoàn Dự liền đi xéo lên một bước nhẹ nhàng như gió thoảng, nhanh tay lẹ mắt chộp luôn vào huyệt Đãn Trung trên ngực y, ngón tay cái bấm ngay vào chính huyệt. Thủ pháp của chàng thật vụng về nhưng trong người Đoàn Dự có ngầm chứa nội lực của bảy đệ tử phái Vô Lượng, tuy không biết cách vận dụng nhưng chộp một cái kình đạo cũng không phải nhỏ. Nam Hải Ngạc Thần thấy trên ngực nhói một cái thì tay trái của Đoàn Dự đã lại chộp vào huyệt Thần Khuyết ở bên trên rốn. Bắc Minh thần công trong quyển trục vẽ rất nhiều huyệt đạo, Đoàn Dự chỉ mới luyện đến Thủ Thái Âm Phế Kinh và Nhâm Mạch, hai huyệt Đãn Trung và Thần Khuyết là hai đại huyệt của Nhâm Mạch.
Nam Hải Ngạc Thần kinh hãi, vội vận nội lực dẫu dụa thoát thân, đột nhiên thấy nội lực từ huyệt Đãn Trung tuôn ra, người rã rời lại càng hoảng hốt. Đoàn Dự lập tức nhấc bổng y lên, đầu lộn xuống, chân chổng lên dộng một cái, nghe ầm một tiếng, chiếc đầu sói to tướng đập xuống đất. Cũng may trong hoa sảnh có lót thảm nên y không bị thương. Trong cơn cuồng nộ, y dùng chiêu Lý Ngư Đả Đĩnh nhảy vọt lên, tay trái vươn ra chộp vào Đoàn Dự.
Mọi người trong sảnh thấy việc xảy ra như thế, ai nấy kinh ngạc vạn phần. Nam Hải Ngạc Thần ra chiêu thật độc địa, Đoàn Chính Thuần vừa toan chống đỡ đã thấy Đoàn Dự bước lệch qua bên trái, bộ pháp thật là kỳ quái, chỉ một bước đã tránh được bàn tay nhanh như điện của đối phương phóng tới, ông buột miệng khen con:
- Hay quá!
Chưởng thứ hai của Nam Hải Ngạc Thần liền tiếp theo, Đoàn Dự cũng không trả đòn, lại đi xéo qua hai bước, cũng tránh được ngay. Nam Hải Ngạc Thần hai lần ra tay không trúng, vừa kinh hoàng vừa giận dữ, thấy Đoàn Dự đứng ngay trước mặt mình, cách nhau chưa đầy ba thước, đột nhiên gầm lên một tiếng, hai tay cùng phóng ra, cả cánh tay, bàn tay, ngón tay đều dùng hết sức, giận quá mất khôn quên rằng nếu như chộp trúng thì “người truyền nhân tương lai của phái Nam Hải” kia sẽ banh ngực vỡ bụng chết tươi.
Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Ngọc Hư tản nhân, Cao Thăng Thái bốn người cùng cất tiếng quát lớn:
- Coi chừng!
Chỉ thấy Đoàn Dự đạp qua bên trái, chân phải rút lên nhẹ nhàng lòn qua sau lưng y, giơ tay đập lên cái đầu hói của y một cái. Nam Hải Ngạc Thần thấy đối phương thần xuất quỉ một đánh vào đầu mình, kêu thầm: “Thôi mạng ta hết rồi!”. Thế nhưng bàn tay chàng đụng vào da thịt y thấy không có chút nội lực nào, tay trái liền vung lên, nghe rẹt một cái đã cào xước lưng bàn tay Đoàn Dự năm đường dài.
Đoàn Dự vội rụt tay về, trảo lực của Nam Hải Ngạc Thần chưa hết, năm ngón tay tiếp tục chộp xuống trúng ngay chính đầu y năm vết xước khác.
Đoàn Dự vốn đã tránh được ba chiêu, xem ra đã thắng nhưng vì tính trẻ con nổi lên, lại đánh vào đầu Nam Hải Ngạc Thần một cái. Chàng có biết đâu nội lực của mình không phải là ít nhưng vì không biết sử dụng suýt nữa bị y bắt được, lúc này vội vàng lẻn ra đằng sau phụ thân, sợ đến mặt cắt không còn hạt máu.
Ngọc Hư tản nhân lườm con một cái, nghĩ thầm: “Giỏi nhỉ, ngươi học được của bá phụ và gia gia môn công phu kỳ diệu như thế, vậy mà còn dấu cả ta”. Mộc Uyển Thanh lớn tiếng nói:
- Nhạc lão tam, ngươi ba chiêu đánh không ngã được người, chính mình còn bị vật ngã, sao không mau mau khấu đầu bái sư đi.
Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai, mặt đỏ bừng nói:
- Y đã thực sự động thủ với ta đâu, cái đó không tính được.
Mộc Uyển Thanh giơ ngón tay lên má lêu lêu:
- Rõ không biết thẹn! Ngươi không bái sư, thì quả là đồ rùa đen, là quân khốn kiếp. Ngươi bằng lòng bái sư hay chịu làm đồ rùa đen khốn kiếp?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Ta không chịu cái gì hết. Ta muốn đấu với y.
Đoàn Chính Thuần thấy con mình bộ pháp xảo diệu phi thường quả chưa nhìn ra quyết khiếu trong đó, ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:
- Con đừng giơ tay đánh y, chỉ thừa cơ nắm huyệt đạo y thôi.
Đoàn Dự đáp:
- Nhi tử sợ quá, e không làm nổi.
Đoàn Chính Thuần hạ giọng:
- Không việc gì phải sợ, ta đứng bên cạnh lo cho.
Đoàn Dự được phụ thân chiếu cố lại thấy can đảm hơn nhiều, từ sau lưng Đoàn Chính Thuần bước ra nói:
- Ngươi ba chiêu không đánh ngã được ta thì phải lạy ta làm thầy chứ?
Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng, phóng chưởng đánh ra. Đoàn Dự bước về phía đông bắc một bước, nhẹ nhàng tránh được ngay, nghe lách cách, chưởng của Nam Hải Ngạc Thần trúng ngay một cái bàn uống trà vỡ tan. Đoàn Dự ngưng thần, miệng lẩm bẩm đọc: “Quan ngã sinh, tiến thoái. Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ nhân; hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân. Đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc. Bác, bất lợi hữu du vãng. Đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại”.
Chàng không cần xem Nam Hải Ngạc Thần chưởng thế ra sao, cứ tự mình trái trên phải dưới, tiến thì xéo, lùi thì thẳng. Nam Hải Ngạc Thần song chưởng càng lúc càng nhanh, kình lực mỗi lúc một mạnh, trong hoa sảnh liên tiếp loảng xoảng, bình bành, lách cách bao nhiêu bàn ghế, ấm trà, chén uống bị chưởng lực của y làm tan nát cả thế nhưng vẫn không trúng được Đoàn Dự cái nào.
Chỉ chớp mắt đã hơn ba chục chiêu, hai anh em Bảo Định Đế và Trấn Nam Vương đã sớm thấy được cước bộ Đoàn Dự nhẹ tênh, đúng là không biết võ công nhưng không hiểu vì sao được cao nhân truyền thụ, học bộ pháp thần kỳ này, đi theo phương vị sáu mươi tư quẻ của Phục Hi, bước nào cũng khó mà ngờ nổi.
Nếu như thực sự đối địch với Nam Hải Ngạc Thần thì chỉ một chiêu cũng đã chết dưới tay kẻ địch rồi nhưng vì chàng chỉ nghĩ tới chuyện mình bước đi, chưởng lực của Nam Hải Ngạc Thần tuy mạnh mẽ thật nhưng vẫn không đánh trúng được chàng. Hai người coi thêm một hồi nữa, đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ lo lắng, cùng nghĩ ra: “Gã Nam Hải Ngạc Thần này ví như bịt mắt lại, hoàn toàn không nhìn thấy Đoàn Dự bước đi đâu, chẳng theo quyền pháp chưởng pháp nào, cứ tiện tay đánh ra thì chỉ vài chiêu là trúng Đoàn Dự ngay”.
Chỉ thấy Nam Hải Ngạc Thần mặt càng lúc càng vàng ệch, mắt càng lúc càng mở trô trố, nhưng đâu có nghĩ được biện pháp đó, chưởng pháp thêm biến ảo, nhưng lúc nào cũng còn cách Đoàn Dự một hai thước. Hai bên đấu dây dưa như thế, Đoàn Dự tuy không tổn thương nhưng muốn đánh ngã đối phương thì không thể nào được. Bảo Định Đế coi thêm một hồi nữa, nói:
- Dự nhi, con đi chậm lại một chút, đi thẳng tới nắm lấy huyệt đạo trên ngực y.
Đoàn Dự đáp lời: "Vâng" bước chân chậm hơn xông thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần, vừa nhìn vào đôi mắt dữ tợn và khuôn mặt vàng khè của y, trong bụng bỗng khiếp sợ, bước chân hơi khựng lại khiến cho lệch mất phương vị. Nam Hải Ngạc Thần giơ trảo chộp xéo từ đầu Đoàn Dự xuống trúng ngay tai chàng máu chảy ròng ròng. Đoàn Dự đau quá lại càng sợ hãi hơn gia tăng cước bộ xoay ngang lùi dọc trốn vào sau lưng Đoàn Chính Thuần, gượng cười:
- Bá phụ, cháu không làm được.
Đoàn Chính Thuần sẵng giọng quát:
- Con cháu họ Đoàn nước Đại Lý này, có ai lâm trận đối địch mà lại rụt rè bao giờ? Mau ra đánh đi, bá phụ chỉ con không sai đâu.
Ngọc Hư tản nhân thương con, chen vào:
- Dự nhi đã đấu với y ngoài sáu mươi chiêu rồi, nhà họ Đoàn có đứa con giỏi như thế, ông còn chưa vừa lòng hay sao? Dự nhi, con thế là thắng rồi, không cần đấu thêm nữa.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Phu nhân đừng lo, tôi đảm bảo y không chết đâu mà sợ.
Ngọc Hư tản nhân trong bụng xót xa, nước mắt rưng rưng dường như muốn trào ra. Đoàn Dự thấy mẫu thân như thế, trong lòng bất nhẫn, cố thu hết can đảm hăng hái bước ra, quát lên:
- Ta lại ra đấu với ngươi lần nữa.
Lần này chàng đã định tâm, nên đi xoay tròn lách trái lượn phải, càng lúc càng chậm, đến khi đối diện với Nam Hải Ngạc Thần, không chạm mắt chỉ vươn hai tay chộp lấy ngực y. Nam Hải Ngạc Thần thấy chàng ra tay mềm xèo không có sức, cười ha hả, nghiêng người trả đòn, chộp ngược lại vai chàng, ngờ đâu chân Đoàn Dự biến hóa không chừng, hai người cùng thay đổi vị trí, hai bên cùng ra tay nhưng Đoàn Dự đã chộp được ngực Nam Hải Ngạc Thần. Đoàn Dự đã nhìn kỹ đúng bộ vị các huyệt đạo, tay phải đúng vào huyện Đãn Trung, tay trái đúng vào huyệt Thần Khuyết. Chàng hoàn toàn không biết vận dụng nội lực, tuy chộp đúng hai nơi yếu huyệt rồi, nếu như Nam Hải Ngạc Thần chẳng thèm để ý, không vận nội lực mà chỉ lặng lẽ dẫy ra, Đoàn Dự không thể nào giữ y lại được.
Thế nhưng hai nơi yếu hại của Nam Hải Ngạc Thần vừa bị chế ngự, y hoảng hốt vươn tay đánh luôn vào mặt đối phương. Chiêu đó là một phương pháp chiến đấu rất cao siêu, lấy công làm thủ, trong võ học gọi là “tấn công vào nơi kẻ địch không thể không cứu”, địch nhân không thể không quay về tự cứu mình. Ngờ đâu Đoàn Dự hoàn toàn không có chút kinh nghiệm gì về ứng biến lâm địch, bàn tay đối phương đánh qua, chàng chẳng nghĩ gì đền việc tránh né chống đỡ, hai tay vẫn khư khư nắm lấy yếu huyệt của Nam Hải Ngạc Thần.
Đúng là sai lầm này đến sai lầm khác, khí huyết trong người Nam Hải Ngạc Thần bùng lên đổ ào vào hai nơi huyệt đạo đang bị bế tắc, đồng thời nội lực theo huyệt Đãn Trung tuôn ra, hai tay còn cách mắt Đoàn Dự chừng nửa thước thì như tê liệt, không sao vươn ra được. Y hít một hơi chân khí lại vận nội lực lần nữa.
Huyệt Thiếu Thương nơi ngón tay cái của Đoàn Dự bỗng thấy một luồng lực đạo tuôn vào. Nam Hải Ngạc Thần nội lực mạnh mẽ biết bao, nội lực của bảy gã đệ tử phái Vô Lượng làm sao sánh được, vì thế Đoàn Dự lập tức lảo đảo, chân đứng không vững. Chàng biết rằng cục thế nguy cấp, hai tay nếu rời khỏi huyệt đạo đối phương thì tính mạng mình khó mà bảo toàn nên dù thân thể nhộn nhạo khó chịu ghê gớm nhưng vẫn phải hết sức gắng gượng.
Đoàn Chính Thuần chỉ đứng cách Đoàn Dự vài thước, thấy mặt chàng đỏ gay, lập tức giơ ngón tay trỏ ấn vào huyệt Đại Trùy trên lưng chàng. Thần công Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý nổi danh thiên hạ, quả thực uy lực không phải tầm thường, một luồng khí ấm áp liền truyền vào, kích phát nội lực có sẵn trong người Đoàn Dự. Nam Hải Ngạc Thần toàn thân rung chuyển, mềm nhũn ngã lăn ra. Đoàn Chính Thuần giơ tay đỡ con, Đoàn Dự nội tức liền thuận trở lại, vội vàng dẫn nội lực Nam Hải Ngạc Thần vừa truyền sang qua Thủ Thái Âm Phế Kinh đưa về biển khí nhưng nhất thời không nói được thành lời.
Đoàn Chính Thuần dùng Nhất Dương Chỉ ngầm giúp con, hợp lực hai người mới chế ngự được Nam Hải Ngạc Thần, trong sảnh ai nấy đều thấy nhưng việc Nam Hải Ngạc Thần bị thua Đoàn Dự thì không thể nào cãi chầy cãi cối gì được.
Gã ta quả là tài giỏi, bàn tay Đoàn Dự vừa rời khỏi huyệt đạo, chỉ vận khí một chút, đã nhỏm ngay dậy, đôi mắt nhỏ như hạt đậu chăm chăm nhìn chàng, khuôn mặt thật là quái đản, vừa ngạc nhiên, vừa đau lòng, vừa phẫn nộ.
Mộc Uyển Thanh kêu lên:
- Nhạc lão tam, ta xem ngươi cam tâm làm đồ rùa đen, quân đê tiện chứ không chịu bái sư.
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Ta làm gì ngươi liệu thế chó nào được. Bái sư thì bái sư chứ Nhạc lão nhị này nhất quyết không làm giống rùa đen đê tiện đâu.
Nói xong đột nhiên y quay qua Đoàn Dự quì phục xuống, bình bình rập đầu tám cái liền, lớn tiếng nói:
- Sư phụ, đệ tử Nhạc lão nhị khấu đầu ra mắt.
Đoàn Dự ngơ ngẩn, chưa kịp trả lời, Nam Hải Ngạc Thần đã tung mình vượt sảnh bay lên mái nhà. Trên mái ngói nghe “A” một tiếng thảm khốc, rồi bình một tiếng, một người đã bị ném vào. Người đó là một vệ sĩ trong vương phủ, trên ngực máu chảy đầm đìa, trái tim đã bị móc đi nhưng chưa chết hẳn, tay chân còn dãy dụa trông thật gớm ghiếc. Võ công y tuy không bằng bọn Chử Vạn Lý nhưng cũng không phải tầm thường, ngờ đâu Nam Hải Ngạc Thần chỉ giơ tay ra đã móc được trái tim, Tứ Đại Vệ Hộ đứng ngay gần bên cũng không sao cứu kịp, mọi người không khỏi biến sắc.
Mộc Uyển Thanh căm hận nói:
- Lang quân, chàng thu được một tên học trò thật chẳng ra gì. Kỳ sau gặp lại y phải trừng trị y một phen cho đáng kiếp.
Đoàn Dự trống ngực đánh thòm thòm nói:
- Ta may mà thắng được toàn nhờ gia gia giúp cho, nếu gặp lại y chỉ e tim của ta cũng bị móc mất làm gì mà trừng trị y được?
Cổ Đốc Thành và Phó Tư Qui vội vàng khiêng thi thể tên vệ sĩ ra ngoài, Đoàn Chính Thuần dặn dò chôn cất trọng thể chu cấp hậu hĩ. Gã Hoắc tiên sinh bảy phần say ba phần tỉnh kia sợ đến mất vía, người run như cầy sấy lật đật lui ra.
Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, bộ pháp đó quả thật cao minh, đều từ phương vị trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hi biến hóa ra, ai truyền thụ cho cháu đó?
Đoàn Dự đáp:
- Hài nhi học được trong một cái hang núi, chẳng biết có đúng hay không, xin bá phụ chỉ điểm cho.
Bảo Định Đế hỏi lại:
- Học trong hang núi là sao?
Đoàn Dự lược thuật chuyện chàng bị rơi vào sơn cốc trong núi Vô Lượng rồi đi vào sơn động tìm ra được một quyển trục có ghi bộ pháp. Thế nhưng việc chàng tìm thấy pho tượng ngọc, cùng những hình khỏa thân chàng không đề cập đến. Hình vẽ thần tiên tỉ tỉ trần truồng đâu có thể nào để cho bá phụ, gia gia, mẫu thân trông thấy được? Ngay đến Mộc Uyển Thanh nếu biết được chàng mê mẩn thần tiên tỉ tỉ thể nào cũng nổi cơn ghen. Bỏ qua không kể cũng chẳng khác gì Khổng phu tử cắt xén viết kinh Xuân Thu, thuật nhi bất tác đấy thôi.
Bảo Định Đế nghe Đoàn Dự kể xong nói:
- Trong bộ pháp sáu mươi quẻ này có ẩn một môn nội công thượng thừa, cháu đi từ đầu đến cuối cho ta xem.
Đoàn Dự đáp lời:
- Vâng.
Chàng suy nghĩ lại, từng bước từng bước đi ra. Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái tất cả đều là những người nội công thâm hậu, thế nhưng những áo diệu trong pho bộ pháp này cũng chỉ hiểu được hai ba thành. Đoàn Dự đi xong sáu mươi tư quẻ thì đã thành một vòng tròn lớn, trở về chỗ cũ.
Bảo Định Đế mừng lắm nói:
- Hay lắm! Bộ pháp này thiên hạ vô song, cháu ta quả gặp được một phúc duyên hiếm có. Hôm nay mẹ cháu về phủ, cháu tiếp mẹ cháu uống thêm một chén.
Nhà vua quay sang nói với hoàng hậu:
- Thôi mình về chứ!
Hoàng hậu đứng lên, đáp lời:
- Vâng!
Bọn Đoàn Chính Thuần cung kính tiễn đưa hoàng đế, hoàng hậu lên kiệu hồi cung, qua khỏi cổng phủ Trấn Nam Vương mới thôi.


Chú thich
9 mặt vuông vắn nhưng hơi dài hơn mặt chữ điền
10 cây cột đá chống đỡ đất nước
11 chính tay nhà vua viết năm Đinh Mão
12 cũng như vua nước ta thời ấy trên danh nghĩa nhà Tống chỉ phong làm Giao Chỉ quận vương, Nam bình vương nhưng tự mình thì vẫn xưng là Hoàng Đế ngang với vua Tàu.
13 Quẻ Ích, trên là tốn (gió), dưới là chấn (sấm). Người quân tử thấy điều thiện thì gắng mà làm theo, có điều sai lầm thì sửa đổi
14 giảm ở trên, tăng cho dưới mọi người đều vui vẻ vô hạn. Lấy bên trên làm lợi cho bên dưới thì đạo nghĩa đó càng thêm rực rỡ (Thoán truyện quẻ Ích)
15 Cá chép quẫy mình
16 Xét bản thân nên tiến hay lùi (Quán). Tĩnh như cái lưng không thấy thân mình cũng quên cả người (Cấn). Tai vạc đương thay chưa cất vạc lên được (Đỉnh). Hễ tiến tới thì không lợi (Bác). Dê đực húc vào dậu, mắc kẹt lui không được, tiến không xong (Đại Tráng). Đây là lời trong kinh Dịch.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:05 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Đã mang cái nghiệp đèo bòng,
Bên Tần bên Sở biết trông bên nào.
*
* *

Bọn Đoàn Chính Thuần quay trở về vương phủ, nội đường đã bày tiệc xong. Trên bàn rượu ngoại trừ vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự chỉ có thêm một mình Mộc Uyển Thanh, chung quanh đầy tớ hầu hạ phải đến mười bảy mười tám người. Trong đời Mộc Uyển Thanh làm gì từng nhìn thấy khí tượng vinh hoa phú quí như thế này bao giờ? Những món ăn đem lên cũng toàn là những thừ nàng chưa từng nếm, đến nghe nói cũng chưa. Nàng thấy ông bà Trấn Nam Vương coi mình như người trong nhà, chỉ có hai người được ngồi ăn chung quả như mở cờ trong bụng.
Đoàn Dự thấy mẹ mình đối với phụ thân ra chiều lạnh nhạt, cũng không uống rượu, chẳng ăn mặn chỉ gắp mấy món chay, bèn rót một chén rượu, đứng lên bưng hai tay nói:
- Mẹ, con xin kính mẹ một chén. Mừng mẹ đã đoàn tụ với cha con, ba người một nhà chúng ta cùng hưởng cái vui xum họp.
Ngọc Hư tản nhân đáp:
- Ta không uống rượu.
Đoàn Dự lại rót một chén khác, đưa mắt cho Mộc Uyển Thanh, nói:
- Mộc cô nương cũng kính mẹ một chén.
Mộc Uyển Thanh liền cầm chén rượu đứng lên. Ngọc Hư tản nhân nghĩ mình không nên thái quá lãnh đạm đối với Mộc Uyển Thanh, liền mỉm cười nói:
- Cô nương, thằng bé nhà ta tính lông bông lắm, cha mẹ không trị nổi, sau này cô phải giúp chúng ta giữ rịt nó mới được.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Nếu anh ấy không nghe lời, tiểu nữ sẽ nắm tai đánh cho một trận thật đau.
Ngọc Hư tản nhân phì cười, đưa mắt cho trượng phu, Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Phải thế mới được.
Ngọc Hư tản nhân đưa tay trái ra đón lấy chén rượu trong tay Mộc Uyển Thanh. Dưới ánh nến, Mộc Uyển Thanh thấy bàn tay bà ta thuôn dài, trắng trẻo nhẵn nhụi như tạc bằng ngọc, trên lưng bàn tay gần cổ tay có một vết bớt đỏ như son, lập tức toàn thân chấn động, run run hỏi:
- Bà ... tên của bà ... có phải là Đao Bạch Phượng hay không?
Ngọc Hư tản nhân cười nói:
- Tên họ của ta thật khác thường, sao cô biết được?
Mộc Uyển Thanh run run hỏi tiếp:
- Bà là Đao Bạch Phượng đấy sao? Có phải bà là người Bãi Di, trước đây sử dụng nhuyễn tiên, đúng không nào?
Ngọc Hư tản nhân thấy nàng thần sắc khác thường nhưng cũng không quan tâm lắm chỉ mỉm cười:
- Dự nhi đối với cô thật hết lòng, đến cả khuê danh của ta cũng nói cho cô biết. Lang quân của cô có một nửa là Bãi Di nên tính tình nó mới bất kham thế đó.
Mộc Uyển Thanh gặng lần nữa:
- Thực sự bà là Đao Bạch Phượng sao?
Ngọc Hư tản nhân mỉm cười:
- Chính ta đây.
Mộc Uyển Thanh kêu lên:
- Ơn thầy sâu nặng, lệnh thầy đâu dám không theo.
Tay phải nàng vung lên, hai mũi tên bắn thẳng vào ngực Đao Bạch Phượng. Trong bàn tiệc mọi người nói nói cười cười thân thiết như trong nhà, ai ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đột nhiên ra tay ám toán. Võ công Đao Bạch Phượng và Mộc Uyển Thanh cũng sàn sàn như nhau, lúc này hai người khoảng cách quá gần, biến cố quá bất ngờ không sao phòng bị kịp, hai mũi tên xem ra không thể nào tránh kịp. Đoàn Chính Thuần ngồi ngay trước mặt tức là sau lưng Mộc Uyển Thanh, kêu lên “Chao ôi!” một tiếng, giơ tay điểm ra. Thế nhưng chỉ đó chế ngự được Mộc Uyển Thanh nhưng làm sao cứu được vợ.
Đoàn Dự đã mấy lần thấy Mộc Uyển Thanh đang nói chuyện đột nhiên ra tay bắn độc tiễn giết người, mũi tên có tẩm thuốc độc cực kỳ lợi hại, có thể nói là “kiến huyết phong hầu” nên khi nàng vừa vung tay áo lên biết là không ổn, lúc này chàng đang đứng cạnh mẫu thân, nhưng lại không biết võ công nên không sao chống đỡ được, chân bèn sử dụng Lăng Ba Vi Bộ bước xéo qua, chắn ngay trước mặt mẹ. Bụp bụp hai tiếng, hai mũi tên độc cắm ngay vào ngực chàng, đồng thời Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng tê tái, nằm gục xuống bàn, không còn động đậy gì được nữa.
Đoàn Chính Thuần ứng biến thật nhanh, phóng chỉ ra liên tiếp điểm vào tám chỗ huyệt đạo chung quanh nơi Đoàn Dự trúng tên để cho máu độc tạm thời không chạy vào tim, tay ngoặt lại, nghe cách một tiếng đã bẻ sái khớp tay phải của Mộc Uyển Thanh, để nàng không còn có thể bắn tiếp rồi mới giải khai huyệt đạo cho nàng, hầm hầm quát:
- Mau đưa giải dược ra đây.
Mộc Uyển Thanh run rẩy nói:
- Tiện thiếp chỉ muốn giết Đao Bạch Phượng, không muốn hại Đoàn lang.
Nàng thấy tay phải đau nhói nhưng cố gượng thò tay trái vào bọc lấy ra hai bình giải dược nói:
- Thuốc đỏ uống, thuốc trắng thoa, mau mau, chậm trễ cứu không được.
Đao Bạch Phượng thấy tấm chân tình của nàng đối với Đoàn Dự quả từ tâm khảm, đã đoán được phần nào nguyên do, giơ tay đoạt lấy thuốc giải, lấy ra hai viên thuốc đỏ nhét vào mồm con, còn thuốc trắng là bột, bà ta bèn cầm đuôi tên nhẹ nhàng rút hai mũi đoản tiễn ra, sau đó mới đắp thuốc vào. Mộc Uyển Thanh nói:
- Tạ trời tạ đất, chàng ... tính mệnh chàng không có gì đáng ngại, có điều tôi ... tôi...
Ba người hết sức hốt hoảng, có ai biết đâu Đoàn Dự đã ăn phải con Mãng Cổ Chu Cáp là vạn độc chi vương rồi, các loại độc không thể nào xâm nhập, chất độc trên mũi tên của Mộc Uyển Thanh không làm gì được chàng, dù không uống giải dược cũng chẳng hề hấn. Có điều chàng trúng phải tên độc thấy ngực đau nhói, ai nấy trúng phải chết liền chàng đã thấy nên tưởng mình phen này thể nào cũng chết nên kinh hoảng quá liền ngất đi trong lòng mẹ.
Vợ chồng Đoàn Chính Thuần chăm chăm nhìn vết thương, thấy máu chảy ra từ đen sang tía, từ tía sang đỏ, cùng thở phào ra biết rằng mạng con mình không đến nỗi nào. Đao Bạch Phượng bồng con lên, đem vào phòng riêng của chàng, đắp chăn xong cầm tay xem mạch, thấy nhảy đều đặn có sức, không có vẻ gì yếu ớt, trong bụng vui mừng nhưng cũng không khỏi lạ lùng nên vội quay về noãn các. Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Không đáng ngại chứ?
Đao Bạch Phượng không trả lời, quay sang Mộc Uyển Thanh:
- Ngươi về nói với Tu La Đao Tần Hồng Miên rằng ...
Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Tu La Đao Tần Hồng Miên, sắc mặt biến hẳn lắp bắp:
- Bà ... bà ...
Đao Bạch Phượng không ngó ngàng đến chồng, vẫn nói tiếp với Mộc Uyển Thanh:
- Ngươi nói với bà ta rằng nếu muốn giết ta thì nên quang minh chính đại đến đây, cái trò cắn trộm chỉ làm cho người ta cười vẹo quai hàm thôi!
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Nhưng tiểu nữ đâu có biết Tu La Đao Tần Hồng Miên là ai?
Đao Bạch Phượng lạ lùng:
- Thế thì ai sai ngươi đến đây giết ta?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đó là sư phụ của thiếp. Sư phụ sai tiểu nữ đi giết hai người. Người thứ nhất là phu nhân, bà ấy nói trên bàn tay bà có cái bớt son, tên là Đao Bạch Phượng, là gái Bãi Di, tướng mạo thật xinh đẹp, dùng nhuyễn tiên làm binh khí. Sư phụ nào có ... nào có nói bà ăn mặc theo lối đạo cô. Tiểu nữ thấy bà sử dụng phất trần, lại tên là Ngọc Hư tản nhân, đâu có ngờ đó là người sư phụ tiểu nữ muốn giết ... cũng đâu ngờ bà lại là mẹ của Đoàn lang.
Nàng nói tới đây nước mắt ròng ròng chảy xuống. Đao Bạch Phượng hỏi thêm:
- Sư phụ ngươi còn sai ngươi đi giết một người nữa, có phải là Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo hay không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Không! Không! Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo là sư thúc của thiếp. Chính bà ta sai người đưa thư tới sư phụ thiếp, nói rằng hai người đàn bà làm khổ đời sư phụ, thù không thể không báo ...
Đao Bạch Phượng kêu lên:
- À, phải rồi! Còn người kia họ Vương đang ở Tô Châu, phải không?
Mộc Uyển Thanh ngạc nhiên hỏi lại:
- Đúng đó! Sao phu nhân lại biết? Thiếp cùng với sư phụ đến đó giết bà ta trước nhưng người đàn bà khốn kiếp đó tay chân đầy tớ thật đông, nơi ở lại thật lạ lùng, thiếp chưa từng gặp mặt, ngược lại bị đám thủ hạ mụ ta đuổi đến tận Đại Lý.
Đoàn Chính Thuần cúi đầu lắng tai nghe, khuôn mặt lúc đỏ lúc xanh. Trên má Đao Bạch Phượng đột nhiên một dòng lệ rơi xuống, quay sang Đoàn Chính Thuần:
- Mong ông ráng chăm lo cho Dự nhi. Tôi ... tôi đi đây.
Đoàn Chính Thuần vội ngăn lại:
- Phượng Hoàng nhi, tất cả đều là chuyện quá khứ, nàng để trong lòng làm gì?
Đao Bạch Phượng ai oán đáp:
- Ông không để trong lòng, tôi cũng không để trong lòng nhưng người ta để trong lòng.
Đột nhiên phi thân nhảy lên, theo cửa sổ vọt ra ngoài. Đoàn Chính Thuần giơ tay nắm lấy tay áo, Đao Bạch Phượng quay lại múa chưởng đánh luôn vào mặt ông. Đoàn Chính Thuần nghiêng đầu né tránh, nghe soẹt một tiếng, tay áo bà ta đã bị xé rách một nửa. Đao Bạch Phượng quay đầu lại giận dữ nói:
- Ông muốn động võ chăng?
Đoàn Chính Thuần hạ giọng:
- Phượng Hoàng nhi, nàng ...
Đao Bạch Phượng hai chân nhún một cái, nhảy lên mái nhà đối diện, nhô lên hụp xuống vài cái đã cách xa mươi trượng rồi. Xa xa có tiếng Chử Vạn Lý quát lên:
- Ai đó?
Đao Bạch Phượng đáp:
- Ta đây!
Chử Vạn Lý nói:
- Ồ, thì ra Vương Phi ...
Sau đó không nghe gì thêm chắc bà ta đi đã xa rồi.
Đoàn Chính Thuần đứng lặng đi hồi lâu, thở dài một tiếng quay lại noãn các, thấy mặt Mộc Uyển Thanh trắng bệch, nhưng chưa bỏ đi. Đoàn Chính Thuần đi đến gần cô ta hai tay cầm lấy cánh tay phải, nghe cắc một tiếng đã tiếp lại khớp xương. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Ta bắn tên độc vào vợ ông ta, không biết sẽ hành hạ mình cách nào?”.
Chỉ thấy ông ta ngồi trở lại ghế, chậm rãi rót một chén rượu, ực một cái uống cạn, nhìn ra cửa sổ nơi vợ vừa bỏ đi, ngẩn ngơ một hồi, rồi lại rót một chén rượu khác, lại ực một cái uống cạn. Cứ tự rót tự uống như thế liên tiếp mười hai mười ba chén, hết hồ này lại lấy hồ khác, rót thì thật chậm nhưng uống thì thật nhanh.
Mộc Uyển Thanh sau cùng không còn chịu nổi, kêu lên:
- Ông muốn nghĩ cách nào thảm khốc quái đản để trị tội tôi thì mau mau hạ thủ.
Đoàn Chính Thuần ngửng đầu lên, chăm chăm nhìn vào nàng một hồi lâu, chầm chậm lắc đầu, thở dài:
- Giống quá! Giống quá! Thế mà ta không nhìn ra, hình dáng đó, tính tình đó ...
Mộc Uyển Thanh nghe xong chẳng hiểu gì, hỏi lại:
- Ông bảo cái gì? Chỉ nói quấy nói quá.
Đoàn Chính Thuần không trả lời, đứng lên đột nhiên tả chưởng chém xéo về đằng sau, nghe bụp một tiếng nhỏ, một ngọn nến đã bị chưởng phong đánh tắt, tiếp theo lại chém tay phải một cái, thêm một ngọn nến khác bị tắt ngúm. Ông liên tiếp vung tay năm lần, đánh tắt năm cây nến đỏ, mắt vẫn nhìn về trước, ra tay chẳng khác gì nước chảy mây bay, tiêu sái lạ thường.
Mộc Uyển Thanh kinh ngạc lắp bắp:
- Cái này ... cái này có phải là Ngũ La Khinh Yên Chưởng, làm sao ông biết?
Đoàn Chính Thuần cười buồn:
- Sư phụ cô có dạy cho cô chưa?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi bảo là môn chưởng pháp đó quyết không truyền cho ai, ngày sau mang theo xuống quan tài.
Đoàn Chính Thuần hỏi lại:
- Ồ, nàng bảo không truyền cho ai, mai này mang xuống tuyền đài ư?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng vậy! Thế nhưng sư phụ chỉ khi nào không có tôi ở đó chỉ luyện một mình thôi, tôi coi lén thấy được.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Nàng một mình vẫn thường luyện pho chưởng pháp này?
Mộc Uyển Thanh gật đầu:
- Phải rồi. Mỗi khi sư phụ luyện chưởng pháp này hay nổi giận mắng chửi tôi. Ông ... ông làm sao biết được? Xem ra ông sử dụng còn giỏi hơn sư phụ tôi nữa.
Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:
- Pho Ngũ La Khinh Yên Chưởng này chính ta dạy cho sư phụ cô đó.
Mộc Uyển Thanh hốt hoảng nhưng không thể không tin, nàng thấy khi sư phụ chém những ngọn nến, thường thường một lần không tắt, phải đến hai ba lần mới được, không phải như Đoàn Chính Thuần làm đâu được đó, tiêu sái nhẹ nhàng, lắp bắp hỏi lại:
- Thế ra ông là sư phụ của sư phụ tôi, là thái sư phụ của tôi sao?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu:
- Không phải vậy.
Ông chống tay lên cằm, lẩm bẩm nói một mình:
- Nàng mỗi khi luyện pho chưởng pháp này, thường nổi cơn tam bành lục tặc, lại quyết không truyền cho ai, nguyện mang theo xuống chốn cửu tuyền ...
Mộc Uyển Thanh gặng thêm:
- Thế thì ông là ...
Đoàn Chính Thuần xua tay bảo nàng đừng nhiều lời, một hồi sau, đột nhiên hỏi lại:
- Cô năm nay mười tám tuổi, sinh vào khoảng tháng chín, có phải không nào?
Mộc Uyển Thanh nhảy phắt lên, lạ lùng hỏi:
- Sao việc gì ông cũng biết, ông đích thực là gì của sư phụ tôi?
Đoàn Chính Thuần vẻ mặt đầy thống khổ, thanh âm nghẹn ngào:
- Ta ... ta thật không phải với sư phụ con. Uyển nhi, con ...
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Vì sao vậy? Tôi xem ông là người thật ôn hòa, thật tốt bụng mà?
Đoàn Chính Thuần hỏi thêm:
- Thế tên thực của sư phụ con, nàng không nói cho con nghe sao?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi bảo rằng tên bà ta là U Cốc Khách, còn đích thực tên gì, họ gì, tôi quả không biết.
Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:
- U Cốc Khách! U Cốc Khách ...
Ông chợt nhớ đến bài thơ “Giai Nhân” của Đỗ Phủ, từng chữ từng chữ như đâm vào tim...
Năm xưa có một giai nhân,
Hang cùng hiu quạnh trơ thân náu mình.
Cũng dòng thế phiệt trâm anh,
Lênh đênh lưu lạc phận đành cỏ cây ...
Tuyệt đại hữu giai nhân,
U cư tại thâm cốc.
Tự vân lương gia tử,
Linh lạc y thảo mộc ...
Chồng em bạc bẽo vô tình,
Chỉ còn biết đến người mình vừa quen ...
Phu tế khinh bạc nhi,
Tân nhân mỹ như ngọc ...
Vui vầy người mới nói cười,
Biết đâu người cũ ngậm ngùi xót xa.
Đãn kiến tân nhân tiếu,
Na văn cựu nhân khốc ...
Một hồi sau, ông lại hỏi:
- Thế trong bao nhiêu năm nay, sư phụ con sinh sống bằng cách nào? Hai người ở nơi đâu?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Tôi và sư phụ ở tại một sơn cốc, đằng sau một ngọn núi cao, thành thử sư phụ mới tự gọi mình là U Cốc Khách, tới lần này hai thầy trò mới ra khỏi nơi đây.
Đoàn Chính Thuần hỏi thêm:
- Thế cha mẹ con là ai? Sư phụ con có bao giờ nhắc tới không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Sư phụ tôi nói rằng tôi là một đứa con hoang bị cha mẹ bỏ rơi. Sư phụ tôi nhặt được tôi ở bên đường đem về nuôi cho tới khi khôn lớn.
Đoàn Chính Thuần gặng thêm:
- Thế con có hận cha mẹ con không?
Mộc Uyển Thanh nghiêng đầu, cắn ngón tay ngẫm nghĩ. Đoàn Chính Thuần trông thấy tình cảnh đó, trong lòng dâng lên một nỗi chua xót nghẹn ngào. Mộc Uyển Thanh thấy hai hàng lệ ròng ròng chảy trên má ông, thật là lạ lùng hỏi lại:
- Sao ông lại khóc?
Đoàn Chính Thuần quay mặt đi, lau khô nước mắt, gượng cười:
- Ta nào có khóc đâu? Chắc tại uống quá chén, hơi rượu bốc lên đấy mà.
Mộc Uyển Thanh không tin, nói:
- Rõ ràng tôi thấy ông khóc mà. Đàn bà con gái mới khóc, đàn ông con trai cũng khóc nữa hay sao? Từ xưa tới nay tôi chưa thấy đàn ông khóc bao giờ, trừ trẻ con thôi.
Đoàn Chính Thuần thấy nàng chẳng biết gì chuyện đời, lại càng đau lòng nói:
- Uyển nhi, từ giờ trở đi ta sẽ đối với con thật tử tế để bù lại những gì ta thiếu sót bấy nay. Con có tâm nguyện gì, nói cho ta nghe, ta sẽ hết lòng làm cho con.
Mộc Uyển Thanh từ khi bắn tên độc vào Đoàn phu nhân, trong lòng hết sức lo sợ, nghe ông ta nói thế, vui mừng nói:
- Tôi bắn tên vào phu nhân của ông, ông không oán trách gì sao?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Sư ân thâm trọng, sư mệnh nan vi. Chuyện của đời trước, nào có liên can gì đến con đâu. Ta không oán trách gì con cả. Có điều từ nay trở đi con không được vô lễ với phu nhân của ta nữa.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Thế sau này sư phụ hỏi ra thì biết nói thế nào?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Con đưa ta đến gặp sư phụ, ta sẽ nói cho bà ta nghe.
Mộc Uyển Thanh vỗ tay reo lên:
- Thế thì hay lắm.
Đột nhiên nàng nhíu mày nói:
- Sư phụ thường nói rằng đàn ông trên đời này đều là kẻ vô tình bạc nghĩa, trước nay không muốn gặp ai.
Trên mặt Đoàn Chính Thuần lộ vẻ kinh ngạc, hỏi lại:
- Trước nay sư phụ con không gặp đàn ông ư?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng thế! Mỗi khi cần mua gạo mua muối, sư phụ đều sai Lương a bà đi. Có một lần Lương a bà bị bệnh, sai con bà ấy đem đến, sư phụ giận lắm, bắt y bỏ ở xa xa ngoài cửa, không cho y vào trong nhà.
Đoàn Chính Thuần thở dài:
- Hồng Miên, Hồng Miên, sao nàng tự mình làm khổ mình đến thế.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Ông lại nói đến Hồng Miên, vậy thì Hồng Miên là ai vậy?
Đoàn Chính Thuần hơi ngần ngừ nói:
- Chuyện này cũng không có thể nào dấu con mãi được, tên thật của sư phụ con là Tần Hồng Miên, có cái ngoại hiệu là Tu La Đao.
Mộc Uyển Thanh gật đầu:
- Ồ, hèn gì phu nhân vừa thấy thủ pháp bắn tên độc của tôi đã hầm hầm hỏi ngay Tu La Đao Tần Hồng Miên là người liên quan thế nào. Lúc đó quả thực tôi không biết, chứ không phải là cố ý nói dối. Thế ra tên sư phụ tôi là Tần Hồng Miên, cái tên đẹp quá nhỉ? Chẳng hiểu sao bà ta không nói cho tôi biết.
Đoàn Chính Thuần hỏi thâm:
- Hồi nãy ta làm sái cánh tay con, bây giờ còn đau không?
Mộc Uyển Thanh thấy ông thần sắc ôn hòa trìu mến, mỉm cười nói:
- Đỡ nhiều lắm rồi. Thôi mình đi xem ... xem con trai ông đã khỏe chưa? Tôi sợ chất độc trên mũi tên chưa hết hẳn.
Đoàn Chính Thuần đứng lên nói:
- Hay lắm.
Ông tiếp:
- Con có tâm nguyện gì nói cho ta nghe.
Mộc Uyển Thanh đột nhiên mặt đỏ lên, thần sắc hơi e thẹn, cúi đầu nói nhỏ:
- Chỉ sợ ... chỉ sợ con bắn phu nhân rồi, bà ấy ... bà ấy giận con thôi.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Thể để từ từ rồi mình sẽ năn nỉ, chắc tương lai cũng sẽ không giận nữa đâu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Con xưa nay chưa từng van xin ai điều gì nhưng vì Đoàn lang mà phải năn nỉ bà ấy thì cũng được.
Đột nhiên nàng thu hết dũng khí nói:
- Trấn Nam Vương, con nói tâm nguyện của con ra, ông ... ông thực sự giúp con hoàn thành chứ?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Chỉ nếu ta có thể làm được, ta sẽ làm cho con ngay.
Mộc Uyển Thanh hỏi thêm:
- Ông nói ra rồi sau không nuốt lời đấy chứ?
Đoàn Chính Thuần nở một nụ cười, đi đến bên cạnh Mộc Uyển Thanh, giơ tay vuốt ve tóc nàng, ánh mắt đầy vẻ thương yêu, nói:
- Ta dĩ nhiên không nuốt lời đâu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hôn nhân của con và anh ấy, ông đứng lo liệu cho đừng để anh ta phụ bạc con.
Nàng nói mấy câu đó rồi, khuôn mặt bừng lên một vẻ rạng rỡ. Đoàn Chính Thuần mặt biến sắc, từ từ lùi lại, ngồi phịch xuống ghế, một hồi thật lâu, không nói lời nào. Mộc Uyển Thanh cảm thấy không ổn, run run hỏi:
- Ông ... ông không bằng lòng ư?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Con không thể nào lấy Đoàn Dự được.
Giọng ông ậm ừ nhưng chắc nịch. Mộc Uyển Thanh như bị dội nước đá lên người, ai oán hỏi:
- Sao lại thế? Ông ... chính miệng nói bằng lòng giúp con mà.
Đoàn Chính Thuần chỉ chép miệng:
- Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Mộc Uyển Thanh nói:
- Nếu anh ấy không bằng lòng lấy con, con ... con sẽ giết anh ấy, rồi tự sát, con ... con đã lập trọng thệ trước mặt sư phụ rồi.
Đoàn Chính Thuần chầm chậm lắc đầu, nói:
- Không được đâu.
Mộc Uyển Thanh hấp tấp nói:
- Để con đi hỏi anh ta xem, vì cớ gì mà không được?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Dự nhi ... chính nó ... cũng không biết.
Ông thấy Mộc Uyển Thanh thần sắc thê lương, chẳng khác gì Tần Hồng Miên mười tám năm trước nghe tin chẳng lành, không còn nhẫn nại thêm được nữa chặn lại:
- Con không thể thành hôn với Dự nhi, mà cũng không giết nó được.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Sao vậy?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Vì chưng ... vì chưng ... vì chưng Đoàn Dự chính là anh ruột của con.
Mộc Uyển Thanh há hốc mồm, mắt mở trừng trừng dường như không tin ở tai mình, lắp bắp hỏi lại:
- Cái ... cái gì? Ông nói Đoàn lang là anh ruột của tôi ư?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Uyển nhi, con có biết sư phụ con là ai không? Bà ta chính là mẹ ruột con đó. Còn ta ... ta chính là cha của con đây.
Mộc Uyển Thanh vừa kinh khủng, vừa phẫn nộ, mặt tái nhợt, dậm chân kêu lên:
- Tôi không tin! Tôi không tin! Tôi ... nhất định không tin.
Đột nhiên từ ngoài song cửa vọng vào một tiếng thở dài rồi giọng một người đàn bà cất lên:
- Uyển nhi! Mình về đi thôi.
Mộc Uyển Thanh quay phắt lại kêu lên:
- Sư phụ.
Cửa sổ đột nhiên mở tung, đứng đó là một người đàn bà trung niên, khuôn mặt trái xoan, lông mày hơi dài, tướng mạo cực kỳ xinh đẹp, có điều ánh mắt chứa đựng ba phần dữ tợn, ba phần ngang bướng.
Đoàn Chính Thuần thấy người tình năm xưa Tần Hồng Miên bất ngờ hiện thân, vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, kêu lên thảng thốt:
- Hồng Miên! Hồng Miên, bao nhiêu năm nay, ta ... ta nhớ em biết chừng nào.
Tần Hồng Miên gọi:
- Uyển nhi ra đây! Nhà của con người phụ phàng bạc bẽo kia đừng ở lại thêm một khắc nào.
Mộc Uyển Thanh nhìn thấy thần tình sư phụ và Đoàn Chính Thuần, trong lòng băng giá, nói:
- Sư phụ, ông ta ... ông ta lừa con, nói sư phụ là mẹ con, còn ông ta là ... là cha con.
Tần Hồng Miên đáp:
- Mẹ con chết rồi, cha con cũng chết rồi.
Đoàn Chính Thuần tiến đến bên cửa sổ, dịu dàng nói:
- Hồng Miên, nàng vào đây, để ta được nhìn nàng lâu thêm một chút. Từ nay nàng đừng bỏ đi nữa, đôi ta vĩnh viễn chung sống bên nhau.
Ánh mắt Tần Hồng Miên đột nhiên rạng rỡ, vui mừng hỏi:
- Chàng bảo từ nay mình vĩnh viễn bên nhau, có thật thế không?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Thật chứ! Hồng Miên, chẳng ngày nào ta không nhớ đến em.
Tần Hồng Miên hỏi thêm:
- Chàng bỏ được Đao Bạch Phượng chứ?
Đoàn Chính Thuần chần chừ không trả lời, trên mặt lộ vẻ khó nghĩ. Tần Hồng Miên nói:
- Nếu chàng thương đến đứa con gái mình thì ông đi theo thiếp, vĩnh viễn không còn ngó ngàng gì tới Đao Bạch Phượng, vĩnh viễn không quay về nhà.
Mộc Uyển Thanh nghe hai người đối đáp, trong lòng mỗi lúc một thêm thất vọng, nước mắt doanh tròng, chỉ thấy hình bóng của sư phụ và Đoàn Chính Thuần đều nhòe đi. Nàng biết hai người trước mặt quả đích thực là cha mình mẹ mình, dẫu không muốn tin cũng không được. Thời gian qua nàng tình yêu sâu nặng, ngày đêm mơ tưởng đến Đoàn lang, ngờ đâu chàng lại là anh em cùng cha khác mẹ với mình, chuyện hai người như chim liền cánh, chung sống với nhau đến lúc bạc đầu chỉ chớp mắt tan ra mây khói.
Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:
- Có điều ta là Trấn Nam Vương của Đại Lý, nắm hết mọi việc cơ yếu văn võ trong tay, bỏ đi ngay không tiện ...
Tần Hồng Miên hậm hực nói:
- Mười tám năm trước chàng đã nói thế rồi, nay mười tám năm sau cũng lại một câu đó. Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, chàng là người phụ tâm bạc hãnh, em ... em hận chàng không biết đâu mà kể ...
Đột nhiên trên mái nhà phía đông bốp bốp bốp ba tiếng vỗ tay, nóc nhà phía tây lập tức có tiếng đáp lại. Tiếp theo là tiếng của Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng cất lên:
- Có thích khách. Các anh em ở đâu yên đó, không được vọng động.
Tần Hồng Miên quát lên:
- Uyển nhi, con còn chưa chịu ra hay sao?
Mộc Uyển Thanh vội đáp:
- Vâng.
Nàng phi thân vọt qua cửa sổ, sà vào lòng người mẹ hiền mà cũng lại là ân sư. Đoàn Chính Thuần nói:
- Hồng Miên, nàng bỏ ta mà đi thực hay sao?
Giọng nói của ông thê lương đau đớn biết chừng nào. Giọng Tần Hồng Miên đột nhiên trở lại dịu dàng:
- Thuần ca, chàng đã làm vương gia mấy chục năm rồi, chưa đủ hay sao? Chàng theo em đi, từ nay về sau, em đối với chàng thiên y bách thuận, không dám nói nặng chàng nửa câu, không dám đánh chàng nửa cái. Đứa con gái dễ thương thế này, chẳng lẽ chàng không thương nó hay sao?
Đoàn Chính Thuần trong lòng rộn ràng, nhảy vọt ra nói:
- Được, ta theo nàng đi.
Tần Hồng Miên mừng rỡ vô cùng, đưa bàn tay cho ông ta nắm. Đột nhiên phía sau lưng có tiếng đàn bà lạnh lùng nói:
- Sư tỉ, chị ... chị lại vào tròng của y rồi. Y chỉ ôm ấp chị vài ngày, rồi lại trở về với chức vương gia đấy thôi.
Đoàn Chính Thuần bàng hoàng, kêu lên:
- Bảo Bảo, chính nàng rồi. Nàng cũng đến ư?
Mộc Uyển Thanh ngoảnh ra thấy người đàn bà vừa nói mặc áo dài màu toàn xanh, chính là Chung phu nhân của Vạn Kiếp Cốc, sư thúc của mình Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo. Đằng sau bà ta có bốn người, một người là Diệp Nhị Nương, một người là Vân Trung Hạc, người thứ ba đã đi rồi giờ quay lại Nam Hải Ngạc Thần, nhưng người thứ tư mới khiến nàng hoảng hốt, chính là Đoàn Dự, bàn tay Nam Hải Ngạc Thần cầm ngay cổ chàng, tưởng như lúc nào cũng có thể lách cách một tiếng bẻ gẫy ngay lập tức. Mộc Uyển Thanh kêu lên:
- Đoàn lang, chàng có sao không?
Đoàn Dự đang nằm trên giường dưỡng thương, đang mơ mơ hồ hồ thì bị Nam Hải Ngạc Thần nhảy vào bồng ra ngoài. Chàng vốn không bị trúng độc, mũi tên của Mộc Uyển Thanh có độc là ở thuốc tẩm chứ tiễn đầu nhỏ như thế chỉ làm thành một vết thương nhẹ, có đáng gì đâu. Chàng kinh hãi liền tỉnh dậy, đứng bên ngoài noãn các nghe hết tất cả những gì cha mình nói với Mộc Uyển Thanh và Tần Hồng Miên, tuy không nghe hết từ đầu chí cuối nhưng mười phần cũng hiểu tám chín. Chàng nghe Mộc Uyển Thanh vẫn gọi mình là “Đoàn lang”, trong lòng chua xót, nói:
- Muội tử, từ nay trở đi mình tương thân tương ái, ... là anh em với nhau.
Mộc Uyển Thanh bực tức đáp:
- Không, không phải như thế. Chàng là người đàn ông đầu tiên nhìn thấy mặt em.
Nàng bỗng nghĩ tới mình và Đoàn Dự cũng đều là con của Đoàn Chính Thuần, anh trai em gái làm sao lấy nhau được? Nếu trên đời này có ai ngăn trở hôn nhân của hai người, nàng chỉ một mũi tên giết là xong ngay, còn bây giờ cái trở ngại chắn ngang lại là ý trời thăm thẳm, dù nàng võ công cao đến đâu, dù cho quyền thế đến đâu cũng không làm sao thay đổi được. Trong chớp mắt nàng thấy bao nhiêu ước mơ đều tan biến, hai chân dậm một cái nhảy vọt ra ngoài. Tần Hồng Miên vội kêu:
- Uyển nhi, con đi đâu thế?
Mộc Uyển Thanh đến sư phụ nàng cũng không thèm ngó đến, nói:
- Bà hại đời tôi, tôi không biết tới bà nữa.
Nàng lại càng chạy nhanh hơn. Một tên vệ sĩ trong vương phũ giang hai tay chặn lại, quát hỏi:
- Ai đó?
Mộc Uyển Thanh bắn tên độc ra, trúng ngay yết hầu tên lính. Chân nàng không chậm lại chút nào, trong khoảnh khắc đã tan biến vào trong bóng đêm.
*
* *
Đoàn Chính Thuần thấy con trai mình bị Nam Hải Ngạc Thần bắt được, không kể đứa con gái chạy đi đâu, giơ ngón tay về phía Nam Hải Ngạc Thần điểm tới. Diệp Nhị Nương múa chưởng đánh ra, chém vào cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần vòng tay lại chộp, Diệp Nhị Nương cười khanh khách, ngón tay giữa búng ngay vào lưng bàn tay đối phương. Chỉ nháy mắt hai người đã trao đổi ba chiêu, Đoàn Chính Thuần trong bụng kinh hãi ngầm: “Con mụ này quả là ghê gớm”.
Tần Hồng Miên giơ tay để lên đỉnh đầu Đoàn Dự, kêu lên:
- Thế chàng muốn con chàng sống hay chết?
Đoàn Chính Thuần kinh hãi ngừng tay, biết bà ta tính tính cực kỳ bạo tợn, hận vợ cả của mình là Đao Bạch Phượng thấu xương, chỉ cần nhả nội lực ra là giết chết Đoàn Dự ngay nên vội vàng nói:
- Hồng Miên, con ta trúng phải độc tiễn của con nàng, bị thương không phải nhẹ.
Tần Hồng Miên đáp:
- Y đã uống giải dược rồi, không chết được đâu, thiếp tạm thời mang y đi. Để xem chàng muốn làm vương gia hay muốn toàn mạng cho con.
Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả, nói:
- Tên tiểu tử này rồi ra thể nào cũng phải bái ta làm thầy.
Đoàn Chính Thuần hấp tấp nói:
- Hồng Miên, việc gì ta cũng chịu hết, nàng ... nàng thả con ta ra.
Mối tình của Tần Hồng Miên đối với Đoàn Chính Thuần, tuy xa nhau đã mười tám năm nhưng không hề phai nhạt, nghe ông ta nói thiết tha như thế, thấy mềm lòng hỏi:
- Có thật là chàng ... chàng bằng lòng sao?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Thật, thật chứ.
Chung phu nhân vội xen vào:
- Sư tỉ, lời gã bạc tình này, chị còn tin được nữa hay sao? Nhạc nhi tiên sinh, thôi mình đi.
Nam Hải Ngạc Thần tung mình nhảy lên, ôm Đoàn Dự trên không trung quay người một cái đã rơi xuống ngay mái nhà bên kia. Kế đó nghe bình bình hai tiếng, Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã đánh hai tên vệ sĩ trong vương phũ ngã lăn xuống đất.
Chung phu nhân kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần, đêm nay ngươi có muốn đánh nhau một trận hay chăng?
Đoàn Chính Thuần tuy biết rằng tập trung tất cả nhân lực trong vương phủ, chưa chắc đã không thể không ngăn giữ được bọn người này nhưng vì con mình đang ở trong tay đối phương, ném chuột sợ vỡ đồ, không phải chỉ lấy võ công mà hơn thua được, huống chi hai sư tỉ sư muội này trước đây đã từng có quan hệ mật thiết với mình, bèn dịu dàng nói:
- Bảo Bảo, nàng ... nàng cũng tới đây gây sự với ta sao?
Chung phu nhân đáp:
- Ta nay là vợ của Chung Vạn Cừu, ngươi còn mồm năm miệng mười gọi tên ta là sao?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Bảo Bảo, trong những ngày tháng ta, ta vẫn thường nhớ tới nàng.
Chung phu nhân rưng rưng nước mắt dịu giọng đáp:
- Từ khi biết được Đoàn công tử là con của ông rồi, trong lòng tôi ... lòng tôi xiết bao trăn trở ...
Tần Hồng Miên vội lêu lên:
- Sư muội lại vào tròng của y sao?
Chung phu nhân nắm tay Tần Hồng Miên, kêu lên:
- Thôi, chúng ta đi.
Bà ta quay lại nói:
- Ông đem thủ cấp con tiện nhân Đao Bạch Phượng, nhất bộ nhất bái đến Vạn Kiếp Cốc thì bọn ta sẽ giao trả con lại cho ông.
Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:
- Vạn Kiếp Cốc.
Lúc ấy Nam Hải Ngạc Thần đã ôm Đoàn Dự chạy càng lúc càng xa. Cao Thăng Thái và bọn Chử Vạn Lý thì chia nhau bốn phía vây lại, Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:
- Cao hiền đệ, cứ thả cho họ đi.
Cao Thăng Thái kêu lên:
- Tiểu vương gia ...
Đoàn Chính Thuần nói:
- Để từ từ rồi tính sau.
Ông vừa nói vừa phi thân nhảy tới trước mặt Cao Thăng Thái, ra lệnh:
- Thích khách đi rồi, tất cả về chỗ cũ.
Thân hình lắc một cái, lạng tới ngay bên cạnh Chung phu nhân, đầm ấm nói:
- Bảo Bảo, lâu nay nàng có được khỏe không?
Chung phu nhân đáp:
- Có gì mà không khỏe?
Đoàn Chính Thuần lật tay một cái không nghe một tiếng động đã điểm trúng ngay huyệt Chương Môn ở bên hông bà ta. Chung phu nhân không kịp đề phòng, người mềm nhũn ngã lăn ra. Đoàn Chính Thuần giơ tay nắm lấy bà ta, giả vời kinh hoàng kêu lên:
- Chao ôi! Bảo Bảo, nàng ... nàng sao thế này?
Tần Hồng Miên có biết đâu là mưu kế, vội vàng chạy tới, hỏi dồn:
- Sư muội, chuyện gì thế?
Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần lại tung ra, trúng ngay huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miên và Chung phu nhân bị điểm huyệt rồi bị Đoàn Chính Thuần hai tay nắm hai người, hậm hực nhìn ông ta, cùng nghĩ: “Lại bị y đánh lừa, sao mình lại hồ đồ đến thế? Trong đời bị y lừa bao nhiêu lần rồi, hôm nay việc đến nước này cũng không biết đề phòng”.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Cao hiền đệ nội thương chưa khỏi, mau về phòng nghỉ ngơi. Vạn Lý, ngươi tất lãnh binh lính canh gác các nơi.
Cao Thăng Thái và Chử Vạn Lý cùng khom lưng đáp lời. Đoàn Chính Thuần cắp hai người đàn bà quay trở vào noãn các, gọi đầu bếp thị tì bày tiệc rượu, sắp dọn chén bát. Sau khi đầy tớ đã lui ra, Đoàn Chính Thuần liền điểm những huyệt Hoàn Khiêu, Khúc Tuyền trên đùi nhị nữ để họ không thể nào chạy trốn được, sau đó mới hề hề vỗ lưng giải huyệt Chương Môn. Tần Hồng Miên kêu lên:
- Đoàn Chính Thuần, ngươi ... ngươi còn định hiếp đáp ta ...
Đoàn Chính Thuần quay lại, chắp tay vái hai người một cái thật sâu nói:
- Quả là đắc tội, ta xin bồi lễ trước.
Tần Hồng Miên giận dữ đáp:
- Ai cần ngươi xin lỗi? Mau thả bọn ta ra.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Ba người chúng ta hơn một chục năm qua không gặp nhau, hôm nay trùng phùng, có biết bao nhiêu điều muốn chia xẻ. Hồng Miên, sao tính nàng vẫn còn nóng nảy thế? Bảo Bảo, nàng càng ngày càng xinh đẹp, so với hồi đó xem ra còn trẻ hơn.
Chung phu nhân chưa kịp trả lời, Tần Hồng Miên đã nổi cáu:
- Ngươi thả ta ra đi. Sư muội ta thì ngày càng trẻ ra, còn ta thì càng ngày càng xấu, thế ngươi còn muốn gặp mụ già xấu xí này làm gì?
Đoàn Chính Thuần thở dài:
- Hồng Miên, nàng thử soi gương mà xem, nếu như nàng là một mụ già xấu xí thì khi viết văn tả một tuyệt sắc giai nhân sẽ viết là:
Bà già xấu xí làm sao,
Chim sa cá lặn dễ đâu sánh bằng.
Tần Hồng Miên nhịn không nổi cười khúc khích, đang định dậm chân, nhưng thấy đùi tê dại, không thể nào cử động được, hờn dỗi nói:
- Ai thèm đùa cợt với ông? Cười nói cợt nhả còn gì là thể thống vương gia nữa?
Dưới ánh đèn lung linh, Đoàn Chính Thuần thấy bà ta phụng phịu, nhớ đến năm xưa đêm nào hai người gần gũi, trong lòng không khỏi xốn xang, tiến đến ghé môi hôn lên má người tình cũ một cái. Tần Hồng Miên nửa thân trên cử động được, tay trái liền quạt một cái tặng ngay cho ông ta một cái bạt tai thật kêu. Đoàn Chính Thuần nếu như muốn né tránh thật chẳng có gì khó khăn, nhưng cố ý để cho nàng đánh một chưởng, ghé bên tai nói nhỏ:
Để anh chết dưới chân nàng,
Dẫu cho thành quỉ lại càng phong lưu.
Tần Hồng Miên toàn thân run rẩy, nước mắt đầm đìa, khóc rấm rứt, vừa khóc vừa nói:
- Chàng ... chàng lại ghẹo thiếp nữa rồi.
Thì ra năm xưa Tần Hồng Miên một đôi Tu La Đao hoành hành giang hồ, cho nên có cái ngoại hiệu là Tu La Đao, đêm đó thất thân với Đoàn Chính Thuần xong, ông ta bèn hôn lên má, nàng giơ tay tát yêu chàng một cái, Đoàn Chính Thuần cũng đọc hai câu này. Mười tám năm qua, hai câu “Tu La Đao hạ tử, Cố quỉ dã phong lưu” văng vẳng trong đầu nàng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ lại nghe chính người tình thốt ra, trong lòng Tần Hồng Miên vừa vui sướng, vừa phẫn nộ, vừa ngọt ngào, vừa đắng cay, ngổn ngang trăm mối.
Chung phu nhân hạ giọng nói nhỏ:
- Sư tỉ, gã này chỉ giỏi mật ngọt chết ruồi, khéo làm người khác vui lòng, chị đừng tin y nữa.
Đoàn Chính Thuần đi đến bên cạnh Chung phu nhân, cười nói:
- Bảo Bảo, để ta “mi” nàng một cái, có chịu không nào?
Chung phu nhân nghiêm giọng đáp:
- Ta là gái có chồng, quyết không làm hủy hoại thanh danh của chồng ta. Ngươi chỉ động đến người ta, ta lập tức cắn lưỡi, chết ngay trước mặt ngươi.
Đoàn Chính Thuần thấy bà ta thần sắc cương quyết, nói như chém đinh chặt sắt, không dám sàm sỡ, hỏi lại:
- Bảo Bảo, nàng lấy người đó là hạng người như thế nào?
Chung phu nhân đáp:
- Chồng ta hình dạng xấu xí, tính nết lạ lùng, võ công cũng không bằng ngươi, tài hoa cũng kém, không được vinh hoa phú quí như ngươi. Thế nhưng y một lòng một dạ đối với ta, ta cũng một lòng một dạ với y. Nếu như ta có nửa phần không phải, thì xin trời tru đất diệt Cam Bảo Bảo này, vạn kiếp chẳng được siêu sinh. Để ta nói cho ngươi biết, ta cùng chồng ta ở một nơi gọi là Vạn Kiếp Cốc, cái tên đó cũng là vì lời thề độc đó mà ra.
Đoàn Chính Thuần dâng lên một nỗi kính trọng, không dám nhắc đến tình cũ nghĩa xưa, miệng tuy không nói ra nhưng thấy Cam Bảo Bảo khuôn mặt trắng hồng xinh đẹp như ngày nào, đôi môi đỏ thắm cong cong, trong lòng làm sao quên được chuyện ngày trước? Ông nghe nàng tiết liệt đối với chồng, lòng không khỏi xót xa, thở dài một tiếng nói:
- Bảo Bảo, ta thật không may, không được nàng một lòng một dạ với ta như thế. Vẫn hay ... vẫn hay ta là người đến trước, nhưng, than ôi, cũng bởi ta không phải mà ra.
Chung phu nhân nghe ông ta nói thật thê lương, tình ý thật đậm đà, quyết không thể là lời ngon ngọt để lừa dối người, không khỏi rưng rưng cảm thán. Ba người nhìn nhau, ai cũng nghĩ đến chuyện xưa, đầu mày khóe mắt, lúc thì vui lúc thì buồn.
Một hồi sau, Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:
- Các người bắt con ta đi là để làm gì thế? Bảo Bảo, Vạn Kiếp Cốc của nàng ở nơi nào?
Ngoài cửa sổ bỗng có tiếng người ồm ồm nói:
- Đừng nói cho hắn nghe.
Đoàn Chính Thuần kinh hãi, nghĩ thầm: “Bên ngoài có bọn Chử Vạn Lý canh gác, sao lại có người lẻn vào đây được?” Chung phu nhân mặt sầm xuống nói:
- Thương thế của ông chưa lành, đến đây làm chi?
Tiếp theo là tiếng đàn bà nói:
- Chung tiên sinh, thôi vào đi.
Đoàn Chính Thuần lại càng hoảng hốt, tự nhiên mặt đỏ bừng. Chiếc màn cửa của noãn các vén lên, Đao Bạch Phượng từ ngoài bước vào, mặt hầm hầm, đằng sau là một người đàn ông thật xấu xí, mặt dài như mặt ngựa.
Thì ra Tần Hồng Miên đi đến Cô Tô hành thích không xong, hai mẹ con lại lạc nhau nên theo đúng ước định xuôi nam về Đại Lý, đến gặp nhau ở nhà sư muội. Nhà họ Vương ở Cô Tô sai bọn Thụy bà bà, Bình bà bà toàn lực đuổi theo Mộc Uyển Thanh khiến cho Tần Hồng Miên đi sau đến tám chín ngày nhưng trên đường bình an vô sự. Bà ta đến Vạn Kiếp Cốc rồi, hỏi rõ sự tình lập tức cùng Chung phu nhân đi dò thám, trên đường gặp bọn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc tam ác. Bọn tam ác này chính là do Chung Vạn Cừu mời đến tiếp tay đối phó với Đoàn Chính Thuần nên cho Chung phu nhân hay mọi việc xảy ra. Chuyện đáng xấu hổ của Nam Hải Ngạc Thần phải làm môn hạ Đoàn Dự, lẽ dĩ nhiên y không kể. Tần Hồng Miên nghe nói Mộc Uyển Thanh bị rơi vào tay Trấn Nam Vương phủ, vội vàng chạy tới trước.
Chung Vạn Cừu yêu vợ hơn cả yêu thân, lại cả ghen nên khi Cam Bảo Bảo đi rồi y đứng ngồi không yên, trong bụng nóng như lửa đốt nên chẳng kể đến vết thương chưa khỏi, ban đêm ban hôm cũng chạy đến nơi. Y ở bên ngoài phủ Trấn Nam Vương trông thấy Đao Bạch Phượng hầm hầm chạy ra, oán khí không biết đổ vào ai nên gặp nhau chẳng nói chẳng rằng liền động thủ ngay. Hai bên đấu đến lúc gay go, Đao Bạch Phượng xem chừng không chống nổi, đột nhiên có một bóng đàn bà áo đen chạy vụt qua, tay ôm mặt khóc nức nở, chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người cùng lên tiếng gọi, Mộc Uyển Thanh không thèm để ý cứ lầm lũi chạy đi.
Chung Vạn Cừu kêu lên:
- Ta còn phải đi kiếm vợ ta, không hơi đâu mà đấu lằng nhằng với ngươi.
Đao Bạch Phượng nói:
- Ngươi đi đâu để tìm vợ?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Thì đến nhà tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần chứ đâu. Vợ ta mà gặp Đoàn Chính Thuần rồi thì hỏng bét.
Đao Bạch Phượng hỏi thêm:
- Sao lại hỏng bét?
Chung Vạn Cừu nói:
- Đoàn Chính Thuần mồm mép lắm, là một thằng nhãi mặt trắng chuyên dụ đàn bà, lão tử thể nào cũng phải giết nó.
Đao Bạch Phượng nghĩ thầm: “Chính Thuần đã ngoài bốn mươi, râu đầy mặt, sao lại còn là một “thằng nhãi mặt trắng” được? Thế nhưng y quen thói gió trăng, lời của gã mặt ngựa này cũng đáng đề phòng lắm”. Bà bèn hỏi kỹ tính danh lai lịch vợ Chung Vạn Cừu, ngờ đâu lại chính là Cam Bảo Bảo. Bà vốn biết Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo là một trong những nhân tình cũ của chồng nên máu ghen càng bừng bừng liền cùng Chung Vạn Cừu đến vương phủ.
Phủ Trấn Nam Vương bốn bề canh gác nghiêm nhặt nhưng vệ sĩ trông thấy vương phi không dám ngăn trở thành thử hai người đến bên cạnh noãn các mà vẫn chưa một ai lên tiếng báo động. Đoàn Chính Thuần lúc ấy đang cùng hai sư tỉ muội Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo ngỏ lời ong bướm, người thì tát tai người thì cự tuyệt, bên ngoài nghe thấy cả khiến cho Đao Bạch Phượng dường như muốn nổ tung lồng ngực. Còn Chung Vạn Cừu nghe thấy vợ đoan trinh tiết liệt thật mừng không để đâu cho hết.
Chung Vạn Cừu chạy đến bên cạnh Cam Bảo Bảo, vừa cao hứng vừa thương xót cứ ôm vợ mà xoay qua xoay lại, luôn mồm nói:
- Bảo Bảo, cám ơn nàng, nàng đối với ta thật tốt. Nếu như y dám ức hiếp nàng, ta thề sẽ thí mạng cùng y.
Một hồi sau y mới nhớ ra là vợ mình bị điểm huyệt liền quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:
- Mau mau giải khai huyệt đạo cho vợ ta.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Con trai ta bị các ngươi bắt đi, ngươi quay về thả nó ra, lúc ấy ta sẽ giải cứu tôn phu nhân.
Chung Vạn Cừu đưa tay vỗ lên bên sườn và eo của vợ, tuy nội công y hùng mạnh thật nhưng Nhất Dương Chỉ nhà họ Đoàn thủ pháp có một không hai trong thiên hạ, người ngoài không ai có thể giải được, thành thử y vỗ đến lúc trán nổi gân xanh, còn Chung phu nhân bị y vỗ vừa đau vừa nhột, huyệt đạo nơi chân vẫn không mở được chút nào. Chung phu nhân giận dữ nói:
- Ngốc ơi, thôi đừng giở xấu ra nữa!
Chung Vạn Cừu vội vàng ngừng tay, bực tức không để đâu cho hết lớn tiếng quát tháo:
- Đoàn Chính Thuần, có giỏi cùng ta đấu con mẹ nó ba trăm hiệp coi nào.
Y xăn tay ra bộ tịch tưởng như muốn xông lên đánh nhau đến nơi. Chung phu nhân lạnh lùng nói:
- Đoàn vương gia, công tử bị bọn Nam Hải Ngạc Thần bắt đi, chuyết phu dẫu có nói thả, bọn ác nhân kia chưa chắc đã nghe. Để tôi và sư tỉ về rồi tùy cơ giải cứu may ra còn có hi vọng, ít ra cũng khiến cho bọn chúng không làm khó cho công tử.
Đoàn Chính Thuần lắc đầu:
- Ta không tin được. Chung tiên sinh, xin ông đi về, đem con tôi tới đây đổi lấy phu nhân.
Chung Vạn Cừu nổi cơn lôi đình, hầm hầm quát:
- Trấn Nam Vương phủ nhà ngươi là chỗ hoang dâm vô sỉ, vợ ta ở đây nguy hiểm vạn phần.
Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, quát lớn:
- Ngươi còn mở miệng nói năng vô lễ, họ Đoàn này thẳng tay thì đừng trách.
Đao Bạch Phượng từ khi vào phòng tới giờ không nói nửa lời, bỗng dưng xen vào:
- Ông giữ hai người đàn bà lại là có dụng ý gì đây? Vì Dự nhi hay vì chính bản thân ông?


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:05 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Đã mang cái nghiệp đèo bòng,
Bên Tần bên Sở biết trông bên nào.
*
* *

Đoàn Chính Thuần thở dài nói:
- Đến bà cũng không còn tin ở tôi nữa hay sao?
Ông vung tay một cái điểm vào ngang hông Tần Hồng Miên, lập tức giải huyệt cho bà ta, xong rồi tiến lên một bước giơ tay toan điểm vào hông Chung phu nhân. Chung Vạn Cừu lạng người chắn trước mặt vợ, xua hai tay lớn tiếng nói:
- Tên kia ngươi thập thò gì, lại toan chấm mút đàn bà con gái nữa chăng? Thân thể vợ ta không để cho ngươi đụng tới được.
Đoàn Chính Thuần cười khẩy nói:
- Công phu điểm huyệt của tại hạ tuy thô thiển thật nhưng người ngoài không giải nổi đâu. Để lâu thêm nữa, e rằng hai chân của tôn phu nhân phải tàn phế mất thôi.
Chung Vạn Cừu hầm hầm nói:
- Vợ ta như hoa tựa ngọc đang khỏe mạnh, nếu như thành người què thì ta sẽ băm thằng chó đẻ con ngươi ra thành muôn nghìn mảnh.
Đoàn Chính Thuần cười:
- Ngươi muốn ta giải huyệt cho tôn phu nhân nhưng lại không cho đụng vào người thì ta biết làm thế nào đây?
Chung Vạn Cừu không sao trả lời được, bỗng dưng nổi cơn thịnh nộ, quát lớn:
- Ai bảo ngươi điểm huyệt vợ ta làm chi? Chết rồi, hỡi ôi, khi ngươi điểm huyệt vợ ta, ngươi đã đụng vào người nàng rồi. Đã thế ta cũng điểm vợ ngươi một cái để bù lại.
Chung phu nhân lườm chồng, giận dỗi nói:
- Lại nói lăng nhăng, không sợ người ta cười cho sao?
Chung Vạn Cừu nói:
- Có gì đáng cười nào? Ta đâu có để y chơi trèo được.
Trong khi hai bên còn đang đôi co, màn cửa bỗng vén lên, một người chậm rãi bước vào. Người đó mặc trường bào bằng gấm vàng, râu ba chòm, mi thanh mục tú, chính là hoàng đế nước Đại Lý Đoàn Chính Minh.
Đoàn Chính Thuần cất tiếng chào:
- Hoàng huynh!
Bảo Định Đế gật đầu, hơi nghiêng mình từ xa vung ngón tay chỉ về ngực và bụng Chung phu nhân. Chung phu nhân thấy đan điền nóng hổi, hai luồng khí ấm truyền vào hai bên đùi, huyết mạch lập tức điều hòa, đứng lên ngay được.
Chung Vạn Cừu thấy ông ta để lộ chút thần kỹ Cách Không Giải Huyệt, kinh ngạc vạn phần, há hốc mồm không nói lên được lời nào, không ngờ trên đời này lại có công phu cao siêu đến thế.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hoàng huynh, Dự nhi bị người ta bắt cóc rồi.
Bảo Định Đế gật đầu, nói:
- Thiện Xiển Hầu đã cho ta hay. Thuần đệ, con cháu nhà họ Đoàn nếu lạc vào tay người thì cha mẹ chú bác phải đi cứu ra, chúng ta không thể bắt người để đánh đổi được.
Đoàn Chính Thuần mặt đỏ lên, đáp lời:
- Chính thế.
Mấy câu nói đó của Bảo Định Đế thật quang minh lỗi lạc, đầy vẻ biết mình biết người, ý muốn là: “Nếu như mình bắt người làm con tin để đổi lại thì chẳng hóa ra làm mất thanh danh của họ Đoàn Đại Lý hay sao? Chúng ta đường đường con vua cháu chúa sao lại coi như ngang hàng với mấy con đàn bà đầu đường xó chợ?”.
Ông ngừng lại một chút, quay sang nói với Chung Vạn Cừu:
- Xin ba vị cứ việc ra đi. Trong vòng ba ngày, họ Đoàn ắt sẽ đến Vạn Kiếp Cốc để đòi người lại.
Chung Vạn Cừu đáp:
- Vạn Kiếp Cốc chúng tôi cực kỳ khó tìm, chưa chắc các người đã kiếm được, có muốn chúng tôi chỉ vẽ đường đi nước bước chăng?
Y chắc rằng Bảo Định Đế thể nào cũng mở miệng hỏi thăm, lúc ấy mình sẽ không nói để làm khó ông ta một phen. Nào ngờ Bảo Định Đế không thèm trả lời, phất tay áo một cái ra lệnh:
- Tống khách!
Chung Vạn Cừu tính tình nóng nảy nhưng trước mặt vị hoàng đế bất nộ nhi uy này cũng cảm thấy chân tay luống cuống, vừa nghe ông ta nói “Tống khách” hậm hực nói:
- Thôi được, mình đi thôi. Lão tử hận nhất trên đời này là họ Đoàn. Trên đời này chẳng có người họ Đoàn nào ra cái quái gì.
Y cầm tay vợ, mặt hầm hầm hung hăng ra khỏi phòng. Chung phu nhân giật áo Tần Hồng Miên nói:
- Thư thư, thôi mình đi.
Tần Hồng Miên đưa mắt liếc Đoàn Chính Thuần một cái, thấy ông ta mặt lạnh như tiền không nói một lời, trong lòng chua chát, trừng mắt nhìn Đao Bạch Phượng rồi lủi thủi đi ra. Ba người vừa ra khỏi phòng lập tức phi thân lên mái nhà.
Cao Thăng Thái đứng ở một bên góc nhà hơi cúi mình nói:
- Tống khách.
Chung Vạn Cừu ở trên mái ngói nhổ toẹt một bãi nước bọt, hậm hực nói:
- Chỉ vờ vịt, làm bộ làm tịch, chẳng đứa nào ra cái đếch gì.
Y đề khí nhảy qua một mái nhà, hết căn nọ đến căn kia, trước mắt đã thấy bức tường bao quanh vương phủ. Y tung mình nhảy lên, đưa chân đặt xuống đầu tường. Đột nhiên ngay lúc đó, trước mặt đã có thêm một người mặc áo thụng đai vòng, đứng ngay chỗ y vừa định đáp xuống, chính là Cao Thăng Thái vừa đứng ngoài tiễn chân y.
Người này vốn ở sau Chung Vạn Cừu, không biết làm sao mà không nghe một tiếng động đã vượt qua trước mặt, đứng ngay đúng chỗ y vừa tính đặt chân.
Chung Vạn Cừu đang ở trên lưng chừng, nhảy lại thì không được, xoay qua cũng không xong, quát lên:
- Tránh ra!
Hai bàn tay y cùng tung ra, đánh thẳng vào Cao Thăng Thái. Y nghĩ thế chưởng của mình có sức vỡ bia tan đá, đối phương nếu như cố gượng chống trả thể nào cũng bị ngãn văng xuống đất, dù cho hai bên có ngang ngửa nhau thì cũng có thể mượn sức để chuyển hướng nhảy qua bên cạnh.
Song chưởng của y xem ra đánh trúng ngay ngực người kia, Cao Thăng Thái thân hình đột nhiên ngã ngửa về sau, sử dụng Thiết Bản Kiều chông chênh, hai chân bám chặt vào đầu tường, tránh khỏi thế đánh của Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu đánh không trúng, kêu thầm: “Không xong!”. Thân hình y bay vụt qua người Cao Thăng Thái nhưng người đã mất thế, chân tay ngực bụng tênh hênh trống trải để cho địch nhân muốn làm gì thì làm. Cũng may Cao Thăng Thái không thừa cơ tập kích, Chung Vạn Cừu hai chân chạm đất kêu lên:
- Hú vía!
Quay lại thấy Chung phu nhân và Tần Hồng Miên hai người nhẹ nhàng vượt tường nhảy qua. Cao Thăng Thái đứng thẳng trở lên, cúi người vái chào nói:
- Xin thứ lỗi không tiễn xa hơn được.
Chung Vạn Cừu hừ một tiếng, đột nhiên thấy quần tụt xuống, vội vàng đưa tay giữ lại cho khỏi ê mặt, mò tay vào mới hay dây lưng đứt tự bao giờ. Thì ra khi y bay ngang người Cao Thăng Thái đã bị ông ta thọc tay cắt đứt nếu đối phương không nhẹ đòn, ngón tay đó đâm vào huyệt Đan Điền thì lúc này đã chết đứ đừ rồi. Y vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, khạc một cái quay lại nhổ toẹt một cục đờm lên tường, nghe bộp một cái, vừa nhanh vừa chính xác.
*
* *
Mộc Uyển Thanh hoang mang nửa mê nửa tỉnh từ phủ Trấn Nam Vương chạy ra, Đoàn vương phi cùng Chung Vạn Cừu vẫy gọi, nàng nghe mà như bỏ ngoài tai, vẫn chạy vùn vụt. Nàng thấy trời đất mênh mang nhưng sao không có một chỗ dung thân, trong hoang sơn dã lãnh chạy lung tung đến khi trời sáng, hai chân mỏi nhừ, lúc ấy mới ngừng bước, tựa lưng vào một thân cây, dậm châm kêu lên:
- Ta còn sống làm gì, thôi chết quách cho xong.
Tuy trong lòng nàng đầy oán hận nhưng chẳng biết đổ cho ai: “Đoàn lang nào có phụ tình đâu, chỉ vì trời xui đất khiến biến thành người anh cùng cha khác mẹ với ta. Sư phụ hóa ra chính là mẹ ruột, mười mấy năm qua mẹ ta chịu biết bao cay đắng nuôi dưỡng ta nên người, ơn nặng tày non, oán trách gì được ... Trấn Nam Vương hóa ra là cha ta, tuy ông đối với mẹ ta có lỗi nhưng hẳn bên trong cũng có biết bao nhiêu điều cực chẳng đã không nói ra được. Cha ta với ta thật dịu dàng, hết sức thương yêu, bảo ta dù có tâm nguyện gì, thể nào cũng hết sức làm cho kỳ được mới thôi. Thế nhưng điều ta muốn đâu phải ở sức người mà xong. Mẹ ta không được cùng cha ta nên vợ nên chồng, chắc cũng tại Đao Bạch Phượng bên trong ỏn thót nên mẹ ta mới sai ta giết bà ta ... thế nhưng nếu lấy bụng ta suy ra bụng người, ví thử ta lấy được Đoàn lang rồi, quyết chẳng để cho chàng có người thứ hai, huống chi Đao Bạch Phượng đã xuất gia làm đạo cô, hẳn là cha ta cũng có điều gì đáng trách khiến bà phải đau lòng. Ở ngoài Ngọc Hư Quan ta bắn bà ấy hai mũi tên, bà ấy không nổi giận, trong vương phủ bắn thêm hai mũi tên nữa khiến đứa con một yêu quí của bà ta suýt chết, bà ta cũng chẳng làm khó mình, xem ra ... xem ra bà ấy cũng không phải là người hung ác ...”.
Nàng suy đi nghĩ lại, càng thêm đau lòng, nói:
- Ta đành phải quên Đoàn lang đi, từ nay không nhớ tới chàng nữa.
Thế nhưng nói ra thì dễ nhưng dẫu chỉ trong giây lát không nghĩ tới chàng cũng không xong, mỗi khi hình bóng tuấn tú, cao thon của Đoàn Dự hiện ra thì ngực nàng chẳng khác gì bị người ta đánh một chưởng. Một lúc sau nàng đành tự an ủi: “Từ nay chàng có là anh trai ta thì cũng được. Ta vốn là đứa mồ côi không cha không mẹ, bây giờ có cha, có mẹ lại có thêm một người anh trai, thật còn gì sung sướng hơn. Con ngốc ơi, ngươi còn đau lòng nỗi gì?”.
Thế nhưng đã vướng mắc vào trong lưới tình rồi, dây mềm buộc chặt, càng vùng vẫy càng rứt không ra, trên đỉnh núi cao trong dãy Vô Lượng bảy ngày bảy đêm nàng vò võ ngóng trông khiến cho tình càng thâm trọng, làm sao có thể một sớm một chiều mà xong. Tiếng nước chảy ào ào, gầm thét từ xa vọng tới khiến cho Mộc Uyển Thanh trong cơn tuyệt vọng đột nhiên muốn tìm cái chết nên lần theo tiếng ỳ ầm mà tới. Nàng vòng qua một ngọn núi thấy dòng sông Lan Thương đang cuồn cuộn chảy dưới chân, thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Ta chỉ cần nhảy xuống là bao nhiêu phiền não sạch trơn”. Nàng men theo triền núi đến bên bờ sông, mặt trời vừa lên chiếu trên giòng nước xanh như bích ngọc thành muôn ngàn con rắn vàng lộng lẫy, nếu như nhảy một cái thì bao nhiêu cảnh sắc đẹp đẽ kia sẽ không còn bao giờ thấy nữa.
Nàng đứng chết lặng, trong đầu ý nghĩ trồi lên hụp xuống, bỗng thấy trên một tảng đá cách chừng mươi trượng có ai đó đang ngồi. Người kia mặc một chiếc áo dài xanh, trước sau không hề động đậy, cùng một màu với đất đá nên tuy nàng đứng bên bờ sông đã lâu vẫn không nhìn ra. Mộc Uyển Thanh quan sát một hồi nghĩ thầm: “Chắc là một cái xác chết”.
Nàng vốn dĩ giơ tay ra là giết người lẽ nào lại sợ tử thi nên nổi cơn hiếu kỳ, vội vàng đi tới xem xét. Người kia là một ông già, râu đen nhánh dài tới ngực, hai mắt mở trừng trừng nhìn ra ngoài sông, đến chớp mắt cũng không. Mộc Uyển Thanh buột miệng:
- Thì ra là một cái xác chết.
Nàng nhìn kỹ một hồi thấy quả thực người đó hoàn toàn không cử động chút nào, đến con ngươi cũng không chuyển, quả không phải là người sống liền nói:
- Quả đúng là người chết.
Nàng coi kỹ thêm thấy cái xác kia đôi mắt hữu thần, trên mặt lại ửng hồng nên đưa tay ra để dưới mũi thăm dò thử, hơi thở như có như không, bèn đưa tay sờ mặt, thì lại lúc nóng lúc lạnh, sờ tay vào ngực thì trái tim lúc đập lúc ngừng. Nàng ngạc nhiên quá đỗi, buột miệng:
- Người này lạ thật, bảo là người chết rồi thì lại dường như còn sống, thế nhưng bảo là còn sống thì lại giống như chết rồi.
Bỗng có tiếng nói đâu đó:
- Ta là người sống đấy chứ.
Mộc Uyển Thanh hoảng hồn, vội quay đầu nhìn lại nhưng sau lưng nào có ai. Bờ sông toàn những hòn đá lớn bằng trứng ngỗng, nhì ra xa xa không nơi nào có thể ẩn náu. Lúc đó rõ ràng nàng đang nhìn quái nhân kia, khi âm thanh vào tai, không thấy môi y mấp máy gì cả. Nàng gọi lớn:
- Ai đùa rỡn với cô nương đó? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?
Nàng lùi lại hai bước, quay lưng về phía giòng sông, mắt nhìn chung quanh. Lại nghe giọng kia nói tiếp:
- Ta quả là không muốn sống đó.
Mộc Uyển Thanh bấy giờ kinh hãi không để đâu cho hết, trước mắt chỉ thấy quái nhân kia nhưng đôi môi y mím chặt có thấy động đậy gì đâu, không thể nào là y nói được. Nàng cao giọng quát lên:
- Ai nói đó?
Tiếng nói kia đáp:
- Chính ngươi nói chứ còn ai.
Mộc Uyển Thanh hỏi lại:
- Thế thì ai đang nói chuyện với ta?
Tiếng nói kia đáp:
- Chẳng ai nói chuyện với ngươi cả.
Mộc Uyển Thanh quay người nhìn chung quanh mấy bận, ngoài cái bóng của chính nàng ra đâu có ai khác. Nàng liệu chừng chính người áo xanh kia giở trò quái dị nên đến gần, thu hết can đảm, đưa tay bịt mồm ông ta lại, hỏi:
- Phải ông nói chuyện với tôi chăng?
Tiếng nói kia đáp:
- Không phải.
Bàn tay Mộc Uyển Thanh không thấy động đậy chút nào, liền hỏi tiếp:
- Rõ ràng có người nói chuyện với tôi, sao lại bảo là không có ai?
Tiếng nói kia đáp:
- Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta, trên thế gian này không còn ta nữa.
Mộc Uyển Thanh nghe vậy người nổi gai ốc, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ mình nói chuyện với ma?”. Bèn hỏi:
- Ông ... ông là ma chăng?
Tiếng nói kia đáp:
- Ngươi không muốn sống nữa tức là muốn thành ma, sao lại còn sợ ma?
Mộc Uyển Thanh cố gượng đáp:
- Ai bảo ta sợ ma? Ta trời không sợ, đất không kiêng.
Tiếng nói kia đáp:
- Thế nhưng ngươi sợ một thứ.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng:
- Ta chẳng sợ gì cả.
Tiếng nói kia đáp:
- Có một thứ ngươi sợ chứ, sợ lắm chứ. Ấy là ngươi sợ người chồng mình nay lại biến thành người anh.
Câu nói đó chẳng khác nào người ta giáng lên đầu nàng một gậy, hai chân Mộc Uyển Thanh nhũn ra, ngồi phệt xuống. Nàng chết sững một hồi bấy giờ mới lẩm bẩm:
- Ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ!
Tiếng nói kia tiếp:
- Ta có cách làm cho Đoàn Dự không còn là anh ngươi nữa, mà là chồng ngươi.
Mộc Uyển Thanh run rẩy nói:
- Ngươi ... ngươi lừa ta. Đây là chuyện ông trời đã định, thay đổi ... thay đổi thế nào được.
Tiếng nói kia lại tiếp:
- Ông trời đáng chết lắm, làm chuyện tầm phào, mình việc gì phải nói đến. Ta đã có cách, có thể biến anh ngươi thành chồng ngươi, ngươi có chịu không?
Trong lòng Mộc Uyển Thanh vốn đã nguội lạnh, không còn thiết tha gì nữa, nay nghe câu đó thật đúng là trên trời rơi xuống, tuy nửa tin nửa ngờ nhưng cũng hấp tấp nói:
- Tôi muốn chứ, tôi muốn chứ!
Tiếng nói kia không còn nghe thấy tiếp nữa. Một lúc sau, Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Thế ông là ai vậy? Có thể cho tôi xem hình dáng được không?
Tiếng nói kia trả lời:
- Ngươi nhìn ta từ nãy giờ, chưa đủ hay sao?
Tiếng người đó từ trước tới sau lúc nào cũng ngang phè không lên giọng xuống giọng. Mộc Uyển Thanh nói:
- Ông ... ông ... là ... chính là ông đấy ư?
Tiếng kia đáp:
- Ta cũng chẳng biết ta có phải là ta không nữa. Ôi!
Chỉ mãi đến khi nghe y thở dài mới biết lòng y đầy vẻ sầu muộn, chán chường. Mộc Uyển Thanh không còn hoài nghi gì nữa, biết là tiếng nói kia chính là từ ông già áo xanh bèn hỏi:
- Môi ông không mấp máy sao lại nói được?
Tiếng nói kia đáp:
- Ta giở sống giở chết, miệng không cử động được, thanh âm từ trong bụng phát ra.
Mộc Uyển Thanh tuổi còn nhỏ vẫn còn tính trẻ con, vừa mới đây bụng dạ ưu sầu bây giờ nghe nói ông ta không cần mấp máy môi mà vẫn nói được nên không khỏi tò mò, cảm thấy thật lạ lùng bèn hỏi:
- Dùng bụng cũng nói chuyện được sao? Thật là kỳ lạ.
Người áo xanh nói:
- Ngươi thử đưa tay sờ vào bụng ta thì biết ngay.
Mộc Uyển Thanh giơ tay để lên bụng người nọ, thanh bào khách nói:
- Bụng ta rung động ngươi cảm thấy chăng?
Bàn tay Mộc Uyển Thanh quả nhiên thấy bụng y tùy theo tiếng nói mà lên xuống, cười nói:
- Ha ha, thật là lạ lùng.
Nàng có biết đâu người áo xanh đã luyện được môn nói bằng bụng , trò này những người làm trò hát rong nhiều người biết nhưng muốn nói cho được rõ ràng như y thì thật không phải dễ, không có nội công thâm hậu thì không sao làm được.
Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người áo xanh mấy bận, chăm chú quan sát hỏi thêm:
- Thế môi ông không mấp máy được thì làm sao ăn cơm?
Người áo xanh đưa hai tay, một tay cầm môi trên, một tay cầm môi dưới kéo mồm mình ra, sau đó lấy hai ngón tay bên trái chống lên, tay phải bỏ cái gì đó vào mồm, nghe trệu trạo mấy tiếng nuốt vào bụng nói:
- Như thế đó.
Mộc Uyển Thanh thở dài:
- Chao ôi, tội nghiệp quá, thế thì có còn biết gì là ngon ngọt nữa đâu?
Bấy giờ nàng mới thấy rằng tất cả các bắp thịt trên mặt y đều cứng đơ, mi mắt không nhắm lại được nên không tỏ ra buồn vui giận ghét, thành thử thoạt mới gặp ai cũng tưởng là một xác chết.
Tuy nàng không còn sợ hãi nữa nhưng chợt nghĩ ra người này quả là khốn khổ không sao thoát được cảnh sống giở chết giở này nhưng sao y lại có thể biến anh trai mình thành chồng được? Xem ra những lời y nói ra chẳng qua chỉ là những câu nói bá láp lăng nhăng. Nàng trầm ngâm rồi thở dài, quay mình lặng lẽ bỏ đi. Tiếng nói kia lại vọng tới:
- Ta muốn biến Đoàn Dự thành chồng mi, mi không bỏ đi được.
Mộc Uyển Thanh cười nhạt, đi về hướng tây thêm mấy bước, đột nhiên quay phắt lại hỏi:
- Ông không hề quen biết với tôi, làm sao ông biết được bụng dạ tôi? Ông ... ông quen với Đoàn lang ư?
Người áo xanh nói:
- Tâm sự ngươi thế nào ta biết chứ.
Từ trong hai tay áo y thò ra hai chiếc gậy sắt nhỏ đen sì, nói:
- Thôi mình đi.
Gậy bên trái ấn lên tảng đá, thân hình y đã tung lên nhẹ nhàng rơi cách xa cả trượng. Mộc Uyển Thanh thấy hai chân y rời mặt đất tuy chỉ mới chống một cây gậy nhưng thân thể thật là vững chãi, lạ lùng hỏi:
- Thế hai chân ông ...
Người áo xanh nói:
- Hai chân ta tàn phế đã lâu. Thôi nhé, từ nay trở đi việc của ta ngươi không được hỏi nữa.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Nếu tôi cứ hỏi thì sao?
Mấy tiếng đó vừa nói xong đột nhiên hai chân nhũn ra, khuỵu ngay xuống. Thì ra người áo xanh đã phất phới bay tới, cây gậy bên tay phải điểm luôn vào hai bên khoeo chân nàng, tiếp theo quất ngang một cái khiến nàng đau thấu xương, "A" lên một tiếng. Thiết trượng của y lại liên tiếp điểm vào giải khai huyệt đạo cho nàng, thủ pháp nhanh nhẹn thật không ngờ nổi. Mộc Uyển Thanh đứng bật lên, bực bội nói:
- Sao ông vô lễ thế.
Nàng vung tay lên toan bắn độc tiễn ra. Người áo xanh nói:
- Ngươi bắn ta một mũi tên, ta đánh cho một roi vào mông, bắn ta mười mũi tên, ta đánh cho mười roi, cứ thử thì biết.
Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Nếu ta bắn trúng y một mũi tên thì y đã chết đứ đừ rồi còn đâu, lấy gì mà đánh mình? Thế nhưng người này thần thông quảng đại, võ công còn cao hơn cả Nam Hải Ngạc Thần, xem ra bắn không trúng được y đâu. Người này nói là làm, để y đánh vào đít thì thật hỏng bét”.
Lại nghe y nói tiếp:
- Ngươi không dám bắn ta thì ngoan ngoãn nghe lời ta, không được trái lời.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Tôi không nghe lời ông đâu.
Nàng tuy nói thế nhưng tay đã buông cơ quan bắn tên trong tay áo ra. Người áo xanh dùng hai cây gậy sắt thay chân, chạy thẳng về phía trước. Mộc Uyển Thanh chạy theo sau thấy hai cây gậy đó đều dài bảy, tám thước, mỗi khi đi một bước bằng mấy bước người thường. Mộc Uyển Thanh đề khí chạy thật nhanh cố gắng lắm mới theo kịp. Người áo xanh lên non vượt ngàn thật chẳng khác gì đi trên đất bằng, nhưng lại không đi vào những noi có đường mòn sẵn, mà dù cho đất đá gai góc, chỉ điểm thiết trượng một cái là vượt qua ngay, khiến cho Mộc Uyển Thanh chạy theo quần áo bị gai xé rách từng mảng, nhưng nhất định không lên tiếng thở than tỏ ra kém thế.
Đi qua dăm ngọn núi nhìn thấy xa xa một khu rừng rậm tối mò. Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: “Đến Vạn Kiếp Cốc rồi” bèn lên tiếng hỏi:
- Mình đến Vạn Kiếp Cốc làm gì đây?
Người áo xanh quay đầu lại đột nhiên vung thiết trượng ra, nghe vút một cái đã đánh trúng ngay đùi nàng, nói:
- Ngươi có còn láu táu nữa thôi?
Cứ như tính tình Mộc Uyển Thanh thì dù nàng biết địch không lại cũng không đời nào chịu cho người ta ức hiếp như thế nhưng trong lúc này trong đáy lòng mơ hồ nẩy ra một tia hi vọng, bản lãnh người áo xanh kia cao cường như thế, biết đâu giúp được nàng đạt tâm nguyện thì sao, nên chỉ nói:
- Cô nương chẳng sợ gì nhà ngươi đâu, tạm nhường ngươi một bận.
Người áo xanh nói:
- Thôi đi!
Y không đi theo cái cửa hang nơi gốc cây mà đi vòng qua sườn núi ở bên cạnh sơn cốc, chạy về phía sau. Đường đi nước bước trong Vạn Kiếp Cốc y quen thuộc lắm, mấy lần Mộc Uyển Thanh định lên tiếng hỏi nhưng lại sợ y vung gậy đánh nên lời đến cửa miệng lại phải nhịn không nói ra. Chỉ thấy y quẹo trái quẹo phải, đi vào hậu sơn càng lúc càng xa. Khi Mộc Uyển Thanh đến Vạn Kiếp Cốc thăm sư thúc Cam Bảo Bảo đã ở đây mấy hôm bây giờ người áo xanh dẫn nàng đến những nơi nàng chưa từng đi qua bao giờ, đâu có ngờ trong Vạn Kiếp Cốc có những nơi hoang lương u tịch đến như thế.
Đi thêm mấy dặm lại đi vào trong một khu rừng rậm, toàn những cây cổ thụ cao vút, tuy ban ngày ban mặt ánh mặt trời sáng sủa mà vẫn tối mờ mờ như buổi chiều tà, càng vào sâu cây càng dày, đến sau phải nghiêng người mới len đi được. Đi thêm vài mươi trượng bỗng thấy những câu cổ thụ mọc thành một hàng dài trông như một bức tường cây, không còn làm sao qua được. Người áo xanh giơ gậy sắt tạt vào lưng Mộc Uyển Thanh hất một cái, người nàng bay vụt lên không, rơi ngay lên một tàn cây. Lại thấy người ấy cũng bay bổng lên, cầm thiết trượng điểm vào một cây to, thân hình bay lên nữa vượt qua luôn bức tường. Mộc Uyển Thanh đâu có tài ba như thế, đành phải trèo qua bám vào cành cây nhảy xuống.
Đằng trước mặt là một khoảng đất bằng, ngay chính giữa có một căn nhà đá. Thạch thất đó hình dáng lạ lùng, dùng toàn những tảng đá nặng hàng nghìn cân xếp chồng lên nhau, chỗ lồi chỗ lõm, đúng là một hòn núi nhỏ lộ ra một cái cửa trông như một cái hang. Người áo xanh quát lớn:
- Vào đi!
Mộc Uyển Thanh nhìn vào trong căn nhà đá thấy tối om không biết bên trong có cái quái quỉ gì làm sao dám ngang nhiên đi vào? Đột nhiên nàng thấy một bàn tay để lên lưng, vội tránh ra nhưng kình lực của người áo xanh đã đẩy nàng vào trong hang đá.
Nàng giơ tay trái lên bảo vệ thân mình, sử dụng chiêu Hiểu Phong Phất Liễu che trước mặt sợ từ trong hang có con quái vật gì xông ra, nghe thấy đằng sau một tiếng ầm lớn, cửa hang đã bị vật gì nặng chặn lại rồi. Nàng kinh hoảng, vội quay lại chỗ cửa cố sức đẩy thấy chỗ bàn tay chạm vào xù xì lạ thường, hóa ra đó là một phiến đá hoa cương lớn.
Nàng vận sức vào hai cánh tay, hết sức đẩy ra nhưng chẳng khác gì chuồn chuồn đẩy cột nhà, tảng đá không hề nhúc nhích. Mộc Uyển Thanh lớn tiếng gào:
- Này, ngươi nhốt ta ở đây làm gì đó?
Chỉ nghe tiếng người áo xanh vọng vào:
- Ngươi xin ta làm gì bộ quên rồi sao?
Thanh âm theo kẽ hở của khối đá truyền vào nghe rõ ràng như thường. Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại khối đá thấy bên trên thì sát trần nhà, hai bên tuy có khe hở nhưng chỗ thì vài tấc, chỗ độ một thước nhưng không cách nào đủ chỗ để chui qua được.
Mộc Uyển Thanh lại kêu lên:
- Thả tôi ra, thả tôi ra!
Bên ngoài không thấy tăm hơi gì, nàng theo khe cửa nhìn ra chỉ thấy người áo xanh đã nhảy vọt lên trông chẳng khác gì một con chim xanh đang bay vượt qua bức tường cây. Nàng quay trở lại giương to mắt thấy một góc nhà có bàn có giường, trên giường có một người ngồi đó. Nàng kinh hãi kêu lên:
- Ngươi ... ngươi ...
Người kia đứng lên, đi tới mấy bước kêu lên:
- Uyển muội, em cũng đến ư?
Trong giọng nói vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, chính là Đoàn Dự. Mộc Uyển Thanh trong cơn tuyệt vọng lại gặp được tình lang, vui mừng tưởng như trái tim ngừng đập, vội vàng nhào tới sà vào lòng chàng. Trong thạch thất ánh sáng yếu ớt, Đoàn Dự thấy nàng mặt tái nhợt, hai giòng lệ chảy dài trên má, trong lòng thật xót xa, giơ tay ôm chặt lấy nàng, thấy đôi môi nàng mấp máy, nhịn không nổi cúi xuống hôn một cái. Hai người vừa chạm vào nhau đột nhiên cùng nghĩ: “Mình là anh em ruột thịt, đâu có thế được”. Thân thể cùng giật một cái, lập tức buông nhau ra.
Hai người dựa lưng vào vách đá, ngơ ngẩn nhìn nhau, Mộc Uyển Thanh khóc òa lên. Đoàn Dự dịu dàng an ủi:
- Uyển muội, cái đó là trời đã an bài, em cũng đừng quá đau khổ. Anh nay được một cô em như thế này, thật vui mừng biết bao.
Mộc Uyển Thanh liên tiếp dậm chân, khóc nói:
- Em vẫn thấy đau khổ, em không thấy vui mừng. Chàng trong lòng vui mừng, chàng là kẻ vô lương tâm.
Đoàn Dự thở dài:
- Mình đâu có cách nào khác? Giá như anh không gặp em có phải hay biết bao nhiêu.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Cũng có phải em muốn gặp chàng đâu? Ai bảo anh đi kiếm em làm gì? Nếu khi đó anh không quay lại báo tin thì cùng lắm là chết trong tay người ta thôi. Anh làm chết con Hắc Mai Côi của em, làm cho lòng em biết bao đau đớn, làm cho sư phụ em biến thành mẹ ruột em, làm cho cha anh thành cha em, làm cho chính mình thành anh của em. Em không muốn thế, em nhất định không muốn thế. Anh làm em bị nhốt nơi đây, em muốn đi ra khỏi đây, ra khỏi đây ngay.
Đoàn Dự nói:
- Uyển muội, quả đúng là anh không ra gì. Em đừng giận nữa, chúng mình từ từ tìm cách trốn ra khỏi nơi đây.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Em không đi đâu hết, em chết ở trong này cũng thế mà chết ở ngoài kia cũng thế có khác gì đâu. Em không ra, nhất định không ra.
Nàng mới vừa gào lên: “Em muốn ra khỏi nơi đây” đến bây giờ lại đòi “em nhất định không ra”. Đoàn Dự biết nàng tâm tình khích động, không thể nào khuyên bảo gì đành ngồi im.
Mộc Uyển Thanh hờn giận thấy chàng không nói năng gì bèn hỏi:
- Sao anh không nói gì cả?
Đoàn Dự đáp:
- Thế em bảo anh nói gì đây?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Thì anh nói xem anh ở đây để làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Tên học trò anh bắt anh đưa đến đây ...
Mộc Uyển Thanh lạ lùng:
- Học trò anh?
Nàng lập tức nghĩ ra, tuy đang khóc không khỏi bật cười, nói:
- Đúng rồi, là Nam Hải Ngạc Thần. Y bắt anh đến nhốt tại đây ư?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế.
Mộc Uyển Thanh cười:
- Thế thì anh phải ra oai sư phụ, bảo hắn thả anh ra chứ.
Đoàn Dự đáp:
- Ta nói đâu phải chỉ một lần mà thôi, thế nhưng hắn nào có nghe, ngược lại còn nói là chỉ khi nào ta chịu lạy hắn làm thầy thì mới thả ta ra.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ, chắc là anh lên mặt không đúng cách.
Đoàn Dự thở dài:
- Chắc hẳn là thế. Uyển muội, còn cô bị ai bắt đến đây thế?
Mộc Uyển Thanh đem chuyện người áo xanh kể lại sơ qua nhưng chuyện chính mình muốn “anh trai biến thành chồng” không đề cập đến. Đoàn Dự nghe nói người này môi không động đậy mà lại nói bằng bụng, hai chân tàn phế mà chạy như bay, không khỏi thích thú, liên tiếp hỏi cho ra, tấm tắc khen là lạ lùng.
Hai người nói chuyện một lúc lâu, bỗng nghe bên ngoài nhà có tiếng lách cách, một cái bát theo khe hổng đưa vào, có tiếng nói:
- Ăn cơm này.
Đoàn Dự đưa tay đón lấy, thấy trong bát là thịt quay thơm phức, kế đến đưa thêm vào độ mươi cái bánh hấp. Chàng đem hết đồ ăn đặt trên bàn, hỏi nhỏ:
- Em liệu xem họ có bỏ thuốc độc trong thức ăn chăng?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Họ muốn giết mình thì dễ như chơi, việc gì phải hạ độc.
Đoàn Dự nghĩ quả thực không sai, bụng đang đói cồn cào liền nói:
- Thế thì ăn thôi.
Chàng đem bánh kẹp thịt quay vào giữa, đưa cho Mộc Uyển Thanh ăn trước rồi tới lượt mình. Người bên ngoài nói:
- Ăn xong đem bát bỏ ra ngoài sẽ có người đến lấy.
Nói rồi y đi mất. Mộc Uyển Thanh từ trong hang nhìn ra thấy gã kia trèo lên cây lên đến trên mới nhảy qua phía bên kia nghĩ thầm: “Người này thân thủ cũng thường thôi”. Nàng quay lại ngồi bên cạnh Đoàn Dự, hai người cùng ăn bánh với thịt quay. Đoàn Dự vừa ăn vừa nói:
- Em cũng đừng lo, bá phụ và gia gia thể nào cũng đến cứu mình ra. Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương bọn họ võ công tuy cao cường thật nhưng chưa chắc đã là địch thủ của cha mình. Còn nếu như bá phụ đích thân ra tay thật chẳng khác nào gió thổi lá rơi, sẽ đánh cho chúng một trận thất điên bát đảo.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ, ông ấy là hoàng đế Đại Lý, võ công được bao nhiêu? Em không tin là ông ấy đánh thắng được quái nhân áo xanh kia đâu. Chắc phải đem theo vài nghìn kỵ binh thiết giáp tấn công vào.
Đoàn Dự liên tiếp lắc đầu, nói:
- Không được, không được! Họ Đoàn chúng ta tổ tiên vốn là nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên, tuy ở Đại Lý làm vua một cõi nhưng quyết không quên qui củ võ lâm. Nếu như ỷ thế chèn ép người, lấy đông để thắng chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười họ Đoàn Đại Lý hay sao?
Mộc Uyển Thanh nói:
- Ồ, thì ra trong nhà anh tuy làm đến hoàng đế, vương gia nhưng vẫn không để mất thân phận anh hùng hảo hán.
Đoàn Dự nói:
- Bá phụ và gia gia vẫn thường nói rằng làm người không được quên nguồn cội.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:
- Sí, mồm thì nói nhân nghĩa đạo đức, đến việc thì lại đê tiện vô liêm sỉ. Cha anh đã có mẹ anh rồi, sao lại ... sao lại còn gian díu với sư phụ em?
Đoàn Dự chưng hửng nói:
- Hử, sao em dám nói nặng cha anh? Cha anh không phải là cha em sao? Hơn nữa, trên đời này vương công quí tộc, có người nào không có mấy vị phu nhân? Dẫu có tám người, mười người thì đã sao đâu.
Thời đó là đời Bắc Tống, miền bắc là Khiết Đan, giữa là Đại Tống, tây bắc là Tây Hạ, tây nam là Thổ Phồn, nam là Đại Lý. Trong năm nước các vương công ngoài chính thất ra ai ai cũng có cơ nhân thị thiếp, nhiều thì mấy chục người, ít cũng ba bốn, đến dưới một mức như hầu bá, quan to, cũng còn có vợ lẽ, nàng hầu. Từ xưa đến nay, đời nào cũng thế, người đời coi như đó là chuyện đương nhiên.
Mộc Uyển Thanh nghe thế, cơn giận bừng bừng nổi lên, bốp một tiếng giơ tay tát ngay trên má chàng khiến cho Đoàn Dự há hốc mồm, miếng bánh ăn dở còn cầm trên tay rơi bịch xuống đất. Chàng lắp bắp:
- Cô ... cô ...
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Em không gọi ông ấy là cha. Đàn ông lấy nhiều thê thiếp là người không có lương tâm. Người nào lòng nọ dạ kia là kẻ vô tình vô nghĩa.
Đoàn Dự xoa xoa chỗ má sưng, cười gượng:
- Ta là huynh trưởng của cô, cô là em gái của ta, phận là em không được vô lễ với anh như thế.
Mộc Uyển Thanh trong lòng uất ức chưa tan, giơ tay toan đánh nữa. Lần này Đoàn Dự đã đề phòng, chân liền bước ra sử dụng Lăng Ba Vi Bộ đã lòn ra sau lưng cô nàng. Mộc Uyển Thanh giơ tay đánh ngược trở về nhưng Đoàn Dự đã tránh được. Trong thạch thất chỉ chừng một trượng vuông nhưng Lăng Ba Vi Bộ quả thực thần diệu, Mộc Uyển Thanh xuất chưởng càng lúc càng nhanh nhưng không sao đánh trúng được chàng.
Mộc Uyển Thanh càng bực tức hơn, đột nhiên kêu lên “Ôi chao” một tiếng, làm như bị ngã, Đoàn Dự kinh hoảng nói:
- Sao thế?
Chàng vội cúi xuống đỡ lên. Mộc Uyển Thanh nằm thõng trong tay chàng đột nhiên tay trái vòng lên ôm lấy cổ, vít mạnh một cái, cười nói:
- Anh còn chạy nữa thôi?
Tay phải vung lên tát chàng một cái đích đáng. Đoàn Dự bị đau chỉ kêu được “A” một tiếng, bỗng thấy trong Đan Điền một luồng nhiệt khí bốc lên, chỉ giây lát huyết mạch bừng bừng, tình dục dâng lên như sóng biển, không sao kiềm chế được. Chàng thấy thiếu nữ đang nằm trong lòng mình thon thon xinh đẹp, hương thơm ngây ngất bốc lên, trong lòng đại loạn, liền ghé miệng hôn lên môi nàng.
Nụ hôn đó khiến cho Mộc Uyển Thanh người nhũn ra. Đoàn Dự bồng nàng lên để nằm trên giường, giơ tay cởi áo. Mộc Uyển Thanh nói nhỏ:
- Chàng ... chàng là anh trai của thiếp mà!
Thần trí Đoàn Dự tuy loạn nhưng câu nói đó thật chẳng khác nào một tiếng sét giữa ban ngày, ngơ ngẩn rồi vội vàng buông nàng ra, lùi lại mấy bước, xoạc chân giơ hay tay bốp bốp bốp bốp, tự đánh lên mặt mình bốn cái tát liền, chửi:
- Đáng chết thật, đáng chết thật.
Mộc Uyển Thanh thấy chàng hai mắt đỏ ngầu, phóng ra những tia sáng kỳ lạ, trên mặt bắp thịt giựt giựt liên tiếp, lỗ mũi phập phồng, kinh hoảng kêu lên:
- Chao ôi! Đoàn lang, trong thức ăn có độc, chúng mình bị trúng kế người ta rồi.
Đoàn Dự lúc ấy toàn thân nóng như sôi, chẳng khác nào bị người ta bỏ trong một cái lò hấp, nghe Mộc Uyển Thanh nói đồ ăn có độc, trong lòng lại thấy vui mừng: “Thì ra độc dược đó làm loạn bản tính mình, nên mới định làm trò loạn luân với Uyển muội, không phải mình uổng công đọc sách thánh hiền, đột nhiên táng tâm hóa điên hành động như loài cầm thú”.
Thế nhưng trong thân nóng dường như không chịu nổi, từng món từng món y phục cởi cả ra sau cùng chỉ còn một chiếc quần, một chiếc áo cánh, lúc ấy mới không cởi tiếp, ngồi xuống xếp bằng, mắt nhìn mũi, mũi tập trung vào tâm, hết sức khắc chế không để cho ý niệm loạn động. Chàng ăn phải Mãng Cổ Chu Cáp vốn dĩ vạn độc không thể nào xâm nhập, nhưng trong thịt quay lại trộn với những loại thuốc không làm hại tính mạng con người, mà chỉ là xuân dược kích phát tình dục mà thôi. Tình dục trai gái vốn là bản tính trời sinh, thuốc khích dâm này chẳng qua chỉ để thúc đẩy cái tính tự nhiên của con người khiến cho người uống phải thấy thèm khát không sao chế ngự nổi. Còn chất kịch độc của Mãng Cổ Chu Cáp là lấy độc công độc, có thể trừ mọi loại độc dược nhưng xuân dược lại không phải thuốc độc nên Mãng Cổ Chu Cáp không có tác dụng gì.
Mộc Uyển Thanh cũng thấy trong lòng bồn chồn nóng nảy, đến sau không chịu nổi bèn cởi áo ngoài ra. Đoàn Dự kêu lên:
- Em không được cởi thêm nữa, dựa lưng vào tường cho hạ bớt xuống.
Hai người cùng ngồi dựa lưng vào vách đá, sau lưng tuy mát, nhưng trong ngực bụng tứ chi, đầu cổ chỗ nào cũng nóng bừng bừng. Đoàn Dự thấy hai má Mộc Uyển Thanh đỏ au, trông thật kiều diễm đáng yêu, đôi mắt long lanh hiển nhiên chỉ muốn nhảy vào lòng mình. Chàng nghĩ thầm: “Lúc này hai người mình quyết tâm chống lại dược tính nhưng sức người có hạn, nếu như mình giở trò loạn luân thì thanh danh họ Đoàn vứt đi hết, dù chết trăm lần cũng không chuộc được tội lỗi”. Chàng bèn nói:
- Em cho anh một mũi độc tiễn.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Để làm gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Ta ... ta nếu như không chống nổi với sức thuốc, thì một mũi tên tự kết liễu đời mình, khỏi làm hại đời em.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Em không cho anh đâu.
Hai người có biết đâu thuốc độc trên mũi tên không làm hại được chàng. Đoàn Dự nói:
- Em hãy bằng lòng làm cho anh một việc.
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Việc gì?
Đoàn Dự nói:
- Nếu như ta giơ tay ra đụng đến người cô thì cô bắn ta một mũi tên cho chết liền.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Em không bằng lòng đâu.
Đoàn Dự nói:
- Anh van em, bằng lòng đi. Thanh danh của họ Đoàn nước Đại Lý mấy trăm năm nay, không thể để hỏng trong tay anh. Nếu không khi anh chết đi rồi còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ liệt tông?
Bỗng nghe từ ngoài thạch thất một giọng nói truyền vào:
- Họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ có ra gì đâu, đến tay Đoàn Chính Minh, miệng nói nhân nghĩa đạo đức, nhưng trong lòng thì khác nào lang sói, có còn gì mà bảo là thanh danh?
Đoàn Dự nổi giận đáp:
- Ngươi là ai? Sao dám nói lếu láo.
Mộc Uyển Thanh nói nhỏ:
- Y chính là thanh bào quái nhân.
Chỉ nghe người áo xanh kia nói:
- Mộc cô nương, ta làm cho nàng rồi đó, biến ông anh trai thành đức ông chồng, việc cô đã nhờ đến ta là phải xong.
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Ngươi hạ độc hại người, nào có liên quan gì đến việc ta nhờ cậy ngươi?
Người áo xanh nói:
- Trong bát thịt quay kia, ta đã trộn khá nhiều Âm Dương Hòa Hợp Tán, ai ăn phải rồi, nếu như không điều hòa âm dương, trai gái thành vợ thành chồng thì da thịt sẽ nứt ra, thất khổng ứa máu mà chết. Dược tính của hòa hợp tán kia, càng ngày càng ghê gớm, đến ngày thứ tám thì dù có là Đại La thiên tiên cũng không chịu nổi.
Đoàn Dự giận đữ nói:
- Ta với ngươi không thù không oán, sao lại dùng kế độc ác như thế để hại ta? Ngươi muốn ta sau này không còn mặt mũi nào nhìn ai, để bá phụ và phụ mẫu ta suốt đời nhục nhã, ta ... ta thà chết trăm lần, nhưng nhất quyết không làm trò loạn luân vô sỉ.
Người áo xanh nói:
- Ta với ngươi không oán không thù thật nhưng ta với bá phụ ngươi thì thù sâu như bể. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần hai tên tiểu tử đó suốt đời nhục nhã không còn dám nhìn mặt ai thì thật tốt quá rồi còn gì. Hay lắm, hay lắm! Ha ha! Ha ha!
Miệng y không cử động được, giọng cười từ cổ họng thoát ra thật là cổ quái khó nghe.
Đoàn Dự còn đang toan cãi tiếp, liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh mặt như đóa hải đường mùa xuân mơn mởn, thân hình chẳng khác gì bông phù dung hé nhụy, tim đập thình thình, đến như chính mình cũng nghe được, đầu óc mơ hồ nghĩ thầm: “Uyển muội và ta vốn có ước định hôn nhân, nếu như không về Đại Lý, thì có ai biết đâu hai đứa lại là anh em cùng chung một bọc? Oan nghiệt kia đúng là trời xui đất khiến đời trước kết thành, với mình có liên quan gì đâu”.
Chàng nghĩ đến đó, chập choạng đứng lên, thấy Mộc Uyển Thanh cũng tựa tay vào tường, đang chầm chậm trỗi dậy, đột nhiên trong lòng như một ánh chớp lóe lên: “Không được, không được! Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, cái khác biệt giữa con người và cầm thú chỉ là một ý niệm mà thôi, nếu hôm nay ngươi sẩy chân rồi, không phải chỉ mình thân bại danh liệt, mà cả bá phụ và cha mẹ ngươi cũng bị vạ lây”.
Chàng bèn quát lớn:
- Uyển muội, ta là anh trai của nàng, cô là em gái của ta, biết chứ? Cô có biết Kinh Dịch không nào?
Mộc Uyển Thanh đang cơn mơ mơ màng màng, đột nhiên nghe chàng hỏi, liền đáp:
- Cái gì Dịch Kinh? Em không biết.
Đoàn Dự nói:
- Được, để ta dạy cho cô. Học Dịch Kinh rất là khó khăn, cô phải lắng tai nghe cho kỹ.
Mộc Uyển Thanh lạ lùng hỏi lại:
- Em học để làm gì?
Đoàn Dự đáp:
- Cô cứ học đi mai này có nhiều ích lợi lắm. Không chừng mình nhờ đó mà thoát được cảnh ngộ khó khăn.
Chàng biết rằng dục niệm của mình đang sôi sục, giữa người với thú chỉ là nghìn cân treo trên sợi tóc, nếu như Mộc Uyển Thanh sà vào lòng mình khêu gợi thì bờ đê chống giữ thể nào cũng lở nên chỉ có cách dạy cho nàng kinh Dịch, một người dạy, một người học, hai người chuyên chú, không nghĩ gì đến việc gái trai. Chàng nói:
- Cơ bản của Dịch Kinh là từ thái cực. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Em có biết hình vẽ bát quái như thế nào không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Không biết, nghe chán quá mất thôi. Đoàn lang, chàng lại đây, em có chuyện muốn nói với chàng.
Đoàn Dự đáp:
- Ta là anh trai của cô, không được gọi ta là Đoàn lang mà phải gọi là đại ca. Để ta đọc ca quyết đồ hình bát quái cho cô nghe, cô cố mà ghi nhớ.
Quẻ Càn ba vạch liền ngang,
Quẻ Khôn đứt đoạn ba hàng sáu que.
Quẻ Chấn chén ngửa giống ghê,
Quẻ Cấn bát úp chớ hề nhớ sai.
Quẻ Ly ở giữa đứt đôi,
Quẻ Khảm chính giữa là nơi vạch liền.
Quẻ Đoài chia hai bên trên,
Quẻ Tốn dưới đứt còn nguyên phía ngoài.
Mộc Uyển Thanh theo đúng thế đọc lại một lượt, hỏi:
- Chén uống nước với bát ăn cơm là cái gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Đó là nói về hình dáng của quẻ. Còn như nghĩa lý bên trong bát quái, trời đất vạn vật cái gì cũng bao trùm cả, chẳng hạn như trong một nhà, Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là con trai lớn, Tốn là con gái lớn ... hai đứa mình là anh em, ta là quẻ Chấn, còn cô là quẻ Tốn.
Mộc Uyển Thanh lại nhơn nhơn nói:
- Không phải, chàng là quẻ Càn, thiếp là quẻ Khôn, hai ngưới kết thành vợ chồng, sinh con đẻ cái, mới sinh ra quẻ Chấn, quẻ Tốn chứ ...
Đoàn Dự nghe nàng ăn nói lả lơi, không khỏi động lòng, kinh hãi nói:
- Cô chớ nên suy nghĩ lăng nhăng, nghe tiếp ta nói đây.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Chàng ... chàng ngồi cạnh bên em, em sẽ nghe chàng nói.
Chỉ nghe người áo xanh từ bên ngoài nói vọng vào:
- Hay lắm, hay lắm! Hai đứa ngươi thành đôi lứa rồi, sinh ra con cái lúc ấy ta sẽ thả cho ra. Ta sẽ không giết hai đứa bay mà lại truyền cho hai người một thân võ công để hai vợ chồng dọc ngang thiên hạ.
Đoàn Dự giận dữ đáp:
- Nếu đối đế lắm ta sẽ đập đầu vào tường mà chết, con cháu họ Đoàn Đại Lý, thà chết chứ không chịu nhục, ngươi mong dùng ta để báo thù thì đừng hòng.
Người áo xanh đáp:
- Ngươi chết hay sống thì ta cũng chẳng cần. Nếu hai đứa ngươi tìm đường chết, ta sẽ lột sạch quần áo không còn một mảnh vải che thân, viết rõ là cháu trai và cháu gái của Đoàn Chính Minh, con trai và con gái Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý, hai đứa thông gian bị người ta bắt được nên xấu hổ tự sát. Ta sẽ đem xác hai đứa bay ra ướp muối, treo nơi thành Đại Lý ba ngày, sau đó đem đi Biện Lương, Lạc Dương, Lâm An, Quảng Châu các nơi cho mọi người đều biết.
Đoàn Dự giận quá, lớn tiếng quát:
- Họ Đoàn chúng ta có tội tình gì với ngươi mà ngươi trả thù độc ác đến thế?
Người áo xanh đáp:
- Việc của ta nói với bọn trẻ con chúng bay làm gì?
Đến đây không còn nghe gì thêm nữa. Đoàn Dự biết rằng còn nói chuyện với Mộc Uyển Thanh câu nào thì chỉ càng thêm nguy hiểm, ngồi quay vào vách ôn lại Lăng Ba Vi Bộ từng bước từng bước những chỗ phức tạp, mơ mơ màng màng hồi lâu đột nhiên nghĩ tới: “Thần tiên tỉ tỉ trong hang núi kia so với Uyển muội xinh đẹp gấp mười lần, nếu ta có lấy vợ, phải lấy được người như thần tiên tỉ tỉ mới khỏi uổng đời”. Trong cơn mê man Đoàn Dự quay đầu lại, thấy dung nhan trang sức của Mộc Uyển Thanh từ từ biến thành ngọc tượng trong thạch động, kêu lên:
- Thần tiên tỉ tỉ, ta thật khổ, nàng cứu ta với.
Chàng quì gục xuống đất, ôm chặt lấy chân Mộc Uyển Thanh. Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người gọi:
- Cơm chiều đây.
Y đưa vào khe hở một ngọn nến đỏ cười nói:
- Mau cầm lấy, đêm động phòng phải có hoa chúc chứ!
Đoàn Dự kinh hãi đứng phắt dậy, dưới ánh nến thấy Mộc Uyển Thanh sóng mắt đưa tình, xinh đẹp không sao tả hết. Chàng liền thổi tắt phụp ngọn nến quát lên:
- Trong cơm có chất độc, mau đem đi. Bọn ta không ăn đâu.
Người kia cười nói:
- Ngươi vốn trúng độc rồi, phân lượng đã đủ, cần gì phải thêm.
Y nói rồi đẩy cơm và đồ ăn vào. Đoàn Dự ngơ ngẩn cầm lấy đặt lên bàn, nghĩ thầm: “Người ta chết đi rồi muôn việc đều xong, chuyện thị phi trên đời còn nghĩ tới làm gì?” Nhưng chàng chợt nghĩ lại: “Cha mẹ và bá phụ cưng chiều ta biết là nhường nào, làm sao lại để cho họ Đoàn bị người đời cười chê cho được?”.
Đột nhiên Mộc Uyển Thanh nói:
- Đoàn lang, thiếp muốn dùng tên độc tự sát để khỏi làm hại đến chàng.
Đoàn Dự kêu lên:
- Khoan đã! Dẫu cho hai anh em mình cùng chết, tên vạn ác chi đồ kia cũng không buông tha. Người này âm hiểm độc địa, so với Diệp Nhị Nương giết trẻ con, Nam Hải Ngạc Thần vặn cổ người còn tệ hơn nhiều, không biết y là ai?
Chỉ nghe tiếng người áo xanh ở ngoài truyền vào:
- Tiểu tử quả có đôi chút hiểu biết. Lão phu chính là Ác Quán Mãn Doanh đứng đầu trong Tứ Đại Ác Nhân đây!


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:08 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Sơn lâm uy chấn cõi ngoài,
Cung đình vương giả tranh tài hơn thua.
Hổ gầm tiếng vọng canh khuya,
Rồng thiêng giương vuốt dễ đùa được sao?
*
* *

Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái quay về noãn các trong phủ Trấn Nam Vương báo cáo, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tần Hồng Miên đi đã xa. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng lo cho đứa con yêu liền hỏi:
- Tâu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở đâu hoàng thượng đã biết chưa?
Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp:
- Cái tên Vạn Kiếp Cốc hôm nay ta nghe đến mới là lần đầu, nhưng chắc cũng không xa thành Đại Lý bao nhiêu.
Đao Bạch Phượng vội vàng nói:
- Nghe như Chung Vạn Cừu nói thì địa phương này rất là kín đáo, e rằng tìm được không phải dễ. Dự nhi nếu lọt vào tay kẻ địch lâu ngày ...
Bảo Định Đế mỉm cười nói:
- Dự nhi được nuông chiều đã quen không hiểu cái hiểm ác của người đời, nếu trải qua một ít gian nan, có dịp giũa mài, biết đâu lại chẳng có ích cho nó.
Đao Bạch Phượng trong bụng nóng như lửa đốt nhưng không dám nhiều lời. Bảo Định Đế quay sang Đoàn Chính Thuần:
- Thuần đệ, mau bày rượu thịt ra đây khao thưởng mọi người một phen khổ sở.
Đoàn Chính Thuần đáp:
- Vâng!
Ông quay ra dặn dò, chỉ giây lát đã mang lên đủ mọi loại sơn trân hải vị. Bảo Định Đế ra lệnh cho tất cả mọi người cùng ngồi vào ăn uống chung.
Đại Lý là một nước nhỏ ở tận cùng phương nam, trong nước có rất nhiều sắc dân, người Hán chẳng có mấy, Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng là người Bãi Di, dân chúng chưa ảnh hưởng văn hóa Trung Nguyên bao nhiêu, triều nghi lễ pháp so với Đại Tống thì giản dị hơn nhiều. Bảo Định Đế tính tình từ hòa, trừ khi ở trong triều đình ra ngoài thường không thích đa lễ thành ra vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đều ngồi ở hạ thủ để bồi tiếp.
Trong khi ăn uống, Bảo Định Đế tuyệt nhiên không đề cập gì đến mọi chuyện, Đao Bạch Phượng lông mày nhíu lại, ăn chẳng thấy ngon. Đến khi trời sáng, thị vệ ngoài cửa vào bẩm:
- Ba Tư Không tham kiến hoàng thượng.
Đoàn Chính Minh nói:
- Cho vào!
Rèm cửa vén lên, một người da đen nhẻm, vừa thấp bé vừa gầy guộc bước vào, khom lưng hành lễ với Bảo Định Đế, nói:
- Khải tấu hoàng thượng, Vạn Kiếp Cốc ở bên kia Thiện Nhân Độ, qua chiếc cầu treo là tới, cửa vào là một cái hốc ở một cây cổ thụ.
Đao Bạch Phượng vỗ tay reo lên:
- Ba Tư Không ra tay thì lẽ nào lại tìm không ra sào huyệt của địch? Nếu sớm biết thế ta đã không phải lo cả đêm.
Người da đen kia hơi cúi mình nói:
- Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này không dám nhận.
Ba Thiên Thạch tuy hình dáng khó coi nhưng là một nhân vật cực kỳ tinh minh mẫn cán, lập được nhiều công lao hiện đang làm quan Tư Không ở Đại Lý. Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không là Tam Công rất tôn vinh trong triều đình. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, có sở trường về khinh công, được Bảo Định Đế sai đi dò thám nơi chốn của kẻ địch, y bí mật theo dõi Chung Vạn Cừu, quả nhiên tìm ra được Vạn Kiếp Cốc.
Bảo Định Đế mỉm cười:
- Thiên Thạch, ngươi ngồi xuống ăn cho no rồi mình cùng lên đường.
Ba Thiên Thạch biết hoàng thượng không muốn người khác quỳ lạy, đối với bầy tôi chẳng khác gì anh em bạn bè, nếu người dưới quá ư cung kính, ông lại không vui, nên lập tức vâng một tiếng, bưng bát lên ăn ngay. Y không uống một giọt rượu nhưng ăn rất khỏe, chỉ chốc lát đã ăn hết tám bát cơm đầy. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái biết y đã lâu nên không lấy gì đáng ngạc nhiên.
Ba Thiên Thạch ăn xong, đứng dậy, giơ tay áo chùi mồm, nói:
- Thần Ba Thiên Thạch dẫn đường.
Nói xong y liền đi trước. Bảo Định Đế, vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái một dọc đi theo. Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thấy Chử Cổ Phó Chu Tứ Đại Vệ Hộ đã dắt ngựa đứng chờ sẵn cùng mấy chục người tùy tùng mang binh khí cho Bảo Định Đế đứng phía sau.
Họ Đoàn là thế gia võ lâm Trung Nguyên chiếm được Đại Lý, mấy trăm năm nay vẫn không quên phong cách của ông cha. Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần tuy phú quí đến cực điểm nhưng vẫn thường ăn mặc như dân dã ra ngoài du ngoạn, gặp người trong võ lâm đến thăm viếng báo thù đều theo qui củ giang hồ mà tiếp đãi chứ không dùng nghi vệ hoàng đế. Cho nên lần này Bảo Định Đế ngự giá thân chinh, những người đi theo đều đã quen không ai lạ lùng gì. Từ Bảo Định Đế đổ xuống, ai nấy thay đồ thường phục, nếu không quen biết thì chỉ tưởng là một nhà phú hộ nào đó ra ngoài du ngoạn mà thôi.
Đao Bạch Phượng thấy trong đám tùy tòng của Ba Thiên Thạch có đến hai chục người mang theo búa lớn cưa dài, cười hỏi:
- Ba Tư Không, mình mang theo thợ mộc để cất nhà hay sao?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Đễ cưa cây phá nhà.
Những con ngựa cưỡi toàn là tuấn mã, chạy như bay, chưa đến giờ ngọ đã đến khu rừng bên ngoài Vạn Kiếp Cốc. Ba Thiên Thạch chỉ huy bộ thuộc chặt hết những cây to chắn đường. Đến cốc khẩu, Bảo Định Đế chỉ vào tấm biển sơn “Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” trên cây, cười nói:
- Chủ nhân của Vạn Kiếp Cốc này thù mình quá đỗi.
Đoàn Chính Thuần biết Chung Vạn Cừu sợ mình vào Vạn Kiếp Cốc thăm Cam Bảo Bảo, liếc mắt nhìn vợ, thấy bà ta cười khẩy.
Bốn người liền vác đại phủ tiến tới, chỉ chốc lát đã chặt ngã cái cây chu vi mấy người ôm kia. Ba Thiên Thạch dặn mọi người dắt ngựa đứng chờ ngoài cốc khẩu. Chử, Cổ, Phó, Chu Tứ Đại Vệ Hộ liền đi trước, kế đó là Ba Thiên Thạch và Cao Thăng Thái, sau đó là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Định Đế đi sau cùng. Vào trong Vạn Kiếp Cốc rồi, thấy bốn bề vắng lặng không một ai ra nghinh đón. Ba Thiên Thạch theo qui củ giang hồ, tay cầm danh thiếp hai anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, hăng hái tiến đến trước căn nhà, lớn tiếng nói:
- Anh em họ Đoàn nước Đại Lý đến xin được gặp Chung cốc chủ.
Nói chưa dứt câu, trong tùm cây phía trái đột nhiên nhảy xổ ra một người cao gầy, nhanh nhẹn lạ thường giơ tay chộp danh thiếp trên tay Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch lách qua ba bước, quát lên:
- Tôn giá là ai?
Người đó chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Y chộp không trúng nhưng không bỏ cuộc lại xông về hướng Ba Thiên Thạch lần nữa. Ba Thiên Thạch thấy y lanh lẹ dị thường nên định bụng sẽ so tài khinh công lập tức chạy tới ba bước, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo ba bước. Ba Thiên Thạch liền co giò chạy, Vân Trung Hạc cũng đuổi theo sau.
Một người cao, một người thấp chỉ chốc lát đã chạy quanh nhà ba vòng. Bước chân của Vân Trung Hạc rất xa, còn Ba Thiên Thạch lúc nhảy lúc chạy, nhún lên hụp xuống so với đối phương còn nhanh hơn nhiều, thành thử hai người lúc nào cũng cách nhau mấy thước. Vân Trung Hạc dĩ nhiên đuổi không kịp nhưng Ba Thiên Thạch thì chạy cũng không thoát. Hai người trước nay ai cũng cho rằng mình khinh công thiên hạ không ai bằng, bây giờ gặp được kình địch, trong bụng đều kinh hãi thầm. Hai người càng chạy càng nhanh, gió thốc vào quần áo nghe phần phật, tuy chỉ có hai người chạy đua nhưng ở bên ngoài nhìn vào tưởng chừng năm sáu người cùng đuổi theo nhau.
Càng về sau khoảng cách hai người càng xa, biến thành chạy vòng quanh nhà, không biết là Vân Trung Hạc đuổi theo Ba Thiên Thạch hay là Ba Thiên Thạch đuổi theo Vân Trung Hạc. Nếu Ba Thiên Thạch đuổi đến sau lưng Vân Trung Hạc thì cuộc tỉ thí khinh công này y đã thắng. Thế nhưng Vân Trung Hạc cũng hết sức chạy cho nhanh thành ra Ba Thiên Thạch lại xa y đến mấy trượng.
Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu từ trong nhà bước ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng chân, ám vận nội kình, tay phải liệng một cái, tờ danh thiếp tà tà bay về phía Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu đưa tay đón lấy, giận dữ nói:
- Họ Đoàn kia, nếu như ngươi theo qui củ giang hồ đến bái sơn, sao lại hủy mất cửa vào sơn cốc của ta?
Chử Vạn Lý quát lớn:
- Hoàng thượng là bậc chí tôn, không lẽ chui vào cái hang chuột của nhà ngươi sao?
Đao Bạch Phượng khắc khoải lo cho con, nhịn không nổi lên tiếng hỏi:
- Con ta đâu? Các ngươi dấu nó ở chỗ nào?
Từ trong nhà nhảy ra một người đàn bà, giọng rít lên:
- Ngươi đến chậm một bước. Tiểu tử họ Đoàn bọn ta đã băm vằm mổ xẻ vứt cho chó ăn rồi.
Mụ ta hai tay cầm hai thanh đao, lưỡi đao mỏng như lá liễu, lấp lánh màu xanh, chính là Tu La Đao tẩm thuốc độc dính máu là chết. Hai người đàn bà này mười tám năm trước vì ghen mà thành ghét thù nhau cực sâu xa. Đao Bạch Phượng cũng biết lời của Tần Hồng Miên không phải thực nhưng nghe mụ ta rủa đứa con yêu của mình như thế, chuyện cũ chưa qua, chuyện mới đã tới cơn giận bùng lên, lạnh lùng nói:
- Ta hỏi là hỏi Chung cốc chủ, ai thèm nói chuyện với thứ đàn bà hư thân mất nết như ngươi cho bẩn mồm.
Chỉ nghe hai tiếng leng keng, song đao của Tần Hồng Miên nhắm ngay Đao Bạch Phượng cùng chém ra nhanh như gió cuốn. Đòn Thập Tự Khảm là tuyệt kỹ thành danh của bà ta, không biết bao nhiêu giang hồ hảo hán bỏ mạng vì độc chiêu Tu La Đao này, Đao Bạch Phượng vung phất trần lên gạt, thân hình nhích ra cán phất trần điểm luôn vào sau lưng kẻ địch.
Đoàn Chính Thuần thật xấu hổ, một người là vợ yêu, một người là tình cũ, với Đao Bạch Phượng thật là sâu đậm, còn đối với Tần Hồng Miên thì cũng khó quên, nay thấy hai người vừa ra tay đã dùng ngay sát thủ, quyết sống mái, dù ai bị thương thì ông cũng một đời mang hận, bèn quát lên:
- Khoan hãy động thủ.
Ông nghiêng người tiến tới, rút phắt trường kiếm toan gạt binh khí của hai người ra.
Chung Vạn Cừu vừa nhìn thấy Đoàn Chính Thuần thì đã điên tiết, loảng xoảng một tiếng, rút ngay Đại Hoàn Đao vung lên chém xuống đầu tình địch. Chử Vạn Lý nói:
- Không cần vương gia phải ra tay, để tiểu nhân thanh toán y được rồi.
Chiếc cần sắt của y vung ra, quật xuống đầu Chung Vạn Cừu. Chiếc cần của y vốn đã bị Diệp Nhị Nương bẻ gãy rồi, đây là chiếc mới y vừa đúc. Chung Vạn Cừu chửi:
- Ta biết ngay họ Đoàn nhà chúng bay chỉ giỏi tài lấy thịt đè người.
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Vạn Lý lui ra, ta đang muốn xem võ công Chung cốc chủ đến cỡ nào.
Ông giơ kiếm lên, gạt chiếc cần sắt của Chử Vạn Lý ra, thuận thế phất xuống sống thanh Đại Hoàn Đao rồi hớt lên mấy ngón tay Chung Vạn Cừu. Ba thức gạt ra, phất xuống rồi hớt lên liền lạc với nhau không cần khoảng cách nào để biến chiêu khiến Chung Vạn Cừu kinh hãi nghĩ thầm: “Tên giặc họ Đoàn này kiếm pháp ghê gớm thật”. Y vội vàng nén cơn giận, vung ngang thanh đao bảo vệ trước ngực, không dám coi thường cường địch chút nào.
Đoàn Chính Thuần giơ kiếm lên đâm tới, Chung Vạn Cừu thấy thế kiếm lợi hại, không dám đỡ vội vàng nhảy lùi lại ba bước. Đoàn Chính Thuần chỉ mong y không dám đấu dây dưa, lập tức vọt qua chỗ Đao Bạch Phượng và Tần Hồng Miên, thấy đao pháp Tần Hồng Miên xem ra núng thế bị Đao Bạch Phượng từng bước ép phải lùi. Bỗng nghe soẹt soẹt soẹt ba tiếng, Tần Hồng Miên đã bắn ra ba mũi tên độc, những mũi tên đó cùng một hình dạng với độc tiễn của Mộc Uyển Thanh nhưng thủ pháp cao minh hơn nhiều, chia ra trái phải giữa khiến đối phương khó mà tránh né.
Đao Bạch Phượng tung mình nhảy lên cao, ba mũi tên bay vọt dưới chân, ngờ đâu khi thân hình bà ta còn đang lơ lửng trên không, lại có ba mũi tên khác bắn tới. Mũi tên thứ nhất bắn vào dưới bụng, mũi tên thứ hai bắn vào chân còn mũi tên thứ ba bắn vào dưới bàn chân. Đao Bạch Phượng không còn cách nào nhảy lên được nữa, vội vung phất trần ra đỡ, cuốn được mũi tên thứ nhất, thân hình liền rơi xuống, xem ra mũi tên thứ hai và thứ ba bắn vào bụng và ngực không sao có thể tránh né hay đỡ gạt. Đột nhiên một lằn ánh sáng lấp lánh, một thanh trường kiếm từ dưới gạt lên, chặt hai mũi tên đó thành bốn mảnh chính là Đoàn Chính Thuần nhảy tới chặn ngay trước mặt Đao Bạch Phượng,. Ví thử ông ta ra chiêu kém chính xác không chém đứt được hai mũi tên thì những mũi tên đó đã ghim vào người ông ta rồi.
Biến cố đó khiền cả Đao Bạch Phượng lẫn Tần Hồng Miên đều mặt xanh như tàu lá, tim đập thình thình. Đao Bạch Phượng kêu lên:
- Tôi không cần ông phải giúp tôi.
Bà lạng người vọt ra trước mặt trượng phu, múa phất trần đánh với Tần Hồng Miên lần nữa. Bà hận Tần Hồng Miên ra tay độc ác, chiêu số phất trần thật nhanh, quét xéo đâm thẳng, khiến đối phương không hở tay để có dịp bắn tên độc. Còn Tần Hồng Miên mới rồi bắn tên suýt nữa thì trúng phải Đoàn Chính Thuần, thấy ông ta liều mạng ra tay cứu vợ, thiên vị quá đỗi, vừa hoảng hốt lại vừa đau lòng thành thử không chống đỡ nổi phất trần của đối phương.
Đao Bạch Phượng sử dụng chiêu Phượng Thê Ư Ngô đánh thẳng xuống đầu kẻ địch, Tần Hồng Miên vội tránh qua bên phải ngờ đâu tả chưởng của Đao Bạch Phượng cùng đánh ra, xem chừng sẽ trúng ngực Tần Hồng Miên thể nào cũng phải hộc máu. Bàn tay còn cách ngực Tần Hồng Miên chừng nửa thước ngờ đâu có một bàn tay đàn ông gạt ra ngoài, chính là Đoàn Chính Thuần cứu người tình cũ, nói:
- Phượng Hoàng Nhi, chớ có như thế.
Tần Hồng Miên ngỡ ngàng, giận dữ nói:
- Cái gì mà phượng với chả công, gọi nhau thân mật nhỉ?
Đao bên trái của bà ta liền chém xuống vai Đoàn Chính Thuần. Đao Bạch Phượng cũng đang bực chồng ra tay cứu tình nhân, gạt tay mình ra nên cũng múa phất trần đánh luôn vào mặt ông ta.
Hai người đàn bà cùng tấn công Đoàn Chính Thuần nhưng lại cũng cùng thấy đối phương ra tay nên cùng kêu lên:
- Ối chao!
Ai cũng muốn ra tay bảo vệ cho lang quân. Phất trần của Đao Bạch Phượng chuyển hướng quay sang gạt thanh Tu La Đao, còn Tần Hồng Miên thì phóng một ngọn cước vào người Đao Bạch Phượng cốt để bà ta rút phất trần về.
Đoàn Chính Thuần nghiêng người né tránh, nghe bình một tiếng, cước của Tần Hồng Miên đã đá trúng mông ông ta. Đao Bạch Phượng hậm hực quát lên:
- Sao ngươi dám đá chồng ta?
Tần Hồng Miên nói:
- Đoàn lang, thiếp không cố ý, chàng ... chàng có đau không?
Đoàn Chính Thuần giả vờ nhăn nhó, kêu lên:
- Đau quá, đau quá, đau đến chết mất.
Nói xong giả vờ ngồi thụp xuống. Chung Vạn Cừu thấy cơ hội, giơ đao lên chém xuống đầu Đoàn Chính Thuần, Đao Bạch Phượng kêu lên:
- Ngừng tay!
Tần Hồng Miên cũng kêu lên:
- Đánh hắn.
Cả Tu La Đao lẫn phất trần cùng quay sang tấn công Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu đành phải thu đao hộ thân, kêu lên:
- Tên giặc thối tha họ Đoàn kia, cái đồ mặt thớt phải để cho đàn bà ra tay cứu, còn gì là hảo hán?
Đoàn Chính Thuần cười ha hả, từ đất nhảy lên, soẹt soẹt soẹt ba chiêu kiếm ép cho Chung Vạn Cừu phải lùi lại. Tần Hồng Miên ngạc nhiên giận dữ nói:
- Hóa ra ông không bị thương, chỉ giả vờ.
Đao Bạch Phượng cũng tiếp lời:
- Cái đồ này chỉ chuyên đi lừa người ta, còn ai mà chẳng biết.
Tần Hồng Miên quát lớn:
- Xem đao đây.
Đao Bạch Phượng cũng kêu:
- Đánh cho lão một trận.
Thế là hai người đàn bà liền liên thủ xông vào tấn công Đoàn Chính Thuần. Bảo Định Đế thấy em trai dây dưa mãi với hai người đàn bà, lắc đầu cười thầm, quay sang nói với Chử Vạn Lý:
- Các ngươi đi tra xét xem sao.
Chử Vạn Lý đáp:
- Tuân lệnh.
Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người liền chạy đến cửa vào nhà, Cổ Đốc Thành chân vừa đạp vào ngạch cửa đột nhiên cảm thấy gió lạnh trên đầu ập xuống. Chân trái y mới để hờ lên thềm, chân phải vội búng một cái lập tức nhảy vọt trở ra, thấy một thanh đao vừa rộng vừa mỏng chém vụt xuống, chỉ cách mặt chừng vài tấc, nếu như chậm một chút dù đầu không bị xẻ làm đôi, thì ít ra cũng vẹt mất mũi. Cổ Đốc Thành lưng toát mồ hôi lạnh, nhìn lại người vừa ra tay ám toán mình là một thiếu phụ trung niên, mặt mũi xinh xắn, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Thanh bạc đao của bà ta hình vuông, mỏng dính, bốn bề đều sắc, tay cầm chỉ là một cái cán ngắn, vừa múa lên đã thành một vòng tròn sáng choang.
Cổ Đốc Thành sau cơn hoảng vía định thần lại, quát lên một tiếng vung búa lên chém xuống thanh bạc đao, Diệp Nhị Nương vội vàng múa tít không để cho chạm vào món binh khí nặng nề ấy. Cổ Đốc Thành sử dụng bảy mươi hai đường Loạn Phi Phong phủ pháp, hai búa hai nơi chém trên chém dưới.
Diệp Nhị Nương giở trò pháp thuật miệng lẩm bẩm mấy câu thần chú. Chu Đan Thần thấy mụ ta đánh như trò chơi nhưng đao pháp thật là ngụy bí khó mà lường được sợ rằng để lâu, Cổ Đốc Thành sẽ không chống nổi bèn múa phán quan song bút xông vào tiếp tay.
Lúc đó Ba Thiên Thạch và Vân Trung Hạc hai người vẫn đang đuổi nhau, hai người khinh công hơn kém ai cũng biết rằng không phải chỉ một lúc mà biết được. Ba Thiên Thạch chạy được trên trăm vòng rồi, thấy Vân Trung Hạc công phu hạ bàn nhẹ nhàng có thừa nhưng không đủ vững chãi, không được như mình mỗi lần nhún chân đều còn để lại dư lực phòng hờ chỉ cần đứng lại tấn công y ba chưởng là y sẽ chịu không nổi. Thế nhưng Ba Thiên Thạch nhất định muốn cùng y tỉ thí khinh công xem ai hơn, không muốn dùng quyền cước mà thủ thắng nên cứ tiếp tục chạy vèo vèo.
Bỗng nghe tiếng người ồm ồm chửi:
- Tiên sư mẹ chúng mày làm bố mất ngủ, đứa chó nào tới đây phá rối thế?
Nam Hải Ngạc Thần tay cầm ngạc chủy tiễn ở đâu huỳnh huỵch chạy ra. Phó Tư Qui quát lại:
- Thì bố của sư phụ ngươi tới chứ còn ai!
Nam Hải Ngạc Thần quát lên:
- Cái gì mà bố của sư phụ ta?
Phó Tư Qui chỉ vào Đoàn Chính Thuần nói:
- Trấn Nam Vương là cha của Đoàn công tử, Đoàn công tử là sư phụ của ngươi, bộ tính đánh nước bài bây hả?
Nam Hải Ngạc Thần tuy chuyện ác đã nhiều nhưng cũng còn được một điều tốt là đã nói thì làm nên vừa nghe thế, giân đến mặt vàng ệch nhưng không dám công nhiên chối bèn quát lên:
- Ta bái sư là chuyện của ta liên quan đếch gì đến thằng con rùa đen kia?
Phó Tư Qui cười:
- Ta có phải con ngươi đâu mà bảo ta là thằng con rùa đen?
Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, nghĩ một lúc mới biết là y nói bóng gió chửi mình là đồ ô qui. Nghĩ ra được rồi, y gầm lên, soẹt soẹt soẹt chém luôn ba nhát ngạc chủy tiễn. Gã tuy đầu óc chậm lụt nhưng võ công không đến nỗi tệ, những răng nhọn trên thanh ngạc chủy tiễn chẳng khác gì những móc trên lang nha bổng. Phó Tư Qui giơ thanh thục đồng côn đánh luôn ba chiêu, thấy chối cả tay, Chử Vạn Lý vội vàng vung cần lên, sợi dây tơ liền vụt ra chẳng khác gì nhuyễn tiên quất vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, Nam Hải Ngạc Thần đưa ngạc chủy tiễn gạt ra được.
Bảo Định Đế nhìn cuộc thế thấy bên mình không ai có gì nguy hiểm nói với Cao Thăng Thái:
- Ngươi đứng đây lược trận.
Cao Thăng Thái đáp:
- Vâng!
Y chắp tay sau lưng đứng một bên coi sóc. Bảo Định Đế đi vào trong nhà, gọi:
- Dự nhi, cháu có ở đây không?
Ông không nghe tiếng đáp lại, đẩy cửa vào sương phòng bên trái, lại gọi nữa:
- Dự nhi! Dự nhi!
Chỉ thấy một cô gái chừng mười lăm, mười sáu từ sau cánh cửa bước ra, mặt ngơ ngác, hỏi lại:
- Ông ... ông là ai?
Bảo Định Đế đáp:
- Đoàn công tử ở đâu?
Thiếu nữ đáp:
- Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?
Bảo Định Đế đáp:
- Ta muốn cứu y ra.
Cô gái lắc đầu:
- Ông không cứu nổi đâu. Đoàn công tử bị người ta lấy đá lớn nhốt trong thạch thất, bên ngoài lại có người canh.
Bảo Định Đế nói:
- Cô đưa ta tới, ta sẽ đánh ngã người canh gác, đẩy đá cứu y ra ngoài.
Thiếu nữ lại lắc đầu:
- Không được. Nếu tôi đưa ông tới, cha tôi giết tôi mất.
Bảo Định Đế hỏi:
- Thế cha cô là ai?
Cô gái đáp:
- Tôi họ Chung, cha tôi là chủ nhân của sơn cốc này.
Cô gái đó chính là Chung Linh mới trốn được từ núi Vô Lượng trở về đây. Bảo Định Đế gật gù, nghĩ thầm đối với một cô gái nhỏ tuổi như thế này, dù là dùng lời dụ dỗ hay dùng võ lực uy hiếp đều không khỏi thất giảm thân phận, nếu như Đoàn Dự có ở trong sơn cốc này, sớm muộn gì mình cũng tìm ra nên đi ra khỏi căn nhà để tìm người dẫn đường.
*
* *
Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ở trong thạch thất nghe thấy người áo xanh ở bên ngoài tự xưng là thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác Quán Mãn Doanh thì hết sức kinh hoàng, hai người nép lại bên nhau. Đoàn Dự nói nhỏ:
- Thì ra mình rơi vào tay kẻ ác nhất thiên hạ, thật hết nước nói.
Mộc Uyển Thanh ứ ự một tiếng dụi đầu vào lòng chàng. Đoàn Dự giơ tay vuốt ve tóc nàng, an ủi:
- Đừng sợ.
Áo hai người đẫm mồ hôi chẳng khác gì vừa ở dưới nước trồi lên còn toàn thân thì nóng như lửa, hơi bốc lên phà vào mũi lại càng thêm kích thích. Một người thì là trai mới lớn huyết khí phương cương, một người thì gái đương tơ ái tình nồng cháy, dẫu không uống phải xuân dược cũng chịu không nổi, huống chi Âm Dương Hòa Hợp Tán bá đạo vô cùng, trai chính trực cũng thành kẻ trăng hoa, gái đoan trang cũng thành đứa lăng loàn, tâm thần một khi mờ ám rồi thì thánh hiền cũng ra loài cầm thú.
Giờ đây chỉ còn trông chờ Đoàn Dự một điểm thiên lương, chăm chăm không quên cái thanh danh của họ Đoàn mà miễn cưỡng khắc chế. Người áo xanh cực kỳ đắc ý, cất tiếng cười quái đản nói:
- Hai anh em chúng bay mau làm cho xong việc đi, sinh con đẻ cái sớm một ngày thì ra khỏi lao lung sớm một ngày. Ta đi đây!
Nói xong y vượt qua bức tường cây đi mất. Đoàn Dự kêu lớn:
- Nhạc lão tam, Nhạc lão nhị! Sư phụ ngươi mắc nạn, mau đến cứu ta ra.
Chàng gọi đến khản cổ nhưng nào thấy ai trả lời? Đoàn Dự nghĩ thầm: “Trong lúc nguy cấp này thôi đành bái y làm thầy, biết làm sao? Chọn lầm thầy bất quá chỉ là chuyện một mình ta chịu khỏi phải liên lụy đến bá phụ và gia gia”. Nghĩ như thế chàng lại gào lên:
- Nam Hải Ngạc Thần, ta cam tâm bái ngươi làm thầy, tình nguyện làm kẻ truyền nhân của phái Nam Hải, ngươi mau đến cứu đồ đệ đi thôi. Nếu không ta chết đi thì ngươi không có đệ tử nữa đó.
Chàng kêu réo om sòm một hồi lâu vẫn không nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần đáp lại, chợt nghĩ ra: “Chao ôi hỏng rồi! Nam Hải Ngạc Thần sợ nhất là lão đại Ác Quán Mãn Doanh, dù y có nghe ta gọi chăng nữa cũng chẳng dám tới cứu”. Chàng càng thấy trong lòng bối rối.
Mộc Uyển Thanh đột nhiên nói:
- Đoàn lang, chàng với thiếp thành hôn rồi, đứa con đầu của chúng mình, chàng thích con trai hay con gái?
Đoàn Dự mơ mơ màng màng đáp lại:
- Con trai!
Đột nhiên ở bên ngoài thạch thất có tiếng một thiếu nữ vọng vào:
- Đoàn công tử, công tử là anh của cô ta, không thể nào lấy nhau được.
Đoàn Dự ngạc nhiên, hỏi lại:
- Cô ... cô có phải Chung cô nương đó không?
Cô gái đó chính là Chung Linh, nàng nói:
- Chính em đây, em nghe lén người áo xanh nói nên đang tìm cách cứu anh và Mộc tỉ tỉ ra.
Đoàn Dự mừng lắm nói:
- Thế thì hay quá, cô mau mau đi kiếm thuốc giải độc dược cho ta đi.
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Con tiểu quỉ Chung Linh kia, mau mau cút đi, ai cần ngươi cứu?
Chung Linh đáp:
- Để em tìm cách đẩy tảng đá cứu hai người ra trước đã.
Đoàn Dự vội nói:
- Chớ, chớ, cô mau mau đi ăn trộm thuốc giải, ta ... ta chịu không nổi nữa rồi, mau ... mau không thì chết mất.
Chung Linh kinh ngạc hỏi lại:
- Anh chịu không nổi cái gì? Đau bụng hả?
Đoàn Dự đáp:
- Không phải đau bụng.
Chung Linh lại hỏi:
- Hay là nhức đầu?
Đoàn Dự đáp:
- Cũng không phải nhức đầu.
C hỏi thêm:
- Thế nơi nào trên người khó chịu?
Đoàn Dự đang cơn tình dục nổi lên, làm sao nói cho một cô gái nhỏ hiểu được? Chàng đành nói:
- Ta khắp người chỗ nào cũng khó chịu, cô cứ đi trộm thuốc giải là được.
Chung Linh nhíu mày nói:
- Anh không nói bệnh trạng làm sao em biết đường đâu mà mò để kiếm thuốc giải. Cha em có nhiều loại thuốc giải lắm nhưng phải biết anh bị đau bụng, nhức đầu hay đau tim thì mới lấy được.
Đoàn Dự thở dài:
- Ta không đau gì cả, chỉ có ... chỉ có uống phải thứ thuốc độc tên là Âm Dương Hòa Hợp Tán mà thôi.
Chung Linh vỗ tay reo lên:
- Em biết được tên thuốc độc thì dễ lắm. Đoàn đại ca, để em đi kiếm cha em hỏi thuốc giải.
Nàng lật đật trèo qua bức tường cây đi kiếm phụ thân để hỏi thuốc giải Âm Dương Hòa Hợp Tán. Âm Dương Hòa Hợp Tán là thuốc của người áo xanh nhưng Chung Vạn Cừu vừa nghe tên biết ngay là loại gì, khuôn mặt ngựa xụ xuống mắng con:
- Đồ nhãi ranh, đến hỏi ấm ớ cái gì? Chỉ được cái lếu láo, ta lại nắm tai đánh cho một trận bây giờ.
Chung Linh hốt hoảng nói:
- Không phải lếu láo đâu ...
Ngay khi đó, Bảo Định Đế và tùy tùng đã tấn công vào Vạn Kiếp Cốc, Chung Vạn Cừu vội vàng chạy ra ứng chiến, bỏ mặc Chung Linh ở trong phòng. Nàng nghe thấy ở bên ngoài tiếng binh khí chạm nhau, hai bên đấu đến hồi kịch liệt nhưng chẳng thèm để ý, vẫn tiếp tục ở trong phòng thuốc của phụ thân lục lọi. Mấy trăm bình thuốc của Chung Vạn Cừu đều có ghi rõ tên nhưng kiếm mãi không ra thuốc giải của Âm Dương Hòa Hợp Tán. Nàng còn đang phân vân chưa biết tính sao bỗng nghe có người vào phòng, vội đi ra xem liền gặp phải Bảo Định Đế.
Bảo Định Đế chưa tìm ra ai dẫn đường bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người, quay lại thì ra Chung Linh chạy tới, vội đứng lại chờ. Chung Linh dến gần nói:
- Tôi không kiếm được thuốc giải, thôi dẫn ông đến đó vậy. Chẳng hiểu ông có đẩy nổi tảng đá lớn đó không.
Bảo Định Đế mừng quá hỏi lại:
- Giải dược gì? Tảng đá nào vậy?
Chung Linh đáp:
- Ông đi theo tôi, nhìn là biết ngay.
Đường trong Vạn Kiếp Cốc tuy loằng ngoằng thật nhưng có Chung Linh dẫn lộ, chỉ một lát là tới ngay. Bảo Định Đế cầm tay Chung Linh, không nhún chân đột nhiên vọt lên nhẹ nhàng đáp xuống bức tường cây. Chung Linh vỗ tay reo lên:
- Hay thật, hay thật! Tưởng chừng như ông biết bay. Ối chao, không xong rồi.
Đã thấy ngoài thạch thất có một người ngồi đó, chính là quái khách áo xanh. Chung Linh rất sợ con người sống dở chết dở này, nói nhỏ:
- Thôi mình ra đằng khác, đợi cho người đó đi rồi quay lại sau.
Bảo Định Đế thấy người áo xanh không đến nỗi gì quái dị lắm, vội an ủi cô gái:
- Có ta ở đây, cô không việc gì phải sợ. Đoàn Dự ở trong căn nhà đó, có đúng không?
Chung Linh gật đầu, nép vào sau lưng ông. Bảo Định Đế chậm rãi bước tới, nói:
- Xin tôn giá tránh ra một bước.
Người áo xanh như không nghe không thấy, vẫn ngồi yên không cử động. Bảo Định Đế nói:
- Nếu như tôn giá không chịu nhường đường, tại hạ có vô lễ cũng đừng trách.
Ông lách qua người áo xanh giơ chưởng phải lên để vào tảng đá, đang định vận kình đẩy, bỗng từ dưới tay người áo xanh thò ra một cây thiết trượng nhỏ, điểm vào huyệt Khuyết Bồn. Cây gậy sắt đến còn cách ông ta chừng một trượng bỗng ngừng lại, không ngớt rung động, nếu Bảo Định Đế tiếp tục sử kình thì thiết trượng sẽ đâm tới ngay, không còn đường nào tránh né. Bảo Định Đế trong bụng hơi bàng hoàng: “Người này công phu điểm huyệt thật là cao minh, vậy là ai đây?”. Tay phải hơi giơ lên đánh luôn vào cây gậy đồng thời bàn tay trái lòn xuống dưới đặt luôn lên tảng đá. Người áo xanh lập tức nhích cây gậy sang chỉ vào huyệt Thiên Trì. Bảo Định Đế liên tiếp đánh ra như gió biến đổi bảy phương vị liền nhưng cây gậy sắt của người áo xanh cũng liên tiếp hư điểm các nơi huyệt đạo, chế ngự cuộc thế.
Hai người liên tiếp biến chiêu, công phu nhận huyệt của người áo xanh thật chuẩn xác khiến cho Bảo Định Đế không cách nào có thể vận kình đẩy tảng đá. Ông thấy y với mình cũng tám lạng nửa cân, xem ra còn hơn em mình là Đoàn Chính Thuần một mức. Tả chưởng ông đánh xéo ra, đột nhiên từ chưởng biến thành chỉ, nghe sùy một tiếng, sử dụng Nhất Dương Chỉ điểm vào thiết trượng, nếu như điểm thực cây gậy thể nào cũng cong lại. Ngờ đâu cây gậy sắt củng sùy một tiếng điểm trở ra, hai luồng lực đạo trên không đụng vào nhau, Bảo Định Đế phải lùi một bước, còn thân hình người áo xanh cũng lảo đảo.
Trên mặt Bảo Định Đế ánh lên sắc hồng còn người áo xanh thoánh hiện một màu xanh nhưng hai người vừa bừng lên là biến đi ngay. Bảo Định Đế lạ lùng, nghĩ thầm: “Võ công người này không những cực kỳ cao cường, nhưng xem ra với ta có chút uyên nguyên. Trượng pháp của y với Nhất Dương Chỉ rõ ràng có liên quan”.
Ông liền chắp tay nói:
- Tôn tính đại danh tiền bối là gì, làm ơn cho biết.
Chỉ nghe một thanh âm vọng lên:
- Nhà ngươi là Đoàn Chính Minh hay là Đoàn Chính Thuần?
Bảo Định Đế thấy y không mấp máy môi chút nào, vậy mà vẫn nói chuyện được, càng thêm ngạc nhiên, nói:
- Tại hạ là Đoàn Chính Minh.
Người áo xanh hừ một tiếng nói:
- Thì ra ngươi là đương kim Bảo Định Đế nước Đại Lý?
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thị.
Người áo xanh hỏi:
- Võ công ngươi so với ta, ai hơn ai kém?
Bảo Định Đế trầm ngâm giây lát đáp:
- Võ công tiền bối có hơn chút đỉnh nhưng nếu thực sự động thủ thì ta sẽ thắng.
Người áo xanh nói:
- Đúng vậy, ta dẫu sao cũng bị thiệt thòi là thân thể tàn phế. Ôi, có ngờ đâu ngươi ở ngôi vị cao như thế nhưng trong bao nhiêu năm nay vẫn không chểnh mảng việc luyện công.
Tuy thanh âm y phát xuất từ trong bụng nghe quái lạ nhưng nghe ngữ âm vẫn đầy vẻ tiếc nuối và thất vọng. Bảo Định Đế không đoán được lai lịch của y, trong bụng nảy ra bao nhiêu mối nghi ngờ. Bỗng từ trong thạch thất truyền ra tiếng gào thét nóng nảy, chính là của Đoàn Dự. Bảo Định Đế kêu lên:
- Dự nhi, cháu đấy ư? Không việc gì phải hoảng hốt, ta đến cứu cháu đây.
Chung Linh cũng kinh hãi kêu lên:
- Đoàn công tử! Đoàn công tử!
Thì ra Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh bị xuân dược thôi thúc mãnh liệt, càng lúc càng khó mà kháng cự lại được tình dục. Về sau Mộc Uyển Thanh thần trí mơ hồ, quên mất Đoàn Dự là anh của mình, luôn mồm gọi:
- Đoàn lang, ôm em đi, ôm chặt lấy em đi!
Nàng là gái còn tân, việc trai gái chưa từng biết đến, chỉ thấy người nóng như thiêu không chịu nổi, chỉ muốn Đoàn Dự ôm lấy mình cho hạ xuống nên xông vào chộp lấy chàng. Đoàn Dự kêu lên:
- Không được đâu!
Chàng lách người tránh ra, chân tự nhiên sử dụng Lăng Ba Vi Bộ. Mộc Uyển Thanh vồ không trúng, ngã lăn lên giường ngất đi. Đoàn Dự liên tiếp đi thêm mấy bước, nội tức trong người thuận theo kinh mạch mà vận hành, càng chạy càng nhanh khiến cho mỗi lúc càng thêm ngộp thở, tưởng như không hút nổi khí trời nữa nên nhịn không nổi phải rống lên một tiếng. Nhờ tiếng gào đó mà ngực thấy dễ thở hơn, nên chàng cứ đi vài bước lại hét lên một tiếng, ý niệm tình dục cũng vì thế mà giảm dần nhưng những câu đối đáp của Bảo Định Đế với người áo xanh cũng như tiếng gọi của bá phụ chàng lọt vào tai mà không nghe gì cả.
Người áo xanh nói:
- Tên tiểu tử này định lực giỏi thật, uống phải Âm Dương Hòa Hợp Tán của ta rồi, vậy mà còn giữ được tới giờ phút này.
Bảo Định Đế kinh hãi, hỏi lại:
- Thứ độc dược đó là gì thế?
Người áo xanh đáp:
- Không phải độc dược, chỉ là một loại xuân dược cực mạnh thôi.
Bảo Định Đế hỏi:
- Ngươi cho y uống loại thuốc đó là có ý gì?
Người áo xanh đáp:
- Trong thạch thất còn có một người nữa, chính là em gái nó.
Bảo Định Đế vừa nghe qua biết ngay âm mưu độc kế của người nọ. Ông tu dưỡng đã cao nhưng nghe thế không khỏi nổi cơn thịnh nộ, tay áo liền vung lên, nghe soẹt một tiếng đã phóng ra một chỉ. Người áo xanh giơ trượng lên gạt ra, chỉ thứ hai của Bảo Định Đế đã tung ra nhắm ngay vào huyệt Thất Đột dưới yết hầu, là một huyệt chí mạng liệu rằng y sẽ phải giở toàn lực ra chống đỡ.
Ngờ đâu người áo xanh chỉ cười ha ha, không tránh né cũng chẳng chống đỡ. Bảo Định Đế thấy y không chống trả, cũng không tránh né, trong bụng nghi ngờ, lập tức thu chỉ hỏi:
- Sao ngươi lại chịu chết là sao?
Người áo xanh đáp:
- Ta chết dưới tay ngươi thì thật tốt quá, tội nghiệt nhà ngươi càng dầy thêm một tầng.
Bảo Định Đế hỏi lại:
- Ngươi thực sự là ai vậy?
Người áo xanh hạ giọng nói nhỏ một câu gì đó. Bảo Định Đế nghe qua, sắc mặt lập tức biến đổi nói:
- Ta không tin.
Người áo xanh đưa cây gậy từ tay phải sang tay trái, ngón tay trỏ bên phải sùy một tiếng, điểm về phía Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng người tránh qua, trả lại một chỉ. Người áo xanh ngón tay giữa búng ra, Bảo Định Đế mặt mày trịnh trọng cũng lấy ngón giữa đáp lễ. Chiêu thứ ba của người áo xanh dùng ngón tay vô danh quét ngang, còn chiêu thứ tư dùng ngón út khẩy nhẹ. Bảo Định Đế từng chiêu từng chiêu đáp lại.
Đến chiêu thứ năm, người áo xanh lấy ngón tay cái miết xuống, trong năm ngón ngón tay cái ngắn nhất, cũng chậm chạp không linh hoạt nhưng lực đạo lại mạnh nhất, Bảo Định Đế không dám coi thường cũng giơ ngón cái của mình lên bật qua đối phương.
Chung Linh đứng bên cạnh coi thấy lạ lùng, quên cả sợ hãi người áo xanh, cười nói:
- Hai người đang đánh đố tay chăng? Bên này giơ một ngón, bên kia giơ một ngón xem ai thắng chứ gì?
Nàng vừa nói vừa đi tới gần. Bỗng đâu một luồng kình phong lặng lẽ xô tới, Chung Linh còn đang ngạc nhiên, vai trái đau nhói lên tưởng như muốn ngất đi. Bảo Định Đế hất tay về sau nhẹ nhàng đẩy nàng ra ngoài, tiếp đó nhảy lùi về sau đỡ lấy nàng nói:
- Đứng yên đừng cử động.
Chung Linh sững sờ hỏi:
- Ông ta ... ông ta định giết tôi ư?
Bảo Định Đế lắc đầu:
- Không phải. Ta cùng y đang tỉ thí võ công, người ngoài không đến gần được.
Ông giơ tay vỗ nhẹ lên lưng nàng mấy cái. Người áo xanh hỏi:
- Ngươi đã tin chưa?
Bảo Định Đế tiến lên mấy bước khom lưng nói:
- Chính Minh tham kiến tiền bối.
Người áo xanh nói:
- Ngươi gọi ta là tiền bối tức là không nhận ta hay vì chưa tin hẳn?
Bảo Định Đế đáp:
- Chính Minh này thân làm chủ một nước, lời nói hành vi lúc nào cũng phải cẩn thận. Chính Minh không có con, Đoàn Dự kia trên vai chất gánh nặng tông miếu xã tắc, xin tiền bối thả y ra.
Người áo xanh nói:
- Ta đang muốn cho họ Đoàn Đại Lý làm loạn nhân luân, bại hoại đạo đức, đoạn tử tuyệt tôn. Ta phải đợi bao lâu mới có ngày này, lẽ nào lại dễ dàng buông tay?
Bảo Định Đế gay gắt đáp:
- Đoàn Chính Minh này nhất quyết không thể bằng lòng.
Người áo xanh cười ha hả nói:
- Ngươi tự xưng là hoàng đế nước Đại Lý, đối với ta thì chỉ là kẻ soán vị đoạt triều, loạn thần tặc tử mà thôi. Nếu ngươi có gan thì việc quay về đem tay chân quân lính tới đây. Ta bảo cho ngươi biết, thế lực ta kém xa ngươi thật nhưng muốn giết tên tiểu tặc Đoàn Dự thì thật dễ như trở bàn tay. Còn như bây giờ ngươi ra tay đánh với ta, trong vài trăm chiêu chưa chắc đã thắng, muốn giết ta cũng thật khó vô cùng. Nếu ta không chết thì ngươi đâu có cứu nổi tính mạng Đoàn Dự.
Khuôn mặt Bảo Định Đế lúc thì xanh, lúc thì trắng biết lời của y quả không sai, không nói gì trở về đem binh lính tới mà chỉ cần mình có thêm một người tiếp tay thì người áo xanh cũng đã không chống đỡ nổi rồi nhưng y sẽ ra tay làm hại Đoàn Dự ngay, huống chi thân phận người này mình không thể nào ra tay giết y được. Ông bèn hỏi:
- Ông muốn thế nào thì mới chịu thả y ra?
Người áo xanh đáp:
- Dễ lắm, dễ lắm! Ngươi chỉ cần bằng lòng lên chùa Thiên Long xuất gia làm sư, đem hoàng vị nhường lại cho ta, ta sẽ cho Đoàn Dự uống thuốc giải, trả lại cho ngươi đứa cháu ngoan khỏe mạnh bình thường, đức hạnh vẹn toàn.
Bảo Định Đế đáp:
- Cơ nghiệp của tổ tông, đâu có lý nào tùy tiện dâng cho người khác được?
Người áo xanh cười ha hả nói:
- Thế đây là cơ nghiệp của ngươi hay là cơ nghiệp của ta? Vật qui nguyên chủ hay là tùy tiện dâng cho người? Ta không truy cứu tội mưu triều soán nghịch của nhà ngươi cũng đã là khoan hồng đại lượng lắm rồi, nếu như chấp nê không nghe thì cứ việc ngồi chờ, đợi đến bao giờ Đoàn Dự cùng với em gái y sinh được đứa con thì lúc ấy ta sẽ thả cho ra.
Bảo Định Đế đáp:
- Thế thì ngươi giết nó đi còn hơn.
Người áo xanh nói tiếp:
- Ngoài chuyện đó ra còn hai đường khác nữa.
Bảo Định Đế hỏi:
- Đường gì?
Người áo xanh nói:
- Cách thứ nhất là ngươi đột nhiên ám toán ta, nhân khi ta không phòng bị giết quách đi thì cứu được y ra ngay.
Bảo Định Đế nói:
- Ta không thể ám toán ngươi được.
Người áo xanh lại tiếp:
- Nếu như ngươi có muốn ám toán cũng dễ gì thành công. Con đường thứ hai là bảo Đoàn Dự đem Nhất Dương Chỉ công phu ra tỉ thí với ta, nếu thắng thì lúc ấy đi đâu chẳng được. Ha ha! Ha ha!
Bảo Định Đế bực tức, cơn giận đường như không còn nhịn nổi nhưng rồi cố dằn xuống nói:
- Đoàn Dự không biết chút võ công nào, lại chưa từng học công phu Nhất Dương Chỉ.
Người áo xanh cười khẩy:
- Cháu Đoàn Chính Minh nước Đại Lý mà lại không biết Nhất Dương Chỉ thì ai mà tin cho được?
Bảo Định Đế đáp:
- Đoàn Dự từ bé đọc sách vở thánh hiền, tụng kinh niệm Phật, bụng dạ từ bi, không chịu học võ.
Người áo xanh đáp:
- Thế thì lại chỉ là một đứa giả nhân giả nghĩa, ngụy quân tử mua danh hão. Người như thế nếu mà làm vua nước Đại Lý này đâu có phải là phúc của dân đen, giết sớm ngày nào tốt ngày đó.
Bảo Định Đế gằn giọng nói:
- Tiền bối, có phải là không còn đường nào khác nữa chăng?
Người áo xanh nói:
- Năm xưa nếu như ta còn một con đường nào khác thì đâu đến nỗi sống dở chết dở như thế này. Người khác không cho ta con đường sống, lẽ nào ta lại mở đường cho hươu chạy?
Bảo Định Đế cúi đầu suy nghĩ một lát, đột nhiên ngửng đầu lên, mặt đầy vẻ cương nghị kêu lên:
- Dự nhi, ta sẽ tìm cách cứu cháu ra. Cháu chớ quên rằng mình là con cháu nhà họ Đoàn.
Chỉ nghe từ trong nhà đá vọng ra tiếng của Đoàn Dự:
- Bá phụ, bác tiến vào một ngón tay ... một ngón tay đâm chết cháu đi.
Lúc này chàng đã ngừng bước, ngồi dựa vào vách đá nghỉ ngơi nên nghe rõ ràng từng lời đối đáp của người áo xanh và Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêm giọng hỏi:
- Cái gì? Ngươi làm bại hoại môn phong tư cách nhà họ Đoàn rồi sao?
Đoàn Dự đáp:
- Không! Không đâu, điệt nhi ... điệt nhi nóng quá chịu không nổi, chắc ... chắc không sống được.
Bảo Định Đế đáp:
- Sinh tử hữu mệnh, hãy để thuận theo tự nhiên.
Ông giơ ra nắm tay Chung Linh đi ra khoảng đất trống, nhảy lên tường cây nói:
- Tiểu cô nương, cám ơn cô đã dẫn đường, ngày sau thể nào cũng báo đáp.
Ông theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà chính. Chỉ thấy Chử Vạn Lý và Phó Tư Qui hai người đánh với Nam Hải Ngạc Thần, chưa biết bên thắng bên nào bại. Chu Đan Thần và Cổ Đốc Thành thì bị thanh phương đao của Diệp Nhị Nương ép cho càng lúc càng kém thế dường như không chịu nổi. Còn ở góc bên kia Vân Trung Hạc tuy chân không chậm lại chút nào nhưng thở hổn hển như bò rống, còn Ba Thiên Thạch nhún nhảy vẫn nhẹ nhàng như không.
Cao Thăng Thái chắp tay sau lưng đi qua đi lại làm như không quan tâm gì đến những trận đấu kịch liệt đang diễn ra chung quanh, thực ra mắt ông nhìn khắp sáu phía, tai nghe khắp tám phương, tinh thần tập trung theo dõi toàn cục, bên mình nếu như ai bị nguy hiểm gì sẽ lập tức ra tay giúp đỡ. Còn vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Tần Hồng Miên, Chung Vạn Cừu thì không thấy đâu.
Bảo Định Đế hỏi:
- Thuần đệ đâu?
Cao Thăng Thái đáp:
- Trấn Nam Vương đánh đuổi được Chung cốc chủ rồi cùng vương phi đi tìm Đoàn công tử.
Bảo Định Đế cao giọng truyền lệnh:
- Chuyện nơi đây có nhiều khúc mắc, mọi người lui lại đã.
Ba Thiên Thạch bèn đứng lại, Vân Trung Hạc bị lỡ trớn xông tới, nghe bình một tiếng, Ba Thiên Thạch đã đánh ra một chưởng. Vân Trung Hạc song chưởng giơ lên đỡ, thấy trên ngực khí huyết nhộn nhạo tưởng chừng hộc máu ra. Y cố gắng nén lại, mắt chỉ thấy hoa lên không còn nhìn rõ chiêu số của địch nữa. Ba Thiên Thạch không thừa thắng đánh tiếp, cười khẩy mấy tiếng nói:
- Lãnh giáo vậy đủ rồi.
Từ khu rừng ở bên cạnh có tiếng Đoàn Chính Thuần vọng ra:
- Ở đây không thấy gì, thôi mình đi ra đằng sau xem sao.
Đao Bạch Phượng nói:
- Đi kiếm xem có ai hỏi thăm nhưng chẳng thấy người nào cả.
Có tiếng Tần Hồng Miên:
- Sư muội ta bảo họ tránh đi cả rồi.
Bảo Định Đế nhìn Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch mỉm cười, thấy Trấn Nam Vương quả là thần thông quảng đại, không biết làm cách nào mà khiến cho hai người đàn bà không đội trời chung kia cùng đi kiếm Đoàn Dự. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:
- Vậy thì mình đi kiếm sư muội bà hỏi thăm, thể nào nàng cũng biết Dự nhi đang ở đâu.
Đao Bạch Phượng nổi cáu nói:
- Không để cho ông đi kiếm Cam Bảo Bảo được, chẳng có ý tốt lành gì.
Tần Hồng Miên nói:
- Sư muội tôi có nói rằng từ rày về sau không bao giờ gặp lại ông nữa.
Ba người vừa nói vừa từ đằng sau lùm cây bước ra, Đoàn Chính Thuần thấy anh bèn hỏi:
- Đại ca, có cứu ... có tìm được Dự nhi chưa?
Ông vốn định hỏi “có cứu được chưa” nhưng không thấy Đoàn Dự ở đó nên vội nói trớ đi. Bảo Định Đế gật đầu:
- Tìm thấy rồi, mình về nhà sẽ nói chuyện sau.
Chu Đan Thần, Chử Vạn Lý nghe thấy hoàng thượng xuống chỉ bảo ngừng tay đều muốn bãi chiến nhưng Diệp Nhị Nương và Nam Hải Ngạc Thần càng đánh càng hăng, vẫn xáp tới không hở tay chút nào. Bảo Định Đế hơi nhướng lông mày nói:
- Thôi mình đi!
Cao Thăng Thái nói:
- Tuân mệnh.
Ông lấy thiết địch trong bọc ra, giơ sáo điểm vào yết hầu Nam Hải Ngạc Thần, tiếp theo nhấc tay lật một cái, vung ra tạt vào Diệp Nhị Nương. Hai chiêu đó đều thật lợi hại nhằm toàn chỗ sơ hở của địch nhân mà tấn công. Nam Hải Ngạc Thần lập tức lộn một vòng nhảy ra bên ngoài, nghe bộp một tiếng thiết địch đã đánh trúng tay Diệp Nhị Nương, mụ ta kêu oái lên một tiếng vội vàng nhảy vọt ra.
Thực ra Cao Thăng Thái võ công không giỏi hơn hai người này bao nhiêu, có điều ông ta đứng ngoài quan sát đã lâu, trong bụng đã tính toán cách đối phó với hai người. Hai chiêu đó tưởng như chỉ để tấn công Nam Hải Ngạc Thần kỳ thực chỉ là đánh nhứ, đột nhiên xuất kỳ bất ý đánh vào Diệp Nhị Nương để trả thù mụ ta đánh ông một chưởng hôm trước.
Trông ông ra tay tưởng như làm chơi ăn thiệt, nhẹ nhàng như không nhưng thực ra mỗi chiêu đều tính toán không biết bao nhiêu lần, dùng tất cả công lực bình sinh.
Nam Hải Ngạc Thần mở tròn đôi mắt hí, vừa kinh hoàng vừa bội phục nói:
- Tiên sư nó chứ, quả là giỏi thật, trông ngươi biết thế chó nào ...
Y không nói tiếp khúc dưới nhưng mọi người đều hiểu là “Trông ngươi đâu biết được lợi hại đến thế, xem chừng ta không phải là đối thủ”. Đao Bạch Phượng hỏi Bảo Định Đế:
- Hoàng thượng, Dự nhi ra thế nào?
Bảo Định Đế trong lòng hết sức lo lắng nhưng mặt vẫn điềm tĩnh như thường, thản nhiên nói:
- Không sao cả. Trước mắt hãy để cho nó có dịp rèn mài một phen, sau một vài ngày thì sẽ ổn thỏa, những chuyện khác về cung ta sẽ tính.
Ông nói rồi quay mình ra đi. Ba Thiên Thạch vượt lên trước dẫn đường, vợ chồng Đoàn Chính Thuần đi sát ngay sau huynh trưởng, kế đến là Chử, Cổ, Phó, Chu tứ hộ vệ, sau cùng là Cao Thăng Thái. Y vừa mới ra một tuyệt chiêu trấn nhiếp kẻ địch, Nam Hải Ngạc Thần tuy hung hăng bạo tợn nhưng cũng không dám đuổi theo gây sự.
Đoàn Chính Thuần đi được mươi trượng rồi, nhịn không nổi quay đầu đưa mắt nhìn Tần Hồng Miên, Tần Hồng Miên cũng đang ngơ ngẩn nhìn theo, bốn mắt chạm nhau hai người đều mê mẩn.
Chung Vạn Cừu tay cầm Đại Hoàn Đao thở hồng hộc từ sau nhà chạy ra ậm ọe:
- Đoàn Chính Thuần, lần này ngươi không gặp vợ ta là may cho ngươi lắm đó, có thế ta mới không cho ngươi một trận. Phu nhân ta đã thề rồi, từ rày trở đi không thèm nhìn mặt ngươi. Chẳng qua ... chẳng qua cũng chẳng phải gì, nàng sợ gặp cái đồ mặt mẹt ngươi, biết đâu chừng con mẹ nó lại ... nói qua nói lại một điều là ngươi không gặp được nàng nữa là xong.
Y đấu với Đoàn Chính Thuần được vài chiêu biết là không cách gì thắng được vội vàng quay vào canh chừng vợ, đề phòng Đoàn Chính Thuần đến tán tỉnh, nghe phu nhân lập lời thề không nhìn mặt Đoàn Chính Thuần mừng không để đâu cho hết vội vàng chạy ra nhắc lại những câu đoạn tình đoạn nghĩa ấy cho tình địch nghe.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:09 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Sơn lâm uy chấn cõi ngoài,
Cung đình vương giả tranh tài hơn thua.
Hổ gầm tiếng vọng canh khuya,
Rồng thiêng giương vuốt dễ đùa được sao?
*
* *

Đoàn Chính Thuần trong lòng bồi hồi, nhủ thầm: “Thì đã sao? Vì sao lại không nhìn mặt ta nữa? Nàng nay là kẻ ván đã đóng thuyền, ta lẽ nào còn làm bại hoại danh tiết nàng hay sao? Đoàn nhị nước Đại Lý tuy phong lưu hiếu sắc thật nhưng nào có phải là kẻ hạ lưu vô sỉ. Nếu ta gặp lại nàng mà hai người chỉ lạnh nhạt không nói được với nhau một câu thì thà không gặp còn hơn”. Ông quay lại thấy vợ lạnh lùng nhìn mình không khỏi chột dạ, vội vàng rảo bước đi ra khỏi cốc.
*
* *
Đoàn người về đến Đại Lý rồi, Bảo Định Đế nói:
- Tất cả vào cung thương nghị.
Vào đến thư phòng trong hoàng cung, Bảo Định Đế ngồi tại một chiếc ghế bành lớn lót da báo ngay chính giữa, vợ chồng Đoàn Chính Thuần ngồi bên dưới còn Cao Thăng Thái và những người khác thõng tay đứng hầu. Bảo Định Đế sai nội thị đem ghế lên cho mọi người cùng ngồi rồi vẫy tay cho những người hầu lui ra, đem chuyện Đoàn Dự bị rơi vào tay địch như thế nào kể hết cho mọi người cùng nghe.
Ai nấy đều biết tất cả chẳng qua từ người áo xanh mà ra, nghe Bảo Định Đế kể lại y không những biết Nhất Dương Chỉ, mà công lực còn cao cường hơn ông nên không ai dám nhiều lời, ai cũng cúi đầu trầm ngâm. Nhất Dương Chỉ là công phu thế đại tương truyền của họ Đoàn, chỉ dạy cho con trai mà không dạy cho con gái, không truyền cho người ngoài, người áo xanh biết công phu này thì nhất định phải là giòng dõi họ Đoàn.
Bảo Định Đế quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:
- Thuần đệ, chú thử nghĩ xem người này là ai?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu đáp:
- Tiểu đệ đoán không ra, không lẽ chùa Thiên Long có người nào hoàn tục cải trang chăng?
Bảo Định Đế lắc đầu:
- Không phải, đó là thái tử Diên Khánh.
Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Đoàn Chính Thuần nói:
- Thái tử Diên Khánh đã chết rồi, người này chắc là mượn danh để làm càn thôi.
Bảo Định Đế thở dài:
- Tên tuổi có thể giả mạo nhưng công phu Nhất Dương Chỉ thì giả mạo làm sao được. Dẫu có học lén chăng nữa thì cũng là chuyện thường trong võ lâm thôi nhưng nội công tâm pháp thì làm sao học trộm được? Người này là thái tử Diên Khánh không còn nghi ngờ gì nữa.
Đoàn Chính Thuần trầm ngâm một hồi, hỏi thêm:
- Thế thì y chính là một giòng họ Đoàn nhà ta, sao lại muốn làm bại hoại môn phong thanh dự chúng mình?
Bảo Định Đế thở dài:
- Người này một thân tàn tật cho nên tính tình thật khác thường, không thể lấy thường lý mà đo lường được. Huống chi ta đang ở ngôi đế vương nước Đại Lý nên bụng y thù hận càng muốn làm cho anh em ta thân bại danh liệt cho hả lòng.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Đại ca lên ngôi đã lâu, thần dân ai nấy kính ngưỡng, bốn phương thanh bình, chẳng nói gì chỉ Diên Khánh thái tử mà dẫu vua Thượng Đức có sống lại cũng không thể trở lên ngôi được.
Cao Thăng Thái đứng bật dậy tâu:
- Lời của Trấn Nam Vương quả thật xác đáng. Thái tử Diên Khánh nếu như giao lại Đoàn công tử thì không nói gì, còn không chúng ta sẽ không coi y là thái tử hay không thái tử, chỉ biết y là kẻ đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân trong thiên hạ ai nấy đều có quyền tru diệt. Võ công y tuy cao cường thật nhưng không thể nào đánh lại được số đông.
Thì ra hơn mười năm trước vào năm Thượng Đức ngũ niên, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa đang tại vị triều đình bỗng sinh đại biến, nhà vua bị gian thần Dương Nghĩa Trinh giết chết. Cháu vua Thượng Đức là Đoàn Thọ Huy được các cao tăng chùa Thiên Long và trung thần Cao Trí Thăng giúp đỡ nên bình diệt được Dương Nghĩa Trinh lên nối ngôi xưng là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế không thích làm vua nên chỉ ở ngôi một năm rồi bỏ ngai vàng đi tu ở chùa Thiên Long, nhường ngôi cho em họ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Vua Thượng Đức vốn có một người con trai là thái tử Diên Khánh nhưng khi gian thần Dương Nghĩa Trinh soán ngôi đất nước đại loạn, y không biết đi đâu mất, ai nấy cho rằng đã bị Dương Nghĩa Trinh sát hại rồi, ngờ đâu bao nhiêu năm nay đột nhiên xuất hiện.
Bảo Định Đế nghe Cao Thăng Thái nói lắc đầu:
- Hoàng vị vốn dĩ là của thái tử Diên Khánh, khi xưa vì không kiếm thấy y, Thượng Minh Đế mới phải lên ngôi, sau đó mới truyền lại cho ta. Thái tử Diên Khánh nếu quay lại, ngôi vua này phải trả lại cho y mới phải.
Ông quay đầu nói với Cao Thăng Thái:
- Lệnh tôn nếu như còn tại thế ắt cũng một ý đó thôi.
Cao Thăng Thái là con của đại công thần Cao Trí Thăng năm xưa trừ gian diệt bạo toàn là công lao của ông ta. Cao Thăng Thái tiến lên một bước, phục xuống tâu:
- Tiên phụ trung với vua, yêu thương dân, thanh bào quái khách này là kẻ đứng đầu tứ ác, nếu như ngồi trên ngôi cửu ngũ, đứng trên trăm họ, muôn dân nước Đại Lý sẽ phải chịu không biết bao nhiêu khốn khổ. Việc hoàng thượng hỏi ý nhường ngôi, thần Thăng Thái dẫu chết vạn lần cũng không dám phụng chiếu.
Ba Thiên Thạch cũng phục xuống đất tâu:
- Mới rồi thần Thiên Thạch nghe Nam Hải Ngạc Thần gọi người đứng đầu trong tứ ác là Ác Quán Mãn Doanh. Ác nhân đó nếu không phải thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể nào giành ngôi đại bảo, còn như nếu y thực sự là thái tử Diên Khánh, một kẻ hung ác gian hiểm như thế làm sao có thể để y cai trị trăm họ nước Đại Lý? Nếu như vậy ắt quốc gia sẽ sụp đổ, xã tắc sẽ luân vong.
Bảo Định Đế xua tay nói:
- Hai vị đứng lên, những điều các ngươi nói quả là hữu lý. Có điều Dự nhi rơi vào tay họ, trừ khi ta nhường ngôi cho chúng, có cách nào đưa được Dự nhi về đâu?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Đại ca, từ xưa đến nay chỉ có khi quân phụ gặp nạn, thần tử xả thân ra cứu. Dự nhi tuy được đại ca yêu thương nhưng đâu có vì nó mà phải từ bỏ ngôi báu? Nếu làm như thế thì dù cho Dự nhi thoát hiểm cũng thành kẻ đại tội của nước Đại Lý này.
Bảo Định Đế đứng lên, giơ tay trái vuốt bộ râu dài dưới cằm, tay phải giơ hai ngón tay gõ gõ trên trán, chậm rãi đi bách bộ trong thư phòng. Mọi người biết ông khi gặp chuyện lớn khó khăn quyết định đều như thế để suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng làm cản trở giòng tư tưởng của ông. Bảo Định Đế đi qua đi lại, một hồi thật lâu mới nói:
- Gã Diên Khánh thái tử kia thủ đoạn thật là độc ác, cho Dự nhi uống Âm Dương Hòa Hợp Tán, dược tính thật là lợi hại, người thường khó mà đề kháng. Chỉ sợ ... chỉ sợ ... giờ phút này y đã bị thuốc làm cho mê man, thật không biết thế nào. Ôi, đây là gian kế của người ta bày ra, không thể nào trách Dự nhi được.
Đoàn Chính Thuần cúi đầu, xấu hổ vô cùng, nghĩ thầm đầu dây mối nhợ cũng chỉ vì mình có tính phong lưu mà ra. Bảo Định Đế quay trở lại chiếc ghế đang ngồi nói:
- Ba Tư Không, truyền hạ chỉ ý, ra lệnh cho Hàn Lâm Viện thảo chiếu phong cho em ta Chính Thuần làm Hoàng Thái Đệ.
Đoàn Chính Thuần hoảng hốt, vội vàng quì xuống tâu:
- Đại ca đang lúc thân thể cường tráng, công đức ban bố cho toàn dân, trời cao thể nào cũng phù hộ để cho con đàn cháu đống. Chức Hoàng Thái Đệ kia xin hãy khoan bàn đến.
Bảo Định Đế giơ tay đỡ lên nói:
- Anh em ta như thể tay chân, giang sơn Đại Lý này vốn do cả hai chúng mình cùng chấp chưởng, không nói gì ta không có con, dẫu như có con có cháu thì cũng truyền ngôi cho em. Thuần đệ, ta vốn đã có ý lập chú làm người kế thừa từ lâu, trong nước người người ai cũng biết. Hôm nay phải sớm định danh phận cốt để cho thái tử Diên Khánh tiêu tan hi vọng.
Đoàn Chính Thuần suy từ thêm mấy lần nữa nhưng đều không được, đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái liền tiến lên chúc mừng. Bảo Định Đế không có con cái, ngôi vua về sau ắt sẽ truyền cho Đoàn Chính Thuần, việc đó ai cũng đã biết nên không ai ngạc nhiên. Bảo Định Đế nói:
- Thôi mọi người lui về nghỉ ngơi. Việc thái tử Diên Khánh chỉ nên cho Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã hai người biết mà thôi, không được tiết lậu cho người khác.
Mọi người lên tiếng đáp ứng, khom mình cáo biệt. Ba Thiên Thạch lập tức đi xuống Hàn Lâm Viện truyền chiếu chỉ của nhà vua.
*
* *
Bảo Định Đế dùng cơm xong, ngủ một chốc, lúc tỉnh dậy nghe thấy ngoài cung vọng vào tiếng reo hò, chuông trống, tiếng pháo trúc ầm ỹ. Nội giám tiến vào phục vụ nhà vua thay quần áo, bẩm báo:
- Bệ hạ sách phong Trấn Nam Vương làm Hoàng Thái Đệ, dân chúng hoan hô chúc mừng thật là náo nhiệt.
Nước Đại Lý trong những năm gần đây không có việc binh đao, triều chính sáng suốt, dân chúng an cư lạc nghiệp, dân chúng cực kỳ kính mến hoàng đế, Trấn Nam Vương, Thiện Xiển Hầu và những quan chức. Bảo Định Đế nói:
- Truyền chỉ ý của trẫm ngày mai mở hội hoa đăng, trong thành Đại Lý bãi bỏ lệnh ngăn sông cấm chợ, khao thưởng ba quân, đem rượu thịt thưởng cho những người già cả cô nhi.
Đạo chỉ ý đó truyền xuống, dân chúng trong thành Đại Lý ai nấy đều mừng rỡ. Đến tối hôm đó, Bảo Định Đế thay quần áo thường, một mình ra khỏi cung. Ông kéo sụp mũ xuống che kín lông mày chỉ hở hai con mắt. Trên đường đi đâu đâu cũng thấy trăm họ vỗ tay hát hò, thanh niên nam nữ vừa múa vừa ca. Thời đó nhân sĩ Trung Nguyên coi Đại Lý là nước man di, lễ nghi so với trung thổ hoàn toàn khác hẳn, trên đường trai gái dắt díu nhau đi chơi, cười cợt nô đùa chẳng phải để ý đến ai, cũng chẳng ai coi là chuyện lạ. Bảo Định Đế trong bụng khấn thầm: “Cầu mong cho dân chúng nước Đại Lý ta đời đời kiếp kiếp được hoan lạc như thế này”.
Ông ra khỏi thành rồi lập tức rảo bước đi thêm chừng hai mươi dặm thì lên trên một ngọn núi, càng lúc càng hoan tịch, đi vòng qua bốn thung lũng đến trước một cái miếu cổ nho nhỏ, trên đề ba chữ Niêm Hoa Tự. Phật giáo là quốc giáo của nước Đại Lý nên trong ngoài kinh thành chùa lớn cũng vài chục còn chùa nhỏ tính hàng trăm, ngôi Niêm Hoa Tự này ở nơi hẻo lánh, ít người khói hương, ngay cả người Đại Lý phần lớn cũng chẳng ai biết đến.
Bảo Định Đế đứng trước cửa chủa trầm ngâm khấn nguyện một hồi sau đó mới tiến tới nhẹ nhàng gõ vào cửa ba tiếng. Một lúc lâu sau, một chú tiểu mở cửa chùa chắp tay hỏi:
- Tôn khách quang lâm chẳng hay có chuyện gì?
Bảo Định Đế đáp:
- Xin phiền thông báo cho Hoàng Mi đại sư là có cố nhân Đoàn Chính Minh đến viếng.
Chú tiểu nói:
- Xin mời vào.
Nói xong quay mình dẫn đường cho khách. Bảo Định Đế tiến vào trong chùa, bỗng nghe hai tiếng chuông boong boong từ hậu viện truyền ra, lập tức cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, thần nhàn ý tĩnh. Hai người đạp trên những lá khô rơi trên thềm đi đến phía sau, chú tiểu nói:
- Xin tôn khách ở đây chờ một chút để tôi đi bẩm cho sư phụ biết.
Bảo Định Đế đáp:
- Được.
Ông chắp tay sau lưng đứng giữa sân nhìn lá vàng từ trên cây ngân hạnh lả tả rơi. Trong đời ông hiếm khi nào phải đứng ngoài cửa chờ người khác thế nhưng khi bước chân vào Niêm Hoa Tự này, bao nhiêu tục niệm đều tiêu tan, quên hẳn mình là chúa tể của cả một cõi trời nam.
Bỗng nghe một giọng già nua cười nói:
- Đoàn hiền đệ có chuyện gì khó khăn thế?
Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy một nhà sư già thân thể cao to, mặt đầy vết nhăn đang từ trong căn nhà nhỏ bước ra. Vị lão tăng đó có đôi lông mày dài vàng cháy, mi mao rủ xuống, chính là hòa thượng Hoàng Mi.
Bảo Định Đế chắp hai tay nói:
- Đến quấy quả việc thanh tu của đại sư.
Hoàng Mi hòa thượng mỉm cười nói:
- Xin mời vào.
Bảo Định Đế tiến vào trong căn nhà nhỏ thấy hai nhà sư trung niên đứng vái chào, biết đó là đệ tử của Hoàng Mi nên cũng giơ tay đáp lễ rồi xếp bằng ngồi xuống chiếc bồ đoàn ở phía tây, đợi cho hòa thượng Hoàng Mi ngồi ngay ngắn nơi chiếc đệm phía đông mới lên tiếng nói:
- Tôi có một đứa cháu tên là Đoàn Dự, năm lên bảy tuổi đã từng đem nó đến đây nghe sư huynh giảng kinh.
Hoàng Mi tăng mỉm cười:
- Thằng bé đó có ngộ tính khá, quả là đứa ngoan, ngoan lắm.
Bảo Định Đế nói:
- Nó nhờ được Phật pháp điểm hóa nên tính tình từ bi, không chịu học võ để khỏi sát sinh.
Hoàng Mi tăng nói:
- Không biết võ công vẫn có thể giết người, biết võ công chưa chắc đã giết người.
Bảo Định Đế đáp:
- Phải lắm!
Ông đem chuyện Đoàn Dự kiên quyết không chịu học võ, bỏ nhà trốn đi, làm sao gặp được Mộc Uyển Thanh, rồi bị Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân là thái tử Diên Khánh bắt giam trong thạch thất kể lại. Hoàng Mi tăng mỉm cười lắng tai nghe, không xen vào nửa lời còn hai đệ tử đứng sau lưng ông thõng tay hầu thầy mặt lạnh như tiền các bắp thịt trên mặt không hề rung động chút nào.
Đến khi Bảo Định Đế nói xong, Hoàng Mi tăng mới chậm rãi nói:
- Nếu như thái tử Diên Khánh là đường huynh của hiền đệ, hiền đệ không tiện động thủ với y mà sai hạ thuộc đến cứu người thì cũng không ổn.
Bảo Định Đế nói:
- Sư huynh nhận định sáng suốt lắm.
Hoàng Mi tăng nói tiếp:
- Trong các cao tăng chùa Thiên Long cũng có người võ công giỏi hơn hiền đệ nhưng bọn họ cũng đều trong họ Đoàn mà ra, không tiện tham dự tranh chấp trong nội tộc mà giúp hiền đệ thành thử không thể lên đó cầu cứu được.
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thế!
Hoàng Mi tăng gật đầu chậm rãi đưa ngón tay giữa ra, điểm vào ngực Bảo Định Đế. Bảo Định Đế mỉm cười, đưa ngón tay trỏ điểm ngay vào đầu ngón tay giữa của ông ta, hai người đều lắc lư một cái lập tức thu chỉ về. Hoàng Mi tăng nói:
- Đoàn hiền đệ, Kim Cương chỉ của ta không thắng nổi Nhất Dương Chỉ của hiền đệ đâu.
Bảo Định Đế nói:
- Sư huynh đại trí đại tuệ, không cần phải dùng chỉ lực mà thủ thắng.
Hoàng Mi tăng cúi đầu không nói. Bảo Định Đế đứng lên nói:
- Năm năm trước đây, sư huynh bảo tiểu đệ miễn thuế muối cho dân Đại Lý, nhưng một là quốc dụng chưa đủ, hai nữa tiểu đệ định đợi cho đứa em Chính Thuần tiếp vị rồi mới thi hành nhân chính đó để dân chúng hướng về y. Thế nhưng ngay sáng mai, tiểu đệ sẽ ra lệnh bãi bỏ thuế muối.
Hoàng Mi tăng đứng bật dậy, khom lưng vái lạy, cung kính đáp:
- Hiền đệ tạo phúc cho muôn dân, lão tăng cảm kích ân đức không để đâu cho hết.
Bảo Định Đế cũng cúi xuống vái trả lễ, không nói thêm lời nào, lặng lẽ đi ra khỏi chùa. Ông về đến cung lập tức sai nội giám truyền lệnh đòi Ba Thiên Thạch vào chầu, cho y hay việc bãi bỏ thuế muối. Ba Thiên Thạch khom mình tạ ơn nói:
- Hồng ân của hoàng thượng thực là phúc của toàn dân.
Bảo Định Đế đáp:
- Mọi việc tiêu dùng trong cung nên cố giảm thiểu tiết kiệm. Nhà ngươi cùng Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã bào thảo cho kỹ càng, xem những gì mình có thể cắt xén được.
Ba Thiên Thạch tuân lệnh, từ biệt ra khỏi cung lập tức hẹn với Tư Đồ Hoa Hách Cấn cùng đến phủ Tư Mã Phạm Hoa thông báo việc bãi bỏ thuế muối, còn việc Đoàn Dự bị bắt cóc thì Ba Thiên Thạch đã nói cho hai người biết rồi. Phạm Hoa trầm ngâm rồi nói:
- Trấn Nam thế tử bị rơi vào tay kẻ gian, hoàng thượng hạ chỉ miễn trừ thuế muối chắc là để cầu trời thương xót phù hộ cho thế tử được trở về bình an. Bọn thần tử chúng ta nếu chẳng chia xẻ cái nỗi lo của đấng chí tôn thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều?
Ba Thiên Thạch nói:
- Chính thế, nhị ca có diệu kế gì có thể cứu được thế tử chăng?
Phạm Hoa đáp:
- Nếu như đối thủ là thái tử Diên Khánh, hoàng thượng thật không muốn chính diện coi y là thù địch. Ta có một cách này nhưng có điều phải làm phiền đến đại ca thôi.
Hoa Tư Đồ vội hỏi:
- Cái gì mà phải làm phiền? Nhị đệ mau mau nói ra.
Phạm Hoa đáp:
- Hoàng thượng nói rằng võ công của Diên Khánh thái tử còn hơn ngài một bậc, nếu như mình tới xông vào cứu thì không thể nào làm được. Đại ca, nghề cũ của đại ca hai mươi năm trước nay thử lại một lần được chăng?
Khuôn mặt rám nắng của Hoa Tư Đồ hơi đỏ lên, cười nói:
- Nhị đệ lại trêu ta nữa rồi.
Quan Tư Đồ Hoa Hách Cấn vốn tên là A Căn, xuất thân nghèo hèn, nay làm tới chức Tam Công ở Đại Lý nhưng khi chưa thành đạt thì làm nghề đào mả trộm kiếm ăn, chuyên đi đào mồ những vương công cự phú. Những người giàu có sau khi chết thường chôn theo những đồ vật quí giá, Hoa A Căn từ xa đào hầm thông vào phần mộ để lấy bảo vật. Tuy làm thế mất nhiều công thật nhưng vì thế không ai phát giác. Một hôm y đào trúng một mộ phần trong quan tài có võ công bí cấp chôn theo, theo đó mà tu luyện thành một môn ngoại công trác tuyệt mới bỏ cái nghề hạ tiện này, quay sang phò tá Bảo Định Đế, lập được nhiều công lao thăng lên đến chức Tư Đồ.
Khi làm quan rồi ông thấy tên cũ khó nghe, đổi thành Hách Cấn, ngoại trừ Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa là hai người sinh tử chi giao, rất ít người biết rõ thân phận của ông. Phạm Hoa đáp:
- Tiểu đệ nào có dám đùa cợt đại ca? Tiểu đệ nghĩ bọn mình lẻn vào trong Vạn Kiếp Cốc, đào một đường hầm thông vào trong thạch thất giam Trấn Nam thế tử, lẳng lặng cứu y ra thì không ai có thể nào biết được.
Hoa Hách Cấn vỗ đùi reo lên:
- Hay lắm! Hay lắm!
Cái nghề đào mả trộm của y thật là tài trời cho, hơn hai mươi năm qua không còn dùng để mưu sinh nữa nhưng thỉnh thoảng nghĩ đến không khỏi ngứa ngáy chân tay, có điều thân đang giữ chức vụ cao, cực điểm phú quí, lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề cập đến trong bụng mừng thầm.
Phạm Hoa cười nói:
- Đại ca đừng mừng vội, bên trong còn nhiều chuyện khó khăn. Tứ Đại Ác Nhân đều ở trong Vạn Kiếp Cốc, vợ chồng Chung Vạn Cừu và Tu La Đao cũng là những nhân vật cực kỳ lợi hại, muốn tránh không để họ biết thực không phải dễ. Hơn nữa, gã thái tử Diên Khánh kia ngồi canh ngoài thạch thất, đào hầm dưới chân y làm sao không để y phát giác được?
Hoa Hách Cấn trầm ngâm một hồi mới nói:
- Thế thì phải đào từ sau thạch thất mà vào để tránh chỗ của thái tử Diên Khánh.
Ba Thiên Thạch nói:
- Trấn Nam thế tử thời khắc nào cũng đều gặp phải hiểm nguy, chúng ta đào hầm e rằng công trình không phải nhỏ sợ không kịp chăng?
Hoa Hách Cấn đáp:
- Thế thì cả ba anh em mình cùng làm, hai vị hiền đệ chịu khó học ta cái nghề đào mồ ăn trộm vậy.
Ba Thiên Thạch cười nói:
- Chúng ta làm đến Tam Công nước Đại Lý, nhưng sự bất đắc dĩ vì nghĩa mà phải làm cái việc đào mồ trộm mả đấy thôi.
Cả ba cùng vỗ tay cười ha hả. Hoa Hách Cấn nói:
- Việc không nên chậm trễ, nói là làm liền đi.
Nói xong Ba Thiên Thạch vẽ đồ hình trong Vạn Kiếp Cốc, Hoa Hách Cấn tính toán cửa hầm và đường đi, làm cách nào để tránh tai mắt người ngoài, làm thế nào chuyên chở được đất cát đem đi đổ mọi việc y đều tinh thông không ai sánh kịp.
*
* *
Trong một ngày một đêm qua, Đoàn Dự mỗi khi thấy trong người bứt rứt liền thi triển thân pháp Lăng Ba Vi Bộ ở trong thạch thất đi qua đi lại, chỉ cần một hai vòng là thấy dịu hẳn xuống. Thế nhưng Mộc Uyển Thanh thì người phát sốt, thần trí mơ hồ, phần lớn thời gian chỉ tựa lưng vào tường đá mà ngủ mê mệt.
Hôm sau vào khoảng giữa trưa, Đoàn Dự lại đi rảo bước trong căn phòng bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng người già cả ngâm:
Dọc ngang mười chín vạch,
Biết bao người mê say.
Cư sĩ nếu có thanh hứng, cùng với lão tăng đánh chơi một ván được chăng?
Đoàn Dự trong bụng lạ lùng vội vàng đi chậm lại, đi thêm mươi bước nữa rồi ngừng hẳn, ghé mắt nhìn qua cái lỗ hổng vẫn dùng để đưa cơm nhìn ra ngoài.
Chỉ thấy một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo, lông mày vàng hoe, tay trái cầm một cái mõ to bằng miệng bát, tay phải cầm một chiếc dùi đen nhánh, gõ lên cái mõ mấy tiếng cốc cốc cốc, nghe âm thanh thì ra cái dùi đó đúc bằng sắt. Ông ta vừa niệm: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” vừa cúi xuống phiến đá xanh ngay trước căn nhà đá dùng dùi mõ vạch, nghe xạo xạo, bột đá bay tung tóe đã vạch thành một đường thẳng.
Đoàn Dự thấy lạ lùng, khuôn mặt vị lão tăng này chàng dường như có gặp ở đâu rồi, kình lực bàn tay ông ta mạnh thật, chỉ tiện tay vạch lên mà trên nền đá thành một hằn sâu chẳng khác gì đục bằng dùi sắt của người thợ tiện, chiếc dùi mõ chỉ chầm chậm vạch qua thành một đường thẳng tắp còn người thợ nếu muốn đục được thẳng như thể không thể không vạch trước bằng mực đen.
Trước căn nhà đá một giọng nói uất nghẹn vang lên:
- Kim Cương chỉ lực, công phu giỏi lắm.
Chính là tiếng của người áo xanh Ác Quán Mãn Doanh. Thiết trượng của y liền thò ra vạch một đường ngang thẳng góc với đường của Hoàng Mi tăng, cũng ăn sâu vào đá thẳng băng. Hoàng Mi tăng cười nói:
- Thí chủ bằng lòng tứ giáo, hay lắm, hay lắm!
Ông ta liền đưa dùi lên vẽ thêm một đường thẳng nữa, người áo xanh liền vẽ một đường ngang. Cứ như thế bên này khắc một đường, bên kia khắc một đường, hai người ngưng tụ công lực, chùy trượng càng vẽ càng chậm dần để cho đường mình vẽ không có chỗ nông chỗ sâu hay cong vẹo thì thua đối phương hay sao.
Độ chừng ăn xong một bữa cơm, một bàn cờ dọc ngang mười chín đường đã ngay ngắn khắc xong, Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: “Chính Minh hiền đệ nói không sai, gã thái tử Diên Khánh này nội lực quả là cao cường”. Thái tử Diên Khánh không phải như Hoàng Mi tăng đã chuẩn bị rồi mới đến nên trong bụng cũng hãi thầm: “Ở đâu lại nhảy ra một lão hòa thượng lợi hại đến thế này? Hẳn là Đoàn Chính Minh mời đến tiếp tay. Gã hòa thượng này cầm chân ta để cho Đoàn Chính Minh thừa cơ vào cứu Đoàn Dự, ta đâu có cách nào phân thân ra đối địch được”.
Hoàng Mi tăng nói:
- Đoàn thí chủ công lực cao thâm, bội phục, bội phục. Kỳ lực của thí chủ ắt cũng phải gấp mười lão tăng, lão tăng muốn thí chủ nhường cho bốn quân.
Người áo xanh ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Chỉ lực của ngươi ghê gớm như thế hẳn là thân phận cao nhân. Ngươi đến thách ta đấu vừa mở miệng lại đòi nhường là sao?”. Y bèn nói:
- Đại sư việc gì phải khiêm tốn quá như thế! Nếu muốn hơn thua thì phải đánh ngang tay chứ.
Hoàng Mi tăng đáp:
- Bốn quân không nhường được hay sao?
Người áo xanh thản nhiên đáp:
- Nếu đại sư tự biết kỳ thế không bằng thì còn tỉ đấu làm gì nữa.
Hoàng Mi tăng khẩn khoản:
- Thế thì ba quân được chăng?
Người áo xanh đáp:
- Chỉ nhường đi trước cũng đã là quá rồi.
Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:
- Hóa ra tài đánh cờ của ông cũng chẳng đến đâu, thôi thì để ta chấp ông ba quân vậy.
Người áo xanh đáp:
- Không cần phải thế, cứ đấu ngang tay mỗi người đi trước một lần là được rồi.
Hoàng Mi tăng càng thêm ngại ngùng nghĩ thầm: “Người này không kiêu căng mà cũng không nóng nảy, quả là kình địch, dù ta có khích cách nào cũng vẫn điềm tĩnh như không”.
Thì ra Hoàng Mi tăng không có cách nào chắc ăn, biết người thích cờ thường hiếu thắng, mình mở miệng xin y chấp ba quân, bốn quân thường là đối phương bằng lòng, nhưng người này tính tình khác hẳn, không coi cái hư danh đó vào đâu, nếu như thái tử Diên Khánh tự phụ là mình cao cờ bằng lòng chấp quân thì mình thật là lợi thế, đấu cờ phần thắng sẽ nhiều hơn. Ngờ đâu thái tử Diên Khánh không chịp chấp quân mà cũng chẳng để ai nhường mình, không sơ hở chút nào, cực kỳ nghiêm cẩn.
Hoàng Mi tăng nói:
- Được rồi, ngươi là chủ, ta là khách, vậy ta đi trước.
Người áo xanh nói:
- Không được, rồng mạnh không đè nổi rắn đất, để ta đi trước.
Hoàng Mi tăng đáp:
- Thôi thế thì đánh đố để định xem ai đi trước. Vậy ngươi đoán thử lão tăng năm nay bao nhiêu tuổi, chẵn hay lẻ? Đoán trúng thì ngươi đi trước; còn đoán sai thì lão tăng đi trước.
Người áo xanh nói:
- Ta có đoán trúng chăng nữa ông cũng giở thói bài bây.
Hoàng Mi tăng nói:
- Được rồi, thế này thì ngươi đoán lão tăng không có thể chây được. Ngươi đoán thử sau năm bảy mươi tuổi, số ngón chân lão tăng hai bên tổng cộng là số chẵn hay số lẻ?
Câu đố dó quả thật quái lạ, người áo xanh nghĩ thầm: “Người bình thường có mười ngón chân, dĩ nhiên là chẵn rồi. Y nói rõ là sau năm bảy mươi tuổi chắc là để cho ta tưởng rằng sau năm bảy mươi tuổi y mất đi một ngón chứ gì? Binh pháp có nói là: Thực ấy là hư mà hư ấy là thực. Y còn đủ mười ngón chân nhưng cố tình giở trò đánh lạc hướng, ta đâu có trúng kế lão?”. Y bèn nói:
- Số chẵn.
Hoàng Mi tăng đáp:
- Sai rồi, số lẻ.
Người áo xanh nói:
- Cởi giày ra xem nào!
Hoàng Mi tăng cởi giày vớ bên chân trái ra thấy đầy đủ năm ngón không thiếu ngón nào. Người áo xanh chăm chăm nhìn mặt đối phương thấy ông ta miệng mỉm cười, thần tình trấn tĩnh nghĩ thầm: “Thì ra chân phải y chỉ có bốn ngón”. Lại thấy nhà sư từ từ cởi giày vải chân phải ra, giơ tay cởi vớ đang định nói: “Thôi khỏi cần kiểm chứng, ông đi trước đi” thì lại chợt nghĩ: “Không thể mắc hỡm y”.
Hoàng Mi tăng lại cởi nốt vớ chân phải, chân phải cũng đầy đủ năm ngón, có tàn khuyết gì đâu?
Trong giây phút đó bao nhiêu ý nghĩa hiện ra trong đầu người áo xanh, không biết đối phương có ý định gì. Chỉ thấy nhà sư già giơ chiếc dùi sắt lên đánh mạnh xuống, nghe cách một tiếng chặt gãy luôn ngón chân út của mình. Hai người đệ tử đứng sau lưng thấy sư phụ tự hủy hoại thân thể, máu chảy vọt ra nhịn không nổi kêu “Ối” lên một tiếng. Đại đệ tử Phá Nghi vội lấy thuốc kim sang trong bọc ra rịt cho thầy, xé một mảnh tay áo băng lại.
Hoàng Mi tăng cười nói:
- Lão tăng năm nay sáu mươi chín tuổi, đến khi bảy mươi thì ngón chân ta là số lẻ.
Người áo xanh đáp:
- Quả đúng thế, đại sư đi trước đi.
Y có cái tên là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, bao nhiêu chuyện hung ác tàn bạo đã từng thấy cả rồi thì việc chặt đứt một ngón chân có đáng gì đâu nhưng nghĩ thầm nhà sư này chỉ vì muốn tranh tiên một nước mà đã ra tay như thế đủ biết ông ta nhất định phải thắng ván cờ này, một khi mình thua thì những điều kiện ông ta đưa ra sẽ thật là gay go.
Hoàng Mi tăng nói:
- Xin phép.
Ông ta cầm cái dùi lên khắc xuống điểm tứ tứ ở hai góc đối diện mỗi bên một cái vòng tròn nhỏ thế là coi như đã đi hai quân cờ trắng. Người áo xanh giơ cây gậy sắt ra ấn vào hai bên cạnh hai điểm tứ tứ còn lại mỗi bên một cái, lập tức nền đá xanh lõm xuống hai lỗ tức là đi hai quân đen. Cả bốn góc điểm tứ tứ đều có quân đen trắng thì gọi là “thế tử” là một phép đánh cổ của vi kỳ Trung Quốc, trắng đi trước đen đi sau ngược lại với phép đánh sau này của hậu thế.
Hoàng Mi tăng kế đến đặt tại Bình Vị lục tam một quân, người áo xanh bèn đi một nước nơi chỗ cửu tam. Lúc đầu hai người đi rất nhanh, nhà sư không tỏ ra kém sút chút nào, quả có mất một ngón chân để đi trước một nước kể cũng đáng.
Đi đến nước thứ mười bảy mười tám, hai bên cáng lúc càng gay go, tranh nhau thật kịch liệt, kình lực trên tay cũng mỗi lúc một tiêu hao, một mặt suy nghĩ mong thắng, một mặt vận khí tăng gia kình lực thành thử càng lúc càng chậm.
Người đệ tử thứ hai của Hoàng Mi tăng Phá Sân cũng là một tay cờ khá thấy sư phụ dùng đoản binh đấu với người áo xanh hai bên toàn những thế kỳ lạ không khỏi bội phục ngầm. Đi đến nước thứ hai mươi bốn, người áo xanh đột nhiên tung ra kỳ binh, bàn cờ đột nhiên biến đổi nếu như nhà sư không đối phó kịp thì góc bên phải thể nào cũng nguy còn như nếu cố giữ thì lợi thế đi trước không còn nữa.
Hoàng Mi tăng suy nghĩ một hồi lâu chưa biết phải làm thế nào bỗng nghe từ bên trong thạch thất có tiếng truyền ra:
- Tấn công vào Khứ Vị thì không bị mất thế đi trước.
Thì ra Đoàn Dự từ bé đã ham đánh cờ lúc này thấy hai bên đến chỗ gay go nên buột miệng “gà” cho Hoàng Mi tăng. Người đời thường nói: “Cờ ngoài bài trong”, người đứng xem thường sáng nước hơn người đang đánh, kỳ lực của Đoàn Dự vốn đã cao hơn Hoàng Mi tăng lại đứng ngoài nên nghĩ ngay ra được những nước lạ. Hoàng Mi tăng đáp:
- Lão tăng vốn cũng đã có ý đó rồi nhưng chưa đặt xuống được, thí chủ nói thế khiến giải quyết được nghi nan trong lòng.
Bèn đặt nơi Khứ Vị ngay chỗ thất tam một quân. Trong phép đánh cờ ngày xưa của Trung Quốc, Bình Thượng Khứ Nhập là bốn chỗ, Khứ Vị ở góc trên bên phải.
Người áo xanh lạnh lùng đọc:
Đứng ngoài chẳng nói là quân tử,
Tự mình suy tính mới trượng phu.
Đoàn Dự kêu lên:
- Ngươi đem ta nhốt ở nơi đây mà còn dám nói gì chân quân tử hay chăng?
Hoàng Mi tăng mỉm cười:
- Ta là đại hòa thượng chứ nào phải đại trượng phu đâu?
Người áo xanh cười khẩy:
- Vô sỉ thật, vô sỉ thật.
Y suy nghĩ một hồi rồi cũng đi một quân nơi Khứ Vị. Đi được thêm mấy nước, nhà sư già lại gặp thế bí, Phá Sân hòa thượng nóng ruột không nghe Đoàn Dự nhắc gì vội chạy lại trước thạch thất hỏi:
- Nước cờ này phải đi thế nào đây?
Đoàn Dự đáp:
- Ta đã tính ra đến bảy nước rồi nhưng nếu nói ra e rằng kẻ địch nghe được thì không còn hiệu nghiệm nữa thành thử cứ ngần ngừ không muốn nhắc.
Phá Sân giơ bàn tay ra, tay trái viết lên hai chữ:
- Xin viết ra.
Nói xong đưa bàn tai vào trong cái khe, miệng nói:
- Nếu đã thế thì thôi đành chịu vậy.
Y biết người áo xanh nội công thâm hậu dù cho Đoàn Dự có ghé tai nói nhỏ cũng có thể bị y nghe được. Đoàn Dự thấy kế này hay lắm, liều đưa ngón tay viết vào bàn tay y bảy nước đi nói:
- Tôn sư kỳ lực cao minh ắt sẽ có nước hay, chẳng cần tại hạ chỉ điểm.
Phá Sân suy nghĩ một chút thấy bảy nước cờ đó quả thật là cao nên quay trở lại bên sư phụ, đưa tay viết lên lưng ông. Tăng bào của y che hết bàn tay, nên người áo xanh không sao nhìn thấy y giở trò láu cá. Hoàng Mi tăng ngẫm nghĩ một hồi rồi cứ theo đúng thế mà đi.
Người áo xanh hừ một tiếng nói:
- Cái này là có người ngoài mách nước, cứ như sức cờ của đại sư xem ra không thể tới mức này được.
Nhà sư cười:
- Đánh cờ chẳng qua là trò đấu trí, trong cái giả có cái thật, người giỏi thì làm như không giỏi. Nếu như kỳ lực của lão tăng thí chủ biết hết cả rồi thì còn đánh cờ làm gì?
Người áo xanh đáp:
- Chơi trò giảo hoạt ném đá dấu tay.
Y thấy Phá Sân hòa thượng chạy qua chạy lại, lại dấu tay ở sau lưng nhà sư già, ắt hẳn có điều gì quái đản nhưng vì chú tâm đánh cờ thành ra chuyện chung quanh không nhìn rõ được.
Hoàng Mi tăng theo đúng lời Đoàn Dự chỉ, cứ thế mà đi đủ bảy nước. Sáu nước sau không cần phải suy nghĩ gì cả, chỉ chuyên chú vận công nên những cái lỗ do dùi đục vào đá xanh vừa sâu vừa tròn, đủ biết thần khí đầy đủ, nội lực dạt dào không dứt.
Người áo xanh thấy những nước cờ càng sau càng ghê gớm, nước nào cũng phải suy nghĩ cách chống đỡ nên nét đục của thiết trượng nông sâu không đều. Đến khi Hoàng Mi tăng đi xong nước thứ sáu rồi, người áo xanh xuất thần suy nghĩ một hồi đột nhiên đặt một quân vào Nhập Vị.
Quân cờ đó đi thật bất ngờ không liên quan gì đến lối tính toán của Đoàn Dự, Hoàng Mi tăng ngạc nhiên nghĩ thầm: “Bảy nước cờ của Đoàn công tử thật là tinh vi đi đến nước thứ bảy thì ta từ đi trước một nước đã thành hơn tới hai nước. Thế nhưng vào tình thế này thì ta không đi nước này được nữa rồi, chẳng hóa ra bao nhiêu nước trước thành công cốc hay sao?". Thì ra người áo xanh thấy tình hình bất lợi ứng phó cách nào xem ra cũng không xong thành ra không thèm lý đến nữa nên bỏ luôn thế thủ tiến lên công ngay một quân, cái đó chính là “lấy cái không để chống với cái có” quả thực là một nước lợi hại.
Hoàng Mi tăng nhíu mày không nghĩ ra được cách nào cho ổn. Phá Sân thấy thế cờ đột nhiên biến đổi khiến sư phụ bị lâm vào thế bí vội chạy lại thạch thất. Đoàn Dự cũng đã nghĩ chín liền viết cho y sáu nước cờ rõ ràng từng nước một. Phá Sân chạy lại chỗ Hoàng Mi tăng đưa tay viết lên lưng sư phụ. Người áo xanh đã nổi danh là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân lẽ nào lại dung cho y liên tiếp phá bĩnh mình? Thiết trượng từ tay trái liền tung ra hư điểm vào vai Phá Sân, quát lên:
- Đứa hậu sinh kia, mau đứng lại!
Thiết trượng điểm ra phát xuất tiếng vù vù. Hoàng Mi tăng thấy thế biết là đệ tử mình không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng trọng thương lập tức giơ tả chưởng chộp vào đầu trượng. Đầu trượng của người áo xanh liền rung động điểm luôn vào huyệt đạo dưới vú nhà sư. Hoàng Mi tăng biết trảo thành cương đao chém xuống đầu gậy, thiết trượng liền biến chiêu. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã trao đổi bảy tám thức.
Hoàng Mi tăng nhận thấy cánh tay mình ngắn còn thiết trượng của địch dài, nếu tiếp tục hóa ra chỉ thủ mà không công, chỉ thua chứ không có đường thắng nên vừa thấy trượng điểm tới liền tung ra một chỉ nhắm ngay đầu trượng đâm vào. Người áo xanh không rút về tránh, đầu trượng và ngón tay đụng nhau, hai người cùng dùng nội lực để đấu, lập tức cả hai bên đều đứng sững lại.
Người áo xanh nói:
- Đại sư nước cờ kia nhùng nhằng không đi, bàn cờ này chịu thua rồi phải không?
Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:
- Các hạ là tiền bối cao nhân, sao lại ra tay đánh trộm đệ tử của ta? Như thế có mất thân phận lắm chăng?
Tay phải cầm chiếu dùi sắt khắc một vòng tròn nhỏ dưới phiến đá. Người áo xanh cũng không nghĩ ngợi, tiện tay cũng đặt một quân. Từ đó trở đi, hai người tay thì vận nội lực không cách nào có thể lơi được, nhưng thế cờ mỗi lúc một gay go, hai bên tranh giành từng chút một.
Năm năm trước đây, Hoàng Mi tăng vì bách tính nước Đại Lý cầu xin Bảo Định Đế bãi bỏ thuế muối, đến tận bây giờ nhà vua mới bằng lòng, hai người hiểu ý nhau nên ông nhất định ra tay cứu Đoàn Dự. Hoàng Mi tăng nghĩ thầm: “Ta dẫu có bỏ mạng cũng không thành vấn đề, nhưng nếu không cứu được Đoàn Dự ra thì còn ra gì với Chính Minh hiền đệ nữa?”.
Kẻ tu tập võ học nội công cần nhất là không được có một chút tạp niệm nào, cái đó gọi là “phản chiếu không minh, vật ngã lưỡng vong ” nhưng đánh cờ thì lại luôn luôn muốn hơn người một bước, trên bàn cờ ba trăm sáu mươi mốt điểm, điểm nào cũng phải nghĩ tới, quả đúng là đến một sợi tóc cũng không thể bỏ qua thì mới tính toán cho đến nơi đến chốn được.
Hai món đó gần như tương phản chống chỏi lẫn nhau. Hoàng Mi tăng công phu thiền định tuy cao thâm, nước cờ lại không cao bằng đối phương, chú tâm vào việc vận nội lực kháng địch thì lại sao nhãng nước cờ, còn như tập trung nghĩ nước cờ thì nội lực lại giảm đi trở thành núng thế, thấy cục diện hôm nay hung hiểm lạ thường nên quyết tâm lấy cái chết báo đền người tri kỷ nên không còn nghĩ gì đến việc an nguy của mình nữa. Cổ nhân có nói: “quân đang nguy ngập thì dễ thắng”, thế nhưng Hoàng Mi tăng lúc này nguy thì có nguy còn chuyện tất thắng thì chưa thấy đâu cả.
*
* *
Tam Công nước Đại Lý là Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Mã Phạm Hoa và Tư Không Ba Thiên Thạch tất lãnh ba chục thuộc hạ biết võ công, đem gỗ, xẻng, đèn treo các món tiến vào khu rừng rậm trong Vạn Kiếp Cốc, chọn địa thế rồi đào đường hầm vào. Ba mươi ba người đào cả đêm đã được một con đường hầm dài đến vài chục trượng. Qua hôm sau lại đào thêm nửa ngày nữa đến xế trưa, tính toán ra không còn cách thạch thất bao xa. Hoa Hách Cấn bảo bộ thuộc lui lại phía sau để chuyển đất, chỉ còn ba người thay phiên đào. Ba người biết rằng thái tử Diên Khánh võ công rất cao cường nên khi đào chỉ nhè nhẹ ấn xẻng xuống không dám để phát ra chút thanh âm nào. Chính vì thế mà tiến triển rất chậm. Ba người có biết đâu lúc này người áo xanh đang hết sức chú tâm đánh cờ với Hoàng Mi tăng, lại đấu nội lực làm gì còn để ý đến âm thanh dưới đất.
Đào đến khoảng giờ Thân, tính ra đã đến nơi thạch thất Đoàn Dự đang bị cầm tù. Nơi này và nơi Diên Khánh đang ngồi cách nhau chỉ độ một trượng nên lại càng hết sức cẩn thận không để lộ chút thanh âm nào. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng xuống, dùng mười ngón tay moi đất, thi triển Hổ Trảo Công, mười ngón tay chẳng khác nào mười cái móng sắt, móc lên từng tảng đất lớn. Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch hai người ở sau chuyền những tảng đất y đào ra ngoài. Lúc này Hoa Hách Cấn không còn đào ngang nữa mà đã đào dọc từ dưới lên trên. Công trình đã gần xong, chỉ giây lát là biết có cứu được Đoàn Dự không, ba người không khỏi tim đập thình thịch.
Việc đào đất từ dưới lên tốn chẳng bao nhiêu công sức, đất vừa gỡ ra là rơi ngay xuống, Hoa Hách Cấn đã đứng thẳng lên được rồi ra tay càng nhanh nhẹn, cứ đào một lát lại lắng tai nghe ngóng xem bên trên có tiếng gì không. Đào như thế chừng tàn hai nén hương, xem ra chỉ còn cách mặt đất chừng một thước, Hoa Hách Cấn tay liềm chậm lại, nhẹ nhàng gạt đất ra sau cùng đụng phải một phản gỗ, trong bụng mừng thầm: "Dưới sàn thạch thất có lát ván xem ra càng tiện cho mình".
Y tập trung sức vào ngón tay, vạch vào tấm phản một hình vuông mỗi bề chừng hai thước, tay giữ tấm ván vừa buông ra một miếng gỗ vuông lập tức rơi xuống thành một cái miệng hầm đủ cho một người chui lọt. Hoa Hách Cấn đưa cái xẻng lên múa múa một vòng để phòng có người đột kích, bỗng nghe có tiếng đàn bà hoảng hốt kêu “A” lên. Hoa Hách Cấn nói nhỏ:
- Mộc cô nương chớ kêu, đây là phe bạn đến cứu hai người đây.
Y tung mình vọt từ dưới hầm lên. Vừa đưa mắt nhìn quanh thì lại càng hoảng hơn, nơi đây nào có phải thạch thất đâu mà là một căn phòng sạch sẽ đồ đạc tươm tất, đầy những kệ để đủ các loại bình lớn bé, một thiếu nữ mặt mày kinh hoàng, nép vào một góc.
Thạch thất kia toàn do Bảo Định Đế nói cho Ba Thiên Thạch nghe, Ba Thiên Thạch nói lại cho y nghe, y sợ mưu kế bại lộ nên đâu có dám đến tận nơi quan sát. Thành thử Hoa Hách Cấn tính toán sai, cái sai một li kia tuy không phải đi một dặm nhưng cũng không đúng chỗ.
Nơi y đào đến đúng ngay nhà Chung Vạn Cừu, thiếu nữ kia là Chung Linh, nàng đang ở trong phòng phụ thân lục lọi tìm giải dược để đi cứu Đoàn Dự, ngờ đâu từ dưới đất lại có một người đàn ông chui lên làm sao nàng không khỏi sợ đến mất cả hồn vía?
Ý nghĩ của Hoa Hách Cấn hiện ra thật nhanh: “Hóa ra mình đào lầm chỗ rồi, phải đào đường khác. Có điều tung tích đã lộ, nếu giết cô gái này để diệt khẩu, ngươi trong Vạn Kiếp Cốc thấy xác cô ta, lập tức sẽ tra xét mọi nơi, mình đào chưa tới thạch thất thì địa đạo này đã bị phát giác. Thôi đành tạm thời bắt cô ta xuống dưới hầm, nếu người nào đi tìm ắt sẽ ra ngoài sơn cốc”.
Ngay lúc đó bỗng nghe thấy phòng ngoài có tiếng chân người đi đến. Hoa Hách Cấn đưa tay xua xua Chung Linh ý bảo cô ta không được lên tiếng, xoay người lại chân trái thò vào miệng hầm, tưởng chừng như định chui trở xuống, đột nhiên lật người nhảy vọt lên, tay trái đưa ra bịt ngay miệng cô gái, tay phải vòng ra ôm ngay lưng cô ta kéo lại gần cửa hầm tống xuống bên dưới. Phạm Hoa giơ tay đỡ lấy, bốc ngay một nắm đất nhét vào mồm Chung Linh. Hoa Hách Cấn nhảy trở vào hầm, cầm miếng gỗ vừa cắt ra để trở lại chỗ cũ rồi ghé tai vào khe nghe ngóng tiếng động bên trên.
Chỉ thấy hai người đi vào trong phòng, có tiếng đàn ông nói:
- Hẳn là nàng đối với y “tình cũ nghĩa xưa” vẫn còn nên khi ta muốn cho họ Đoàn bại hoại thanh danh mới hết sức ngăn trở chứ gì?
Có tiếng đàn bà giận dữ đáp:
- Cái gì mà tình cũ nghĩa xưa? Ta đối với y nào có tình ý gì đâu?
Tiếng đàn ông nói:
- Thế thì hay lắm. Hay lắm!
Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Người đàn bà nói:
- Có điều Mộc cô nương là con của sư tỉ ta, cũng là người bên mình, sao ông lại giở trò làm khó nàng ta như thế là sao?
Hoa Hách Cấn nghe đến đây, biết ngay đây là vợ chồng Chung cốc chủ, thấy họ bàn cãi với nhau có liên quan đến Đoàn Dự vội lắng tai nghe. Chung Vạn Cừu nói:
- Sư tỉ nàng toan len lén đến thả Đoàn Dự ra, may có Diệp Nhị Nương phát giác thành ra sư tỉ nàng bây giờ là kẻ địch của chúng ta, nàng còn lo cho con gái mụ ta làm gì? Phu nhân, khách tại đại sảnh toàn là những nhân vật thành danh trong võ lâm nước Đại Lý sao nàng chẳng coi ai ra gì, chỉ lườm họ một cái rồi bỏ xuống đây, chẳng ... chẳng hóa ra mình ... thiếu lễ độ quá hay sao?
Chung phu nhân hậm hực đáp:
- Ông mời bọn đó tới đây để làm gì? Những người đó với mình chẳng có giao tình gì lắm, liệu bọn họ có dám đắc tội với đương kim hoàng đế nước Đại Lý không?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Ta nào có mời họ đến để tiếp tay đâu, nào có phải muốn họ chống đối tạo phản Đoàn Chính Minh? Cũng may là bọn họ đều ở trong thành Đại Lý nên ta tiện thể mời đến uống rượu, để cho mọi người làm chứng tận mắt thấy rõ con trai và con gái Đoàn Chính Thuần ở chung một phòng, dâm uế loạn luân chẳng khác gì loài cầm thú. Hôm nay những tân khách mình mời đến có cả mấy hào kiệt từ Trung Nguyên phương bắc. Sáng sớm mai bọn ta sẽ mở cửa thạch thất cho tất cả mọi người nhìn rõ ràng đức tính của truyền nhân Nhất Dương Chỉ họ Đoàn như thế nào, có phải thú vị lắm không? Thế có phải truyền khắp giang hồ hay sao?
Nói xong y cười sằng sặc ra chiều đắc ý lắm. Chung phu nhân hừ một tiếng nói:
- Hèn hạ, hèn hạ! Vô liêm sỉ, vô liêm sỉ!
Chung Vạn Cừu nói:
- Nàng chửi ai là hèn hạ vô liêm sỉ vậy?
Chung phu nhân đáp:
- Kẻ nào làm những việc hèn hạ vô liêm sỉ thì là đồ hèn hạ vô liêm sỉ, cần gì phải chửi đích danh những người đó.
Chung Vạn Cừu nói:
- Đúng rồi, tên ác đồ Đoàn Chính Thuần tính tình trăng gió tạo nhiều oan nghiệt, để đến nỗi con ruột mình với con gái gian dâm, thật quả là đồ hèn hạ vô liêm sỉ hết nước nói.
Chung phu nhân cười khẩy hai tiếng, không trả lời. Chung Vạn Cừu nói:
- Sao nàng lại cười khẩy? Thế không phải nàng chửi Đoàn Chính Thuần là hèn hạ vô liêm sỉ hay sao?
Chung phu nhân lại cười khẩy nói:
- Mình đánh không lại họ Đoàn, cả đời chui rúc ở trong sơn cốc không dám thò đầu ra thì cũng còn được, ấy gọi là biết xấu hổ cũng đã gần được đức dũng , cũng khá gọi là làm người. Ngờ đâu lại đi dùng thủ đoạn dàn dựng con trai con gái người ta, thiên hạ anh hùng cười đâu có cười y mà sẽ cười Chung Vạn Cừu.
Chung Vạn Cừu nhảy nhổm lên, giận dữ hỏi lại:
- Nàng ... nàng chửi ta là hèn hạ vô liêm sỉ chăng?
Chung phu nhân chảy nước mắt, nghẹn ngào đáp:
- Có ngờ đâu tôi lấy được ông chồng, gửi gấm chuyện trăm năm, lại là ... lại là một người như thế. Sao ... sao tôi khổ thế này?
Chung Vạn Cừu vừa thấy vợ khóc liền cuống quít chân tay nói:
- Được rồi, được rồi! Nàng muốn chửi ta thì cứ chửi cho thỏa thích.
Y đi qua đi lại trong phòng, tính nói vài câu xin lỗi vợ nhưng nhất thời không nghĩ ra cách nào, chỉ nói:
- Cái đó có phải chủ ý ta đâu! Đoàn Dự là do Nam Hải Ngạc Thần đem về, Mộc Uyển Thanh thì do Ác Quán Mãn Doanh bắt giữ, còn Âm Dương Hòa Hợp Tán cũng nào phải của ta? Ta làm gì có loại dược vật hèn hạ xấu xa đó?
Lúc này y chỉ nghĩ được chuyện đổ trách nhiệm qua người khác, Chung phu nhân cười khẩy:
- Nếu như ông biết được thế là hèn hạ xấu xa thì cũng tốt rồi. Nếu quả ông không tán thành chủ ý đó sao không thả Mộc Uyển Thanh ra đi?
Chung Vạn Cừu nói:
- Đâu có được, đâu có được. Nếu thả Mộc Uyển Thanh ra, một mình tên tiểu quỉ Đoàn Dự thì còn có làm được cái trò gì nữa?
Chung phu nhân cười gằn:
- Được rồi, ông đã hèn hạ vô liêm sỉ, tôi cũng sẽ làm trò hèn hạ vô liêm sỉ cho ông thấy.
Chung Vạn Cừu kinh hãi quá vội hỏi rối rít:
- Nàng ... nàng ... nàng làm cái trò gì thế?
Chung Vạn Cừu run run hỏi:
- Nàng ... nàng lại định cùng với Đoàn Chính Thuần ... tên ác tặc Đoàn Chính Thuần tư thông ư?
Chung phu nhân giận dữ hỏi lại:
- Cái gì mà bảo rằng lại định là sao?
Chung Vạn Cừu vội vàng cười làm lành:
- Phu nhân, nàng đừng giận. Ta nói sai, nàng trước nay đâu có ... đâu có đi lại gì với y. Nàng bảo sẽ làm điều hèn hạ vô liêm sỉ cho ta coi, chắc là ... chắc là để đùa chứ gì?
Chung phu nhân không trả lời. Chung Vạn Cừu trong lòng thảng thốt, liếc mắt nhìn thấy trong phòng chai lọ ngổn ngang liền nói:
- Ồ, Cái con bé Linh Nhi thật nghịch ngợm hết nước nói, mới tí tuổi đầu mà đã dám hỏi ta Âm Dương Hòa Hợp Tán là cái gì, không biết nó nghe được ở đâu, rồi vào đây lục lọi tùm lum.
Nói xong y tới bên giá thuốc xếp lại những bình, chân đạp lên miếng gỗ mới bị cắt đứt. Hoa Hách Cấn vội vận kình đỡ lên sợ y phát giác. Chung phu nhân nói:
- Linh Nhi đâu? Nó đi đâu rồi? Sao ông lại muốn đưa nó lên trên sảnh chào khách?
Chung Vạn Cừu cười nói:
- Chúng mình sinh được đứa con xinh đẹp như thế, sao không để cho bằng hữu được thấy qua?
Chung phu nhân đáp:
- Bộ ông muốn đem mỡ nhử mèo chăng? Tôi nhìn thấy đôi mắt hau háu của gã Vân Trung Hạc, nhìn Linh Nhi chăm chăm nhỏ nước dãi, ông phải coi chừng y đó.
Chung Vạn Cừu cười nói:
- Ta chỉ coi chừng có một mình nàng, người đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như bà, ai mà chẳng thèm nhỏ dãi?
Chung phu nhân chép miệng gọi lớn:
- Linh Nhi! Linh Nhi!
Một con a hoàn chạy lên bẩm:
- Tiểu thư vừa mới ở đây mà.
Chung phu nhân gật đầu nói:
- Ngươi đi mời tiểu thư lên, ta có chuyện cần nói.
Chung Linh ở dưới hầm tất cả những gì cha mẹ nói với nhau nghe rõ từng câu từng chữ, khổ nỗi không có cách nào lên tiếng cầu cứu, trong bụng hoảng hốt, mồm bị nhét đầy đất thật là khó chịu. Chung Vạn Cừu nói:
- Nàng nghỉ một lát, ta ra ngoài tiếp khách.
Chung phu nhân lạnh lùng hỏi lại:
- Sao ông không nghỉ để tôi ra tiếp khách?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Thôi cả hai vợ chồng cùng ra vậy.
Chung phu nhân nói:
- Thế khách muốn nhìn khuôn mặt hoa da phấn của tôi hay là muốn nhìn cái mặt ngựa của ông? Bao giờ đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy ông sẽ biết ngay nó thế nào!
Mấy hôm nay Chung Vạn Cừu thật là vô vị, dẫu nói gì ra cũng bị vợ cằn nhằn một chập, biết rằng nàng cùng Đoàn Chính Thuần hai người xa nhau lâu ngày nay gặp lại, gợi nhớ tình xưa nên trong lòng khó chịu. Trong bụng y tuy giận lắm nhưng nào có dám nói lại nửa câu, chỉ đành cười hì hì đi ra đại sảnh, vừa đi vừa nghĩ: “Không biết nàng làm cái gì mà hèn hạ vô liêm sỉ cho ta thấy đây? Nàng lại nói “đến lúc tôi nhìn cũng chán ngấy”, như thế nghĩa là hiện giờ nàng chưa chán, cũng không có gì đáng ngại. Chỉ sợ tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần ...”


1 Chim phượng làm tổ trên cây ngô đồng
2 Lời chú của Kim Dung: Mãi về sau tới đời Đoàn Trí Hưng tức Nhất Đăng đại sư vì tình thế phải chế ngự Âu Dương Phong nên mới phá lệ tổ tiên đem công phu này truyền cho Vương Trùng Dương và Ngư Tiều Canh Độc bốn đại đệ tử (xem Xạ Điêu Anh Hùng truyện)
3Hoàng Thái Đệ là người em nhưng được thừa kế ngôi vua. Trong sử quả có chép Bảo Định hoàng đế tại vị 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho em là Đoàn Chính Thuần tức là Trung Tông hoàng đế. Trung Tông làm vua 12 năm rồi cũng đi tu. Nước ta vào thời kỳ này cũng có nhiều vị hoàng đế bỏ ngôi vào chùa tu nhất là đời Trần các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều trở thànhø những cao tăng thâm hiểu Phật pháp.
4Theo quan chế ngày xưa Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã gọi là Tam Công. Tư Không coi về việc đất đai, lãnh thổ tức thượng thư Bộ Công. Tư Đồ trông coi về nhân dân, hành chánh nên còn gọi là Tướng Quốc (sau gọi là Thừa Tướng). Tư Mã coi về quân sự, binh bị sau gọi là thượng thư Bộ Binh. Ngoài ra còn một chức vụ nữa là Tư Khấu trông coi việc pháp luật (thượng thư Bộ Hình). Nếu đúng nguyên tắc thì việc công bố lệnh bãi bỏ thuế muối phải do quan Tư Đồ đảm trách mới phải.
5 Đây là cờ vây chứ không phải cờ tướng
6Bàng quan bất ngữ chân quân tử,
Tự tác chủ trương đại trượng phu.
7Giữ cho tâm thanh tịnh quên hết cả ta lẫn vật
8 tri sỉ cận hồ dũng


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:10 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Phượng kia làm tổ đã lâu,
Chim loan bỗng chợt ở đâu bay vào.
*
* *

Bảo Định Đế hạ chỉ miễn thuế muối rồi, dân Đại Lý ai nấy cảm ân đức. Đất Vân Nam muối không sản xuất được nhiều, toàn cõi chỉ có các vùng Bạch Tỉnh, Hắc Tỉnh, Vân Long ... chín nơi là có muối nên năm nào cũng phải mua thêm từ đất Thục, thuế rất cao nên những người nghèo khổ các nơi biên địa xa xôi mỗi năm phải ăn nhạt vài ba tháng. Bảo Định Đế biết rằng một khi thuế muối bãi bỏ rồi, Hoàng Mi tăng sẽ tìm cách đi cứu Đoàn Dự ra để trả ơn. Ông trước nay vốn kính phục nhà sư cả về cơ trí lẫn võ công, lại biết hai đệ tử của ông võ công cũng không phải là kém, ba thầy trò một khi cùng ra tay thể nào cũng thành công.
Ông chờ một ngày một đêm vẫn không nghe tin tức gì cả, muốn sai Ba Thiên Thạch đi thám thính động tĩnh, ngờ đâu Ba Tư Không lẫn Phạm Tư Mã, Hoa Tư Đồ chẳng thấy một ai. Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Không lẽ thái tử Diên Khánh lợi hại tới vậy sao, Hoàng Mi sư huynh cùng đệ tử ba người, luôn cả Tam Công trong triều đều bị thất hãm nơi Vạn Kiếp Cốc?”. Ông lập tức cho triệu Hoàng Thái Đệ Đoàn Chính Thuần, Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái cùng bọn Chử Vạn Lý Tứ Đại Hộ Vệ, luôn cả Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng cùng trở lại Vạn Kiếp Cốc xem ra thế nào. Đao Bạch Phượng thương xót con nên xin Bảo Định Đế đem theo ngự lâm quân nhất quyết san bằng Vạn Kiếp Cốc. Bảo Định Đế đáp:
- Đến khi đối đế lắm không cách nào khác mình mới phải tính thế, còn thì cứ theo qui củ giang hồ mà hành sự. Lời dạy của tổ tiên họ Đoàn mấy trăm năm nay chúng ta không thể vi phạm được.
Đoàn người đi đến Vạn Kiếp Cốc thấy Vân Trung Hạc cười hềnh hệch chạy ra đón, vái một cái thật sâu nói:
- Chúng tôi Thiên Hạ Tứ Ác cùng Chung cốc chủ cũng đoán rằng hôm nay thể nào đại giá cũng một lần nữa quang lâm, tại hạ đã ở đây chờ từ lâu. Nếu như các hạ đem theo quân mã thiết giáp, chúng tôi đã cúp đuôi bỏ chạy, mang theo công tử và thiên kim của Trấn Nam Vương theo. Còn như theo qui củ giang hồ, dĩ võ hội hữu thì xin vào trong đại sảnh dùng trà.
Bảo Định Đế thấy đối phương cực kỳ trấn tĩnh ra vẻ không sợ hãi gì, không phải như hôm trước vừa gặp mặt đã xông ra đánh ào ào cho nên không khỏi dè dặt liền vái trả một cái nói:
- Vậy thì hay lắm.
Vân Trung Hạc đi trước dẫn đường cả đoàn người theo vào đại sảnh. Bảo Định Đế vừa bước vào cửa đã thấy bên trong ngồi đầy những giang hồ hào kiệt, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cũng có trong số đó nhưng không thấy thái tử Diên Khánh nên trong bụng cũng dè chừng. Vân Trung Hạc lớn tiếng nói:
- Thiên Nam Đoàn gia chưởng môn nhân Đoàn lão sư đến.
Y không nói “Hoàng Đế bệ hạ nước Đại Lý” mà dùng danh xưng trong võ lâm, rõ ràng muốn theo qui củ giang hồ để giải quyết. Đoàn Chính Minh không những là vua của một nước, chỉ cần nói tới danh vọng địa vị trong võ lâm cũng đã là một tông sư cao thủ ai ai cũng phải kính ngưỡng, quần hùng vừa nghe tới tên ai nấy lập tức đứng lên, chỉ có Nam Hải Ngạc Thần là vẫn nghênh ngang ngồi đó giọng chỏng lỏn:
- Ta tưởng ai hóa ra là gã hoàng đế. Ông khỏe chứ?
Chung Vạn Cừu tiến lên mấy bước nói:
- Chung Vạn Cừu không kịp ra xa nghênh tiếp xin thứ tội cho.
Bảo Định Đế đáp:
- Không dám! Không dám!
Kế đó chia ra chủ khách ngồi xuống. Vợ chồng Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái theo qui củ giang hồ không phải giữ lễ quân thần nên ngồi bên dưới Bảo Định Đế còn bốn người bọn Chử Vạn Lý đứng ở sau lưng nhà vua. Đầy tớ thị tì trong sơn cốc liền bưng trà lên. Bảo Định Đế không thấy Hoàng Mi tăng và bọn Ba Thiên Thạch ở trong phòng, tính toán trong bụng làm cách nào hỏi cho ra. Chung Vạn Cừu nói:
- Đoàn chưởng môn trở lại thăm lần nữa, thật là nở mày nở mặt cho tại hạ biết bao. Cũng may có đông đảo các vị bằng hữu nơi đây, để tôi giới thiệu với Đoàn chưởng môn.
Nói rồi y nói tên từng người trong đại sảnh, ngoài mấy người đến từ trung nguyên mạn tây bắc, còn lại đều là nhân vật thành danh trong nước Đại Lý, Tân Song Thanh, Tả Tử Mục, Mã Ngũ Đức cũng ở trong đó. Phần lớn những người này Bảo Định Đế chưa từng gặp qua nhưng cũng đã nghe tên. Quần hào giang hồ ai nấy đến chào Bảo Định Đế, có kẻ càng thêm khúm núm, cũng có kẻ đặc biệt ngạo mạn, có người thì lấy vai võ lâm hậu bối đến ra mắt. Chung Vạn Cừu nói:
- Chẳng mấy khi Đoàn lão sư đến chơi, nếu tiện xin ở vài ngày để cho các anh em được học hỏi.
Bảo Định Đế nói:
- Xá điệt Đoàn Dự đắc tội với Chung cốc chủ bị bắt đến quí xứ, tại hạ hôm nay đến trước là cầu tình, sau là xin lỗi, mong Chung cốc chủ nể chút bạc diện này tha cho đứa trẻ con không biết phải quấy, tại hạ cảm kích khôn cùng.
Quần hào nghe nói thế ai nấy đều ngầm bội phục: “Từng nghe Đoàn hoàng gia nước Đại Lý lấy qui củ võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất hư truyền. Nơi đây thuộc lãnh thổ nước Đại Lý ông ta chỉ cần sai vài trăm binh mã đến là bắt người được ngay, vậy mà tự mình đích thân đến lấy lời dịu ngọt cầu khẩn”.
Chung Vạn Cừu cười ha hả, chưa kịp trả lời, Mã Ngũ Đức đã xen vào:
- Thì ra Đoàn công tử đắc tội với Chung cốc chủ. Mới rồi Đoàn công tử đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, cùng huynh đệ đến núi Vô Lượng du ngoạn, tại hạ săn sóc không chu đáo, để sinh ra bao nhiêu rắc rối, bây giờ cũng mở lời xin một chút tình.
Nam Hải Ngạc Thần đột nhiên lớn tiếng quát tháo:
- Chuyện của học trò ta, ai cho ngươi dám lèm bèm đâm thọc vào?
Cao Thăng Thái lạnh lùng nói:
- Đoàn công tử là sư phụ ngươi, ngươi đã khấu đầu bái sư rồi không lẽ lại định sổ toẹt đi hay sao?
Nam Hải Ngạc Thần mặt đỏ gay, chửi lại:
- Con bà ngươi chứ, ông đâu có đánh rắm cãi xóa. Lão tử hôm nay giết quách tên sư phụ hữu danh vô thực đó đi, sơ ý bái y làm thầy thật nhục muốn chết được.
Mọi người chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, ai nấy thật ngạc nhiên. Đao Bạch Phượng nói:
- Chung cốc chủ, thả hay không, xin ông nói thẳng một lời.
Chung Vạn Cừu cười đáp:
- Thả chứ! Thả chứ! Dĩ nhiên là thả, tại hạ giữ lệnh lang để làm gì?
Vân Trung Hạc xen vào:
- Đoàn công tử phong lưu anh tuấn, Chung phu nhân Tiếu Dược Xoa lại là tuyệt sắc giai nhân, để Đoàn công tử ở trong cốc có khác gì rước sói vào nhà, dưỡng hổ di hoạn hay sao? Chung cốc chủ dĩ nhiên muốn thả, không thể không thả, không dám không thả.
Quần hào nghe nói thế ai nấy kinh ngạc, vẫn biết tên Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc này ăn nói chẳng giữ lời, ngờ đâu chẳng coi Chung Vạn Cừu ra cái thá gì, quả thực đúng là hung ác không để đâu cho hết. Chung Vạn Cừu giận quá, quay sang nói:
- Vân huynh, chuyện hôm nay xong rồi, tại hạ mong được lãnh giáo cao chiêu của các hạ.
Vân Trung Hạc đáp:
- Hay lắm, hay lắm! Ta vốn có ý giết thằng chồng đoạt cô vợ, vơ vét tiền của chiếm luôn sơn cốc này.
Quần hào ai nấy thất sắc, động chủ Vô Lượng Động Tân Song Thanh nói:
- Anh hùng hảo hán trên giang hồ đã chết sạch đâu, các ngươi Thiên Hạ Tứ Ác dẫu có cao cường nhưng cũng không thể chạy thoát công đạo được.
Diệp Nhị Nương giọng ỏn thót nói:
- Tân đạo hữu, Diệp Nhị Nương này có mạo phạm đến bà đâu, sao lại lôi cả ta vào là thế nào?
Tả Tử Mục nghĩ lại chuyện mụ ta bắt cóc đứa con trai mình, trong bụng vẫn còn thấp thỏm, chỉ dám len lén liếc mụ một cái. Diệp Nhị Nương cười khúc khích nói:
- Tả tiên sinh, tiểu công tử chắc độ này béo tốt trắng trẻo lắm đấy nhỉ?
Tả Tử Mục không dám không trả lời, nói nhỏ:
- Lần trước cháu nó bị cảm lạnh, đến nay bệnh vẫn chưa hết.
Diệp Nhị Nương cười nói:
- Chết chửa, cũng tại ta mà ra. Vậy để ta đến thăm cục cưng Sơn Sơn nhé.
Tả Tử Mục kinh hãi vội đáp:
- Không dám phiền đến đại giá.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Tứ Ác chuyên làm điều càn rỡ độc ác, kết oán thật nhiều. Xem ra những hào sĩ giang hồ này không phải ai cũng về phe với họ, như thế công việc càng dễ giải quyết. Để khi cứu được Dự nhi rồi, ta nhân cơ hội trừ khử chúng đi. Thái tử Diên Khánh đứng đầu Tứ Ác tuy trong họ Đoàn thật, ta không tiện ra tay hạ thủ nhưng rồi cũng có ngày tức nước vỡ bờ”.
Đao Bạch Phượng thấy mọi người nói năng lung tung, lạc hẳn chuyện chính lập tức đứng lên nói:
- Chung cốc chủ nếu đã bằng lòng trả tiểu nhi lại cho chúng tôi vậy xin gọi y ra đây cho mẹ con được gặp nhau.
Chung Vạn Cừu cũng đứng lên nói:
- Vâng!
Đột nhiên y quay sang hầm hầm nhìn Đoàn Chính Thuần, cay đắng nói:
- Đoàn Chính Thuần, ngươi đã có vợ đẹp con khôn như thế sao còn tham lam chưa vừa lòng? Hôm nay ngươi thanh danh tảo địa, không còn mặt mũi nào nữa, cũng là mình làm mình chịu đừng trách Chung Vạn Cừu này.
Đoàn Chính Thuần thấy Chung Vạn Cừu bằng lòng giao trả con mình, liệu rằng sự việc không phải dễ dàng đến thế, đối phương thể nào cũng có sắp đặt âm mưu ngụy kế gì, bây giờ nghe y nói vậy lập tức đứng lên nói:
- Chung cốc chủ, nếu ngươi tính chuyện hại người, Đoàn Chính Thuần này sẽ có cách làm cho ngươi một đời ôm hận.
Chung Vạn Cừu thấy ông tướng mạo đường đường, uy phong lẫm liệt, khí độ sang trọng cao quí, mình không thể nào sánh kịp, phần thì thẹn vì mình hình dáng xấu xí, phần thì lửa ghen bốc lên nên lớn tiếng nói:
- Sự đã đến nước này, Chung Vạn Cừu dẫu có gia táng nhân vong, thịt nát xương tan thì cũng theo tới cùng. Nếu ngươi muốn đòi con thì đi theo ta.
Nói xong hung hăng đi ra khỏi sảnh. Cả đoàn người đi theo Chung Vạn Cừu đến trước bức tường cây, Vân Trung Hạc muốn khoe tài khinh công nhảy vọt qua trước. Đoàn Chính Thuần nghĩ chuyện hôm nay không thể nào giải quyết êm thắm, chi bằng lập uy trước để cho đối phương thấy khó mà chùn lại liền nói:
- Đốc Thành, chặt vài cái cây để bọn mình đi qua.
Cổ Đốc Thành đáp lời vung búa lên, chát chát chát mấy nhát đã đốn đứt một cây đại thụ. Phó Tư Qui hay tay đẩy ra, cái cây gãy lách cách đổ xuống một bên. Cương phủ lấp loáng vung lên liên tiếp, thanh âm bất tuyệt hết cây nọ đến cây kia ngã chỉ giây lát đã chặt đứt năm cây.
Bức tường cây này Chung Vạn Cừu trồng tỉa tốn biết bao công lao tâm huyết, bị Cổ Đốc Thành chặt đứt mất năm cây to, trong bụng tức lắm nhưng chợt nghĩ ngay: “Họ Đoàn Đại Lý hôm nay thật là ê chề, chuyện nhỏ nhặt này việc gì mình phải đôi co làm chi?”. Nghĩ vậy y liền theo chỗ cây hổng đi qua. Sau bức tường cây kia, Hoàng Mi tăng và người áo xanh tay bên trái đẩy vào một cây gậy sắt, trên đầu hơi trắng bốc lên chính là đang tỉ đấu nội lực. Hoàng Mi tăng đột nhiên cầm cái dùi sắt vẽ một cái vòng trên phiến đá xanh. Người áo xanh suy nghĩ một chút, thiết trượng nơi tay phải cũng điểm xuống bàn cờ. Bảo Định Đế chăm chú nhìn bấy giờ mới rõ: “Thì ra Hoàng Mi sư huynh một mặt đánh cờ với thái tử Diên Khánh, một mặt cùng y tỉ thí nội công, cả đấu trí lẫn đấu lực, lối đánh phân chia hai bên thế này cực kỳ nguy hiểm. Thảo nào ông ta không hồi âm cho mình, xem ra cuộc đấu này đã một ngày một đêm rồi nhưng chưa phân thắng bại”.
Ông liếc qua thấy hai bên đang đi vào thế cờ tàn, ai thắng ai bại toàn ở lúc tranh đoạt này, có điều Hoàng Mi tăng đang rơi vào thế yếu cốt chỉ mong khỏi thua. Hai người đệ tử của ông là Phá Si, Phá Sân thì nằm lăn trên mặt đất không động đậy gì được. Thì ra hai nhà sư thấy sư phụ bị nguy, ra tay tấn công người áo xanh nhưng đều bị thiết trượng của y điểm trúng.
Đoàn Chính Thuần tiến lên giải huyệt cho hai người, quát lớn:
- Vạn Lý, các ngươi ra đẩy tảng đả kia thả Dự nhi ra nào!
Bốn người bọn Chử Vạn Lý cùng lên tiếng đáp lời, dàn hàng tiến lên. Chung Vạn Cừu gọi giật lại:
- Khoan đã, các ngươi có biết trong thạch thất kia có những ai không?
Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp:
- Chung cốc chủ, nếu như ngươi dùng thủ đoạn tàn độc đối xử với con ta, thì phải biết ngươi cũng có vợ con chứ?
Chung Vạn Cừu cười khẩy:
- Ha ha, đúng rồi, Chung Vạn Cừu này có vợ có con cũng may không có con trai nên con trai ta không thể loạn luân với con gái ta như loài cầm thú được.
Đoàn Chính Thuần tím mặt lại quát lớn:
- Ngươi nói năng bậy bạ gì đó?
Chung Vạn Cừu đáp:
- Mộc Uyển Thanh là con tư sinh của ngươi có phải không nào?
Đoàn Chính Thuần bực tức nói:
- Thân thế của Mộc cô nương có liên quan gì đến ngươi mà ngươi lắm chuyện?
Chung Vạn Cừu cười đáp:
- Ha ha! Cái đó chưa chắc đã là lắm chuyện đâu. Họ Đoàn Đại Lý, chúa tể trời nam, làm vua một cõi, trong võ lâm cũng danh tiếng lẫy lừng. Này các vị anh hùng hảo hán, tất cả mở mắt ra mà coi, con ruột của Đoàn Chính Thuần loạn luân với nhau ở chỗ này, thành vợ thành chồng chẳng khác gì cầm thú.
Y quay sang ra hiệu cho Nam Hải Ngạc Thần, hai người liền đưa tay đẩy tảng đá chắn trước cửa thạch thất. Đoàn Chính Thuần vội giơ tay chặn lại:
- Khoan đã!
Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đồng thời xuất chưởng, chia ra hai bên tập kích. Đoàn Chính Thuần giơ chưởng lên đỡ, Cao Thăng Thái nghiêng người tiến lên gạt chưởng của Vân Trung Hạc ra ngoài. Ngờ đâu Diệp Vân hai người chỉ dùng hư chiêu, tay phải rút ngay về đánh tay trái ra trúng ngay tảng đá. Tảng đá đó tuy nặng đến mấy nghìn cân nhưng cả bốn người Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cùng hợp lực lập tức lăn qua một bên. Việc này bốn người đã hẹn trước với nhau, hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần không cách nào có thể ngăn trở được.
Thực ra thì Đoàn Chính Thuần cũng muốn sớm gặp lại con nên không hết sức ra tay cản lại. Chỉ thấy tảng đá lăn qua rồi để lộ một cái cửa, nhìn vào chỉ thấy tối om om, không biết bên trong có những gì.
Chung Vạn Cừu cười nói:
- Cô nam quả nữ cởi trần cởi truồng ở trong một căn phòng tối tăm thế này, làm gì còn trong trắng cho nổi? Ha ha, ha ha! Mọi người xem đây!
Trong khi Chung Vạn Cừu còn đang cười sằng sặc thì một thanh niên đầu tóc bù xù, thân trên cởi trần chạy ra chính là Đoàn Dự. Chàng chỉ mặc một cái quần cộc, lộ cả hai đùi, tay bồng một cô gái, người con gái nép vào người chàng, trên người cũng chỉ mặc một chiếc áo cánh, hở cả tay cả đùi lẫn làn da trắng nõn sau lưng.
Bảo Định Đế mặt đỏ như gấc chín, thẹn không để đâu cho hết. Đoàn Chính Thuần cúi đầu không dám ngẩng lên còn Đao Bạch Phượng hai mắt nhòa lệ, lẩm bẩm:
- Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Cao Thăng Thái vội cởi trường bào định choàng lên người Đoàn Dự còn Mã Ngũ Đức muốn lấy lòng anh em họ Đoàn vội vàng tiến lên lấy thân che cho chàng. Nam Hải Ngạc Thần quát lớn:
- Thằng khốn kiếp kia, cút ra mau.
Chung Vạn Cừu cười ha hả cực kỳ đắc ý, đột nhiên tiếng cười tắt lịm, ngưng bặt rồi chuyển thành tiếng kêu thất thanh:
- Linh nhi, ngươi đấy ư?
Quần hào nghe tiếng kêu của y, ai nấy rùng mình, chỉ thấy Chung Vạn Cừu chen ngay lên trước mặt Đoàn Dự, giơ tay đoạt lấy cô gái chàng đang bồng trên tay. Bấy giờ ai nấy đều nhìn rõ mặt cô gái đó rồi, thấy nàng trẻ hơn Mộc Uyển Thanh, thân hình cũng nhỏ nhắn hơn, mặt chưa hết vẻ ngây thơ, nào có phải Mộc Uyển Thanh mà là Chung Linh, con gái của Chung Vạn Cừu.
Đoàn Dự mơ mơ màng màng nhìn thấy chung quanh đầy người, nhận ra bá phụ và cha mẹ mình trong đó, vội vàng đưa Chung Linh cho Chung Vạn Cừu ôm, kêu lên:
- Mẹ, bá phụ, cha!
Đao Bạch Phượng nhào lên ôm chàng vào lòng hỏi dồn:
- Dự nhi, con ... con có sao không?
Đoàn Dự chân tay cuống quít đáp:
- Con ... con cũng không biết nữa!
Chung Vạn Cừu có ngờ đâu hại người lại hại chính mình, người con gái Đoàn Dự ôm từ trong thạch thất ra lại là con gái của y. Y ngơ ngẩn một hồi, bỏ con xuống. Chung Linh lúc này chỉ mặt một chiếc áo cánh và một chiếc quần lót bỗng thấy chung quanh đông người như thế, mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi ngay trường bào ra chùm lên người cô ta, thẳng tay tát một cái khiến cô bé má sưng vù lên, chửi con:
- Đồ mặt dầy! Ai cho mày ở một chỗ với thằng tiểu súc sinh kia?
Chung Linh bị oan tầy liếp, khóc òa lên nhưng không biết cách nào biện bạch. Chung Vạn Cừu vội nghĩ ra: “Mộc Uyển Thanh rõ ràng bị nhốt trong thạch thất, nàng ta đâu có thể nào đẩy nổi tảng đá ắt là vẫn còn ở trong này, mình gọi cô ta ra chia bớt cái nhục cho Linh nhi”. Y liền lớn tiếng gọi:
- Mộc cô nương, mau ra đây!
Y liên tiếp gọi mấy lần, trong thạch thất không nghe tiếng gì cả. Chung Vạn Cừu xông vào, căn phòng chỉ độ vuông vức một trượng, nhìn chung quanh nào có thấy một ai. Chung Vạn Cừu tức đến vỡ lồng ngực, quay mình đi ra lại vung tay đánh con quát lớn:
- Ta phải đánh chết con nhãi thối này!
Từ bên cạnh một người vung tay ra, ngón tay vô danh và ngón tay út phất vào cổ tay y. Chung Vạn Cừu vội vàng rụt tay về tránh, thấy người ngăn mình lại chính là Đoàn Chính Thuần nên nổi cáu:
- Ta dạy con ta, có liên can gì đến mi?
Đoàn Chính Thuần cười hì hì đáp:
- Chung cốc chủ quả thật ưu đãi con tôi quá, sợ y ở một mình không ai bầu bạn nên sai lệnh ái thiên kim đến tiếp, tại hạ cảm kích xiết bao. Nếu đã như thế lệnh ái nay đã thành người của họ Đoàn rồi, tại hạ đâu thể không can thiệp.
Chung Vạn Cừu nổi giận đáp:
- Cái gì mà bảo là người họ Đoàn?
Đoàn Chính Thuần cười nói:
- Lệnh ái ở trong thạch thất với tiểu nhi cũng đã lâu. Cô nam quả nữ cởi trần cởi truồng ở trong một căn phòng tối tăm thế này, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là thế tử Trấn Nam Vương tuy chưa chắc đã lấy con gái ngươi làm chính phi được, nhưng năm thê bảy thiếp có gì mà chẳng xong? Ta với ông thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì? Ha ha! Ha ha! Ha ha ha!
Chung Vạn Cừu nổi cơn cuồng nộ nhịn không nổi liền xông tới vù vù đánh ra liên tiếp ba chưởng. Đoàn Chính Thuần vẫn cười sằng sặc nhưng chiêu nào cũng hóa giải được. Quần hào ai nấy nghĩ thầm: "Họ Đoàn Đại Lý quả nhiên lợi hại thật, không biết họ dùng cách nào mà đem được con gái Chung cốc chủ nhốt chung ở trong thạch thất. Chung Vạn Cừu ở trong nước Đại Lý đâu có dễ gì mà gây sự với Đoàn gia, chỉ thêm khốn khổ”.
Thì ra việc này chính là bọn ba người Hoa Hách Cấn làm. Hoa Hách Cấn bắt được Chung Linh đem xuống hầm rồi, vốn cũng chỉ để cô ta khỏi tiết lộ bí mật địa đạo, về sau nghe vợ chồng Chung Vạn Cừu đối đáp, mới hay Chung Vạn Cừu và thái tử Diên Khánh sắp đặt mưu kế ác độc cốt làm bại hoại thanh danh họ Đoàn. Ba người ở dưới hầm khẽ thương nghị thấy chuyện này liên quan trọng đại thật là khẩn cấp. Đợi cho Chung phu nhân đi khỏi rồi, Ba Thiên Thạch liền lẻn ra ngoài thi triển khinh công, đo đạc kỹ càng phương hướng cùng khoảng cách tới thạch thất để Hoa Hách Cấn đào hầm một lần nữa. Cả bọn ra sức đào thêm một đêm, đến sáng hôm sau mới đến bên dưới căn nhà đá.
Hoa Hách Cấn đào lên căn phòng thấy Đoàn Dự đang lòng vòng chạy lồng lên như người điên nên đưa tay ra tính giữ lại. Ngờ đâu thân pháp Đoàn Dự vừa nhanh nhẹn vừa quái dị, không làm sao bắt được. Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa cùng chui ra hợp lực vây quanh dồn chàng vào giữa. Thạch thất quá nhỏ, Đoàn Dự không còn cách nào chạy trốn, Hoa Hách Cấn vừa nắm được cổ tay chàng bỗng thấy rùng mình một cái chẳng khác gì chạm vào một khối than đỏ vội vàng hết sức giữ lại cố kéo chàng xuống hầm chạy cho nhanh. Ngờ đâu y vừa sử kình, chân khí trong người lập tức cuồn cuộn tuôn ra, nhịn không nổi phải kêu “Ối chao” một tiếng. Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa nắm tay Hoa Hách Cấn lôi ra, ba người cùng kéo mới thoát ra khỏi sức hút của Bắc Minh thần công. Công lực của Tam Công nước Đại Lý so với mấy đệ tử phái Vô Lượng cao hơn nhiều, lại phản ứng rất nhanh, ứng biến thần tốc nhưng cả ba cũng sợ đến toát mồ hôi lạnh, trong bụng nghĩ thầm: “Tà pháp của thái tử Diên Khánh ghê gớm thật”. Họ không còn dám đụng đến người Đoàn Dự nữa.
Đang lúc chưa biết tính sao bên ngoài có tiếng người xôn xao, nghe thấy tiếng Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương cùng mọi người, xen tiếng của Chung Vạn Cừu đang huênh hoang. Phạm Hoa chợt nghĩ ngay ra: “Gã Chung Vạn Cừu này thật là khả ố, mình phải cho y một trận mới được”.
Nghĩ rồi liền cởi áo ngoài của Chung Linh cho Mộc Uyển Thanh mặc vào rồi ôm Chung Linh giao cho Đoàn Dự thần trí nửa tỉnh nửa mê liền đón lấy, bọn Hoa Hách Cấn liền kéo Mộc Uyển Thanh chui vào hang, đóng nắp lại không còn chút dấu vết nào mà kiếm cho ra.
Bảo Định Đế đâu ngờ việc lại xảy ra như thế, thấy cháu mình không việc gì nên cũng khoan tâm lại thêm tức cười, nhất thời không sao nghĩ ra đầu đuôi câu chuyện, nhớ tới Hoàng Mi tăng và thái tử Diên Khánh đang đấu nội lực, đến lúc nghìn cân treo trên sợi tóc, chỉ sơ sẩy một chút là nguy đến tính mạng nên quay lại xem hai người ra sao. Chỉ thấy nhà sư trên trán mồ hôi thành từng hạt như hạt đậu, rơi tong tỏng xuống bàn cờ, còn thái tử Diên Khánh thần sắc vẫn như thường, tưởng chừng không có việc gì cả hiển nhiên ai thắng ai thua đã rõ ràng.
Đoàn Dự thần trí vừa tỉnh táo trở lại liền quan tâm ngay đến bàn cờ ai hơn ai thua, đi đến bên cạnh hai người, ngồi xem kỳ cục, thấy Hoàng Mi tăng nước đi đã lâm vào thế bí, thái tử Diên Khánh đặt thêm một quân lập tức nhà sư không còn nước nào mà đi nữa, chỉ còn nước chịu thua. Thái tử Diên Khánh giơ đầu gậy sắt ra toan điểm xuống bàn cờ nước cuối cùng, nơi đầu gậy chỉ vào chính là quan yếu kết thúc trận đấu, Hoàng Mi tăng không còn cách nào gỡ được. Đoàn Dự hốt hoảng nghĩ thầm: “Mình phải phá rối y mới được”, chàng bèn giơ tay chộp lấy đầu cây gậy.
Gậy của thái tử Diên Khánh đang định để vào Thượng Vị ở điểm tam thất, bỗng thấy bàn tay giật một cái, cánh tay đang vận sức thế như cung căng hết giây, chân lực bỗng nhiên tuôn ra cuồn cuộn. Y kinh hãi không sao kể xiết, liếc mắt ngó qua, thấy hai ngón tay tro và ngón tay cái của Đoàn Dự đang cầm vào đầu gậy. Đoàn Dự chỉ muốn đẩy đầu gậy qua một bên không để cho y đặt quân xuống nước kết thúc nhưng thiết trượng tưởng chừng như đóng chặt trên không trung, không lay chuyển chút nào. Chàng sử kình đẩy mạnh qua, nội lực của thái tử Diên Khánh theo huyệt Thiếu Thương của chàng tuôn vào cơ thể.
Thái tử Diên Khánh còn đang kinh ngạc, trong bụng nghĩ thầm: “Đây là Hóa Công đại pháp của Đinh lão quái Tinh Tú Hải”. Y bèn vận khí xuống đan điền đưa kình lên khắp cánh tay, thiết trượng lập tức có một luồng lực đạo mạnh kinh hồn, rung mạnh một cái, hất văng bàn tay của Đoàn Dự ra ngoài.
Đoàn Dự thấy nửa người ê ẩm dường như muốn ngất đi, thân hình lảo đảo mấy cái, đưa tay chống xuống tảng đá xanh mới gượng lại được. Thế nhưng luồng nội kình hồn hậu của thái tử Diên Khánh phát ra có đến gần một nửa như hòn đá rơi vào bể cả, không biết mất tăm mất tích nơi đâu. Y trong bụng kinh hãi không để đâu cho hết, thiết trượng lao xuống điểm đúng ngay Thượng Vị ở điểm thất bát. Chỉ vì Đoàn Dự ra tay ngăn trở, nội lực của y không còn thu phát được như ý muốn nên khi chọc xuống vẫn còn dư kình tống một cái mạnh. Thái tử Đại Lý kêu thầm: “Hỏng rồi!” vội nhắc gậy lên nhưng ngay chỗ giao điểm hai đường thất bát đã có một cái lỗ nhỏ.
Phàm cao thủ đánh cờ ai cũng theo luật “hạ cờ rồi không gượng lại”, huống chi đã khắc đá làm bàn cờ, đục đá làm quân, nội lực đến đâu đá nát tới đó làm sao có thể bỏ đi không tính? Thế nhưng Thượng Vị ở điểm bảy tám theo phép đánh cờ là che một mắt mình lại, ai biết đánh cờ cũng hiểu “hai mắt là sống, một mắt là chết”. Bàn cờ này thái tử Diên Khánh đang ở thế “hai mắt” là thế để tấn công Hoàng Mi tăng, lẽ nào lại tự chọc mù một mắt mình? Thành thử đi nước này thật không hợp phép đánh cờ có khác gì kẻ mới tập đánh?
Thái tử Diên Khánh kêu thầm: “Cờ đi nhầm một nước là thua cả bàn, phải chăng đây cũng là ý trời mà ra?”. Y là người thân phận tiếng tăm không thể nào tranh chấp với Hoàng Mi tăng thêm nữa, lập tức đứng phắt dậy, hai tay chống xuống phiến đá chăm chăm nhìn một hồi lâu. Đa số quần hào chưa từng gặp y thấy thần tình kỳ quái đều chú mục nhìn vào. Chỉ thấy y nhìn một lát đột nhiên không nói lời nào cầm thiết trượng điểm xuống đất, chẳng khác gì người đi cà khêu, bước đi thật dài bỏ đi mất.
Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, phiến đá xanh rung động lắc lư vỡ ra thành bảy tám mảnh nằm ngổn ngang, bàn cờ chấn động cổ kim kia không còn ở trên đời này nữa. Quần hào kinh hoảng kêu lên, nhìn nhau thất sắc, ngoại trừ Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng và tam đại ác nhân ra, ai nấy nghĩ thầm: “Gã áo xanh người không ra người, quỉ không ra quỉ, sống dở chết dở này võ công sao ghê gớm đến thế”.
Hoàng Mi tăng may mà thắng được ván cờ, hai tay ôm gối, ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ lại tình trạng đầy gian hiểm vừa qua, trong lòng khó mà có thể trấn tĩnh, không hiểu vì sao thái tử Diên Khánh đang thắng rõ ràng lại để một quân cờ bịt mắt mình lại. Không lẽ y thấy Đoàn Chính Minh và các cao thủ đến nên sợ bị vây đánh đành phải chịu thua đào tẩu? Thế nhưng người phe y cũng đâu phải ít đánh chưa chắc đã thua.
Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái cả bọn không hiểu ra sao, thế nhưng cứu được Đoàn Dự rồi, thanh danh họ Đoàn cũng không tổn hại, thái tử Diên Khánh đánh cờ thua bỏ đi, chuyến này coi như toàn thắng, những chuyện không hiểu rõ cũng chẳng cần tra cứu làm gì. Đoàn Chính Thuần nhìn Chung Vạn Cừu cười:
- Chung cốc chủ, lệnh ái đã thành cơ thiếp của tiểu nhi rồi, nay mai sẽ sai người đến đón dâu. Ngu phu phụ thể nào cũng đối đãi tử tế coi như con ruột, cốc chủ cứ yên tâm.
Chung Vạn Cừu đang cơn tức chưa biết đổ đi đâu, nghe Đoàn Chính Thuần châm chọc, soẹt một tiếng, rút ngay thanh đao đeo bên người, chém thẳng xuống đầu Chung Linh, quát lên:
- Tức muốn chết được, ta giết con tiện nhân này rồi tính sau.
Bỗng một người cao nghệu nhảy vụt tới, nhanh nhẹn dị thường bồng ngay Chung Linh như một làn gió chạy vụt đi, phút chốc đã ra ngoài mấy trượng. Bụp một tiếng đao của Chung Vạn Cừu bổ ngay xuống đất, thấy kẻ ôm Chung Linh chạy đi chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc bèn gầm thét:
- Ngươi ... ngươi làm trò gì đó?
Vân Trung Hạc cười đáp:
- Con gái ngươi ngươi không muốn giữ nữa, muốn chém nó chết thì để tặng cho ta.
Vừa nói y vừa chạy vọt xa thêm mấy trượng. Y biết rằng Bảo Định Đế và Hoàng Mi tăng võ công cao hơn mình nhiều, Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái cũng là những tay đáng kể nên đã tính đường ôm được Chung Linh là chạy luôn, thấy Ba Thiên Thạch không có ở nơi đây, mình chỉ cần thi triển khinh công trong đám này không ai đuổi kịp.
Chung Vạn Cừu biết y khinh công rất cao cường, chỉ đành nhảy đong đỏng, ngoạc mồm chửi bới. Cả bọn Bảo Định Đế hôm trước thấy y cùng Ba Thiên Thạch hai người chạy vòng quanh nhà, bây giờ thấy y ôm thêm Chung Linh nhưng nhún nhẩy vẫn nhanh như thường, biết rằng không thể nào làm gì y được. Đoàn Dự chợt động tâm kêu lên:
- Nhạc lão tam, sư phụ ra lệnh cho ngươi mau đoạt tiểu cô nương kia về.
Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, gắt lên:
- Con mẹ ngươi chứ, nói cái gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi bái ta làm thầy, đã khấu đầu rồi định nuốt lời chăng? Lời ngươi là hơi rắm chăng? Ngươi muốn thành đồ khốn kiếp đê tiện chăng?
Nam Hải Ngạc Thần trợn mắt quát lớn:
- Ta nói ra là phải giữ lời, ngươi là sư phụ ta thì đã sao? Ông mà nổi nóng, đến sư phụ cũng chém một đao chết tươi bây giờ.
Đoàn Dự nói:
- Ngươi nhận thế cũng hay. Tiểu cô nương họ Chung kia là vợ ta, tức là sư nương của ngươi, mau mau đoạt lại đem về cho ta. Nếu Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư nương ngươi thì thật đê hèn quá lắm, không còn anh hùng hảo hán chút nào.
Nam Hải Ngạc Thần ngẫm nghĩ thấy lời nói đó quả có lý, bỗng nghĩ ra Mộc Uyển Thanh là vợ của y rồi, sao Chung cô nương này cũng là vợ nữa, bèn hỏi:
- Thế thì ta có cả thảy bao nhiêu sư nương?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi chớ có hỏi lôi thôi, nói trắng ra nếu ngươi không đoạt về được, ngươi sẽ bị giáng xuống làm đệ ngũ ác nhân, không chừng là đệ lục ác nhân.
Nếu tên của Nam Hải Ngạc Thần bị đặt dưới Vân Trung Hạc thì thà giết y đi còn hơn, y rống lên một tiếng, co giò chạy đuổi theo Vân Trung Hạc, kêu lên:
- Mau bỏ sư nương ta xuống.
Vân Trung Hạc chạy vọt lên trước, kêu lên:
- Nhạc lão tam thật là đồ ngốc, ngươi bị mắc hỡm người ta rồi.
Nam Hải Ngạc Thần là kẻ ưa nịnh nay trước mặt mọi người mà Vân Trung Hạc lại bảo y là đồ ngốc bị mắc hỡm người ta nên lập tức nổi cơn thịnh nộ xung thiên, gào lên:
- Nhạc lão nhị này mắc hỡm ai bao giờ?
Y lập tức đề khí rượt theo, hai người kẻ trước kẻ sau chỉ giây lát đã khuất sau một triền núi. Chung Vạn Cừu nổi giận vung đao chém con bây giờ thấy nàng bị ác đồ bắt đi mất, dẫu sao cũng cha con nghĩa nặng, lại nghĩ nếu như vợ hỏi biết trả lời sao cho xuôi, trong bụng hốt hoảng cũng xách đao đuổi theo.
Kế đến Bảo Định Đế cũng cùng quần hào chia tay, cả đoàn người rời Vạn Kiếp Cốc quay về phủ Trấn Nam Vương thành Đại Lý. Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch từ trong phủ đi ra nghênh tiếp, bên cạnh là một thiếu nữ ăn mặc sang trọng mặt mày xinh xắn chính là Mộc Uyển Thanh.
Phạm Hoa bẩm lại sơ qua cho Bảo Định Đế việc Hoa Hách Cấn đào địa đạo đem Chung Linh bỏ vào thạch thất, cứu được Mộc Uyển Thanh ra sao, mọi người mới hay Chung Vạn Cừu hại người không xong quay lại tự hại mình là do như thế, ai nấy cười ha hả.
Âm Dương Hòa Hợp Tán kia tuy dược tính mãnh liệt thật nhưng không phải là thuốc độc, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh chỉ cần uống vài viên thuốc giải nhiệt, uống mấy bát nước lã là tiêu giải ngay.
Tới trưa vương phủ thiết yến, mọi người cao hứng nói chuyện ở Vạn Kiếp Cốc, ai nấy đều đồng ý chuyến này Hoàng Mi tăng và Hoa Hách Cấn hai người công lao to hơn cả, nếu như không có Hoàng Mi tăng cầm chân được Đoàn Diên Khánh thì việc đào hầm thể nào cũng bị y phát giác.
Đao Bạch Phượng đột nhiên nói:
- Hoa đại ca, tôi còm muốn đại ca cất công thêm một phen nữa.
Hoa Hách Cấn đáp:
- Vương phi sai bảo gì chúng tôi xin tuân lệnh.
Đao Bạch Phượng đáp:
- Xin đại ca sai người đi lấp cái đường hầm đó lại.
Hoa Hách Cấn ngạc nhiên không hiểu nguyên do ra sao nhưng cũng đáp:
- Vâng!
Đao Bạch Phượng lườm Đoàn Chính Thuần nói:
- Cái hầm đó thông vào cư thất của Chung phu nhân, nếu không lấp đi trong đám mình ắt có một vị nhân huynh tối nào cũng theo đó mà lẻn vào.
Mọi người cười ha hả. Mộc Uyển Thanh thì cứ chốc chốc lại nhìn trộm Đoàn Dự một cái, mỗi khi bốn mắt chạm nhau, hai người đều quay đi. Nàng biết rằng kiếp này không còn cách gì có thể cùng chàng nên duyên chồng vợ, nghĩ lại mấy ngày qua hai người cùng nhau ở trong thạch thất không khỏi đau lòng. Mọi người bàn tiếp chuyện Chung Linh sẽ thành cơ thiếp của Đoàn Dự, tuy nàng bị Vân Trung Hạc bắt đi nhưng Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu hai người liên thủ thể nào cũng cứu nàng về được. Bảo Định Đế cũng dặn Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người ăn trưa xong sẽ đi thám thính tin tức Chung Linh tìm cách bảo vệ. Mộc Uyển Thanh càng nghe càng căm tức từ trong bọc lấy ra chiếc hộp vàng nhỏ, chính là tín vật mà hôm trước Chung phu nhân giao cho Đoàn Dự yêu cầu về nhờ phụ thân đi cứu Chung Linh để trước mặt Đoàn Chính Thuần nói:
- Cam Bảo Bảo đưa cho ông vật này!
Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại:
- Cái gì thế?
Mộc Uyển Thanh hậm hực đáp:
- Đó là ngày sinh tháng đẻ của con nhãi Chung Linh.
Nói rồi chỉ vào Đoàn Dự:
- Cam Bảo Bảo nhờ anh ấy đưa lại cho ông.
Đoàn Chính Thuần cầm cái hộp, trong lòng chua xót, đã sớm nhận ra đây chính là cái hộp ông đã tặng cho Cam Bảo Bảo đêm hôm hai người gặp gỡ. Ông mở hộp ra thấy bên trong là một mảnh giấy nhỏ màu hồng, trên viết một hàng chữ nhỏ: “Giờ Sửu, ngày mồng năm, tháng Chạp năm Ất Mùi”, nét nghiêng nghiêng ngả ngả chính là thủ bút của Cam Bảo Bảo.
Đao Bạch Phượng lạnh lùng nói:
- Thế thì tốt quá rồi, người ta đã gửi sinh thần bát tự đến rồi đó.
Đoàn Chính Thuần lật tờ giấy lại thấy phía sau viết mấy hàng chữ thật nhỏ: “Đau lòng mỏi mòn chờ đợi, bao nhiêu mơ ước tan ra mây khói. Ngặt vì con không lẽ không cha, mười sáu năm xưa ngày đêm khắc khoải mong chàng, việc chẳng đặng đừng, đến tháng năm năm Ất Mùi về nhà họ Chung”. Nét chữ mảnh mai nếu không ghé mắt nhìn kỹ dường như không nhìn ra được. Đoàn Chính Thuần nghĩ đến mối thâm tình của Cam Bảo Bảo đôi mắt không khỏi đỏ hoe, đột nhiên chợt nghĩ ra ngay hàm nghĩa của những hàng chữ này:
Bảo Bảo tháng năm năm Ất Mùi lấy chồng, vậy mà Chung Linh ngày mồng năm tháng mười hai năm đó đã sinh, hẳn không phải con của Chung Vạn Cừu. Bảo Bảo mòn mỏi trông chờ nhưng ta không đến nói là “con không lẽ không cha”, lại thêm “việc chẳng đặng đừng” nên mới phải xuất giá, ắt cũng bởi vì nàng đang mang thai không thể để xẩy ra cảnh không chồng mà chửa. Thế ra Chung Linh chính là con ta, đúng rồi ... đúng rồi ... vào thời gian đó, mùa xuân mười sáu năm về trước ta cùng nàng vui vầy chưa đầy một tháng đã có thai con bé Chung Linh ...
Ông nghĩ ra việc đó buột miệng kêu lên:
- Chao ôi! Không xong rồi!
Đao Bạch Phượng hỏi lại:
- Cái gì mà không xong?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu, cười gượng:
- Gã Chung Vạn Cừu kia ... gã kia tâm tính tồi bại, sắp xếp độc kế hại cả nhà họ Đoàn ta, mình không thể nào ... không thể nào thông gia với y được. Việc này nhất định là không xong rồi.
Đao Bạch Phượng thấy chồng ấp a ấp úng, hẳn là có điều gì muốn lấp liếm nên cầm lấy tờ giấy hồng điều trong tay ông đọc qua, chỉ hơi suy nghĩ đã hiểu ngay đầu đuôi câu chuyện, nhịn không nổi cười khẩy nói:
- Thì ra ... thì ra ... ha ha, con bé Chung Linh cũng lại là con riêng của ông nốt.
Lửa giận bốc lên, bà lật tay tát ngay ông một cái, Đoàn Chính Thuần vội nghiêng đầu né tránh. Trong sảnh ai nấy đều sượng sùng, Bảo Định Đế mỉm cười:
- Nếu quả như thế thì việc này không nên bàn tới nữa ...
Bỗng từ ngoài sảnh một gia tướng đi vào, hai tay trình lên một tờ danh thiếp, khom lưng nói:
- Hổ Lao Quan Quá Ngạn Chi Quá đại gia xin vào yết kiến vương gia.
Đoàn Chính Thuần biết Quá Ngạn Chi là đại đệ tử của Kha Bách Tuế, chưởng môn phái Phục Ngưu, có ngoại hiệu là Truy Hồn Tiên, nghe nói võ công cũng khá lắm có điều trước nay chưa hề qua lại với họ Đoàn, không biết đường xá xa xôi đến đây làm gì, vội vàng đứng lên quay sang nói với Bảo Định Đế:
- Người này không biết đến có chuyện chi để tiểu đệ ra xem thế nào.
Bảo Định Đế mỉm cười gật đầu, nghĩ thầm: “Gã Truy Hồn Tiên này đến quả đúng lúc, may cho ngươi thừa cơ thoát thân”. Đoàn Chính Thuần đi ra khỏi hoa sảnh, Cao Thăng Thái và Chử, Cổ, Phó, Chu đi theo sau. Vừa bước vào đại sảnh thấy ngay một người đàn ông cao to ngồi ở chiếc ghế phía tây, mặc đồ tang đầu đội nón sô gai, mặt mày đầy bụi bậm, hai mắt sưng húp, hiển nhiên nhà có người chết, thấy Đoàn Chính Thuần đi vào lập tức đứng lên cung thân hành lễ nói:
- Hà Nam Quá Ngạn Chi bái kiến vương gia.
Đoàn Chính Thuần hoàn lễ đáp:
- Quá lão huynh quang lâm Đại Lý, tiểu đệ Đoàn Chính Thuần không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ tội cho.
Quá Ngạn Chi nghĩ thầm: “Vẫn thường nghe anh em họ Đoàn Đại Lý tuy đại phú quí nhưng không kiêu ngạo, quả thật danh bất hư truyền”. Y bèn nói:
- Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu thảo dã, xin cầu kiến vương gia quả là mạo muội.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Tước vị “vương gia” chẳng qua chỉ do người đời đặt ra, còn tiếng tăm của Quá lão huynh thì tại hạ vẫn hằng kính ngưỡng, chúng mình nên coi như anh em việc gì phải nệ vào hư lễ như thế.
Nói xong giới thiệu Cao Thăng Thái rồi chia ra ngôi chủ khách ngồi xuống. Quá Ngạn Chi nói:
- Vương gia, sư thúc chúng tôi ở nhờ trong vương phủ đã lâu cũng mong được báo cho biết để xin gặp mặt.
Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại:
- Sư thúc của Quá huynh ư?
Ông nghĩ thầm: “Trong phủ ta làm gì có người của phái Phục Ngưu đâu?”. Quá Ngạn Chi đáp:
- Tệ sư thúc đổi tên thay họ, tị nạn trong tôn phủ, không dám nói rõ cho vương gia hay, quả thực đại đại bất kính, mong vương gia khoan hồng đại lượng đừng trách phạt, tại hạ xin tạ tội nơi đây.
Nói xong đứng lên vái dài. Đoàn Chính Thuần một mặt hoàn lễ, một mặt tính toán nhưng quả thực không nghĩ ra được ai là sư thúc của y? Cao Thăng Thái cũng suy nghĩ: “Ai đấy nhỉ? Ai đấy nhỉ?”. Ông duyệt qua hết một loạt tất cả mọi người lẫn tên tuổi chợt nhớ ra: “Chắc hẳn là y rồi!” bèn quay sang tên gia đinh bên cạnh nói:
- Đến trướng phòng mời Hoắc tiên sinh nói là Hà Nam Truy Hồn Tiên Quá đại gia đến đây có chuyện quan trọng bẩm với Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối, mời quá bộ ra ngoài sảnh.
Gã gia đinh tuân lời đi vào, chẳng bao lâu từ hậu đường có tiếp bước chân lẹp xẹp của một người ra vẻ lôi thôi nói:
- Ngươi làm thế này thì cái miệng ăn chực của ta kể như hết chỗ rồi.
Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối, sắc mặt hơi đổi nghĩ thầm: “Không lẽ Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền lại ẩn náu nơi đây? Sao ta lại không biết? Sao Cao hiền đệ không cho mình hay?”. Chỉ thấy một người hình dáng bệ rạc cười hì hì đi ra, chính là người làm tạp vụ trong trướng phòng Hoắc tiên sinh. Người này nếu như ngày ngày không say túy lúy thì cũng cùng bọn đầy tớ bài bạc, thật là biếng nhác, chỉ vì y được cái tiền bạc phân minh nên hơn mười năm nay vẫn để y làm ở đó. Đoàn Chính Thuần hết sức kinh ngạc: “Hoắc tiên sinh này có thực là Thôi Bách Tuyền không? Ta đúng là có mắt không tròng, để cho gã cách nào trà trộn vào đây?”. Cũng may Cao Thăng Thái mở miệng gọi đúng ngay y ra, Quá Ngạn Chi ắt nghĩ rằng trong phủ Trấn Nam Vương đều đã biết cả”.
Gã Hoắc tiên sinh kia vốn dĩ bảy phần say, ba phần tỉnh, đầu óc lúc nào cũng mơ mơ màng màng, vừa thấy Quá Ngạn Chi mặc đồ tang không khỏi giật mình kinh hãi, ấp úng:
- Ngươi ... sao lại ...
Quá Ngạn Chi tiến lên mấy bước, phục xuống vái lạy, cất tiếng khóc òa lên nói:
- Thôi sư thúc, sư phụ ... sư phụ của cháu ... đã bị người ta giết chết rồi ...
Gã Hoắc tiên sinh Thôi Bách Tuyền kia mặt liền biến sắc, khuôn mặt gầy gò vàng ệch đầy vẻ cảnh giác, thủng thẳng hỏi:
- Kẻ thù là ai thế?
Quá Ngạn Chi khóc nói:
- Tiểu điệt bất tài nên không tra xét được cho minh bạch kẻ thù là ai nhưng đoán chừng là người của nhà Mộ Dung đất Cô Tô.
Trên mặt Thôi Bách Tuyền hiện ra một vẻ hoảng hốt nhưng nét sợ hãi chỉ thoáng qua, trầm giọng hỏi:
- Việc này cần phải bàn thảo cho kỹ.
Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái hai người nhìn nhau cùng nghĩ: “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, phái Phục Ngưu gây thù chuốc oán với họ Mộ Dung đất Cô Tô, thù này e rằng khó mà báo được”. Thôi Bách Tuyền buồn bã nói với Quá Ngạn Chi:
- Quá hiền điệt, sư huynh ta bỏ mang qui tiên như thế nào, tình hình ra sao, ngươi thuật lại cho rõ.
Quá Ngạn Chi đáp:
- Thù thầy cũng chẳng khác gì thù cha, một ngày chưa báo, tiểu điệt ăn ngủ không yên. Xin sư thúc lập tức lên đường, vừa đi tiểu điệt vừa bẩm lại để khỏi mất thì giờ.
Thôi Bách Tuyền đoán chừng y hiềm đại sảnh có nhiều tai mắt không tiện nói ra chứ không phải chỉ cốt để tranh thủ một giờ một khắc, trong bụng tính toán: “Ta ở nhờ trong phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm không lộ hình tích có ngờ đâu Cao hầu gia lại khám phá ra hành tàng của ta. Nếu ta không lên tiếng xin lỗi Đoàn vương gia thì thật có tội lớn với nhà họ Đoàn. Huống chi việc tìm kiếm họ Mộ Dung để báo thù cho sư huynh, sức một mình ta không thể nào làm được. Nếu được họ Đoàn cho người giúp đỡ thì tình hình sẽ khác hẳn. Bên thù bên bạn như thế thật khác nhau xa”. Y đột nhiên đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, quì xuống liên tiếp khấu đầu, tiếng nghe bình bịch.
Việc đó quả ngoài dự liệu của mọi người, Đoàn Chính Thuần vội vàng đưa tay đỡ lên, ngờ đâu thân hình Thôi Bách Tuyền chẳng khác gì đóng chặt xuống đất, cứng nhắc không động đậy. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Gã tửu quỉ này gớm thật, hóa ra võ công cao siêu như thế, đám đánh lừa ta”. Ông vận kình lên hai cánh tay hất lên, Thôi Bách Tuyền không dám vận lực kháng cự lại nữa thừa thế đứng lên nhưng vừa đứng thẳng người thấy toàn thân thật là khó chịu, thật chẳng khác nào một chiếc thuyền con đang bị vùi dập trong cơn sóng to gió cả, biết là Đoàn Chính Thuần ra tay trừng trị mình. Y nghĩ thầm nếu như mình vận công đề ngự cơn giận của Trấn Nam Vương ắt sẽ chẳng tiêu, không chừng còn nghi mình vào trong vương phủ nằm vùng, có mưu đồ chuyện gì gian ác nên thừa cơ chân khí trong người còn nhộn nhạo lập tức ngồi thụp xuống, thuận thế ngã lăn ra dùng ra làm như đau đớn lắm kêu lên:
- Ối chao!
Đoàn Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo y lên, vừa kéo vừa véo y một cái, lập tức khó chịu trong người y liền tiêu giải. Thôi Bách Tuyền nói:
- Bẩm vương gia, Thôi Bách Tuyền này bị kẻ thù bức bách không có chỗ nào dung thân, nên phải mặt dày mày dạn trốn trong quí phủ để dựa uy danh vương gia mới sống được đến hôm nay. Thôi Bách Tuyền chưa từng thổ lộ chân tướng cho vương gia hay biết, quả thực đáng chết vạn lần.
Cao Thăng Thái tiếp lời:
- Thôi huynh việc gì phải quá khiêm tốn như thế? Vương gia vốn dĩ biết rõ lai lịch thân thế các hạ rồi, nhưng vì Thôi huynh kín đáo không tiết lộ nên vương gia cũng để yên không nói ra. Không lẽ vương gia biết mà người khác không biết hay sao? Hôm trước thế tử đối phó với Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã lôi Thôi huynh ra nhận làm sư phụ đấy ư? Thế tử biết rằng trong phủ chỉ có mình Thôi huynh là có thể đương đầu được với tên ác tặc họ Nhạc.
Kỳ thực hôm đó Đoàn Dự lôi Thôi Bách Tuyền ra mạo xưng sư phụ, chẳng qua chó ngáp phải ruồi, trong phủ chỉ có y là hình dáng nhếch nhác hơn cả nên đem ra làm trò cười trêu ghẹo Nam Hải Ngạc Thần. Thế nhưng lúc này Thôi Bách Tuyền nghe thế lại càng tin rằng thật trong lòng không khỏi xấu hổ ngầm.
Cao Thăng Thái nói tiếp:
- Vương gia trước nay vốn hiếu khách, không nói Thôi huynh vốn không có ác ý âm mưu gì với Đại Lý, mà nếu như có cái bụng làm chuyện bất lợi vương gia cũng đại lượng bao dung, lấy lòng thành mà đối xử, Thôi huynh việc gì phải đa lễ.
Ông ta nói thế là có ý rằng chỉ vì ngươi không có làm điều gì xấu xa nên còn dung cho ngươi tới hôm nay, nếu không thì đã thanh toán ngươi rồi. Thôi Bách Tuyền nói:
- Cao hầu gia minh giám, tuy nói là thế nhưng họ Thôi này vì sao lại vào ở ẩn trong vương phủ, trước khi cáo từ cũng nên bẩm rõ, nếu không quả là quá ư thiếu chính đại quang minh. Có điều việc này liên quan đến nhiều người khác, Thôi Bách Tuyền xin được trình riêng cho vương gia.
Đoàn Chính Thuần gật đầu quay sang Quá Ngạn Chi nói:
- Quá huynh, thâm cừu của sư môn có liên quan trọng đại không phải là việc một ngày một giờ, chúng ta từ từ tính toán cũng không muộn.
Quá Ngạn Chi chưa kịp trả lời, Thôi Bách Tuyền đã chen vào nói trước:
- Vương gia sai bảo thế nào chúng tôi xin tuân lệnh.
Ngay lúc đó một gia tướng lại tới ngay cửa sảnh khom lưng bẩm:
- Khải bẩm vương gia, phương trượng chùa Thiếu Lâm phái hai vị cao tăng đến trình một phong thư.
Chùa Thiếu Lâm từ đời Đường tới nay được xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm. Đoàn Chính Thuần vừa nghe nói thế vội vàng đứng lên, chạy ra ngoài mái hiên nghênh tiếp. Chỉ thấy hai nhà sư trung niên được hai gia tướng dẫn qua sân. Nhà sư hình dáng khô khan khom lưng chắp tay hành lễ nói:
- Tiểu tăng là Tuệ Chân, Tuệ Quan của chùa Thiếu Lâm tham kiến vương gia.
Đoàn Chính Thuần ôm quyền hoàn lễ nói:
- Hai vị đường xa quang lâm, quả thật mệt nhọc, xin mời vào sảnh dùng trà.
Đến trong sảnh hai nhà sư không chịu ngồi, Tuệ Chân nói:
- Bẩm vương gia, bần tăng phụng mệnh phương trượng tệ tự đến trình một phong thư cho Bảo Định hoàng gia và Trấn Nam Vương gia.
Nói rồi từ trong bọc lấy ra một cái bao giấy dầu, từng lớp từng lớp mở ra để lộ một bao thư màu vàng, hay tay dâng lên Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần cầm lấy nói:
- Hoàng huynh hiện cũng đang ở nơi đây, hai vị cũng may gặp được ngay.
Ông quay qua nói với Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi:
- Hai vị dùng qua điểm tâm, đợi rồi mình sẽ nói chuyện cho kỹ càng.
Nói xong đưa Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người vào trong. Lúc đó Bảo Định Đế đang ở trong noãn các cùng Hoàng Mi tăng uống trà đàm luận còn Đoàn Dự ngồi một bên lắng nghe, thấy Tuệ Chân, Tuệ Quan tiến và đều đứng cả dậy. Đoàn Chính Thuần đưa phong thư, Bảo Định Đế mở ra coi một lượt, thấy lá thư đó gửi cho hai anh em mình, bên trên là một đoạn dài những gì "nghe anh danh đã lâu nhưng chưa từng gặp", "uy chấn trời Nam, nhân đức bao trùm", "toàn dân ngưỡng mộ, hào kiệt theo về", "xiển hộ Phật pháp, hoằng dương thánh đạo" vân vân những câu khách sáo nhưng khi đến chính đề thì là:
Tệ sư đệ Huyền Bi dẫn bốn người đồ đệ đến thăm quí quốc, vì tình cùng sùng kính Phật tổ, nghĩa đồng đạo trong võ lâm, mong được chiếu cố đến.
Bên dưới thự danh đề là “Thích Huyền Từ chùa Thiếu Lâm chắp tay trăm lạy”.
Bảo Định Đế đứng dậy đọc lá thư để tỏ lòng kính trọng chùa Thiếu Lâm, Tuệ Chân và Tuệ Quan cung kính đứng một bên thõng tay hầu hạ. Bảo Định Đế nói:
- Xin hai vị ngồi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm nếu đã có pháp dụ, chúng tôi là đệ tử Phật môn, là một phái trong võ lâm, nguyện đem hết sức để tuân lệnh. Huyền Bi đại sư tinh thông Phật học, võ công cao cường, anh em chúng tôi vẫn hằng kính ngưỡng, không biết pháp giá của đại sư bao giờ mới tới? Anh em chúng tôi xin quét tháp chờ đợi.
Tuệ Chân, Tuệ Quan đột nhiên quì gục xuống, bình bình khấu đầu rồi cùng khóc òa lên. Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần cùng kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ Huyền Bi đại sư chết rồi”. Bảo Định Đế đưa tay đỡ lên nói:
- Chúng mình võ lâm đồng đạo, không nên dùng đại lễ làm gì.
Tuệ Chân đứng lên quả nhiên trả lời:
- Sư phụ chúng tôi viên tịch rồi.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Lá thư này vốn để Huyền Bi đại sư tự mình đem đến, không lẽ ông ta chết trong cảnh giới nước Đại Lý?”. Ông bèn nói:
- Huyền Bi đại sư tây qui, cửa Phật mất đi một cao tăng, võ lâm mất đi một cao thủ, quả thực đáng tiếc. Không biết Huyền Bi đại sư viên tịch vào ngày nào?
Tuệ Chân đáp:
- Tháng trước phương trượng sư bá được tin Thiên Hạ Tứ Đại Ác Nhân định đến gây sự với Đoàn hoàng gia và Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Họ Đoàn Đại Lý uy chấn thiên nam, đâu có sợ gì bọn Tứ Đại Ác Nhân nhưng sợ hai vị không biết khiến chấp sự, bộ hạ có thể bị ám toán nên sai sư phụ chúng tôi dẫn bốn đệ tử đi đến Đại Lý bẩm trước cho hoàng gia để do hoàng gia sai bảo.
Bảo Định Đế hết sức cảm kích, nghĩ thầm: “Thảo nào phái Thiếu Lâm mấy trăm năm nay được mọi người kính phục, Huyền Từ đại sư coi việc an nguy của võ lâm như việc của mình, bọn ta tuy ở chốn xa xăm man di nhưng cũng quan tâm tới. Trong thư nói chúng ta chiếu cố cho thầy trò Huyền Bi đại sư nhưng thực ra là sai người đến trước là báo tin, sau là tiếp tay chống giữ ”.
Ông bèn hơi khom mình nói:
- Long tình hậu ý của phương trượng đại sư, anh em chúng tôi không biết phải làm sao báo đáp cho được.
Tuệ Chân đáp:
- Hoàng gia quá khiêm tốn đấy thôi, thầy trò chúng tôi lên đường xuôi nam ngày hai mươi tám tháng trước ghé lại chùa Thân Giới ở châu Lục Lương nghỉ qua đêm, ngờ đâu sáng sớm ngày hai mươi chín, bốn anh em chúng tôi trở dậy, thì thấy sư phụ ... sư phụ chúng tôi bị người ta ám toán, chết ngay trên đại điện chùa Thân Giới rồi ...
Nói đến đây ông ta nghẹn ngào không thành tiếng. Bảo Định Đế thở dài một tiếng hỏi lại:
- Huyền Bi đại sư trúng phải ám khí độc hại chăng?
Tuệ Chân đáp:
- Không phải vậy.
Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng, Đoàn Chính Thuần lẫm Cao Thăng Thái đều tỏ vẻ ngạc nhiên, cùng nghĩ: “Cứ như võ công của Huyền Bi đại sư, nếu không phải là trúng phải ám khí “kiến huyết phong hầu”, dẫu là địch nhân ở sau lưng đột nhiên tập kích, cũng không thể nào không còn sức kháng cự mà chết ngay. Trong nước Đại Lý ta có cao thủ nào có bản lãnh cao như thế?”.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Hôm nay mồng ba, tối ngày hai mươi tám tháng trước tức là bốn ngày rồi. Dự nhi bị bắt tại Vạn Kiếp Cốc là ngày hai mươi bảy.
Bảo Định Đế gật đầu:
- Không phải là Tứ Đại Ác Nhân.
Đoàn Diên Khánh mấy ngày đó đều ở tại Vạn Kiếp Cốc quyết không cách nào phân thân ra để đi Lục Lương Châu giết người, nếu có phải Đoàn Diên Khánh chăng nữa cũng chưa chắc đã có thể giết chết Huyền Bi đại sư không một tiếng động như thế. Tuệ Chân nói:
- Chúng tôi đỡ sư phụ dậy thì người lão nhân gia đã lạnh, viên tịch từ lâu, trong đại điện không có dấu vết gì chứng tỏ đã động thủ. Chúng tôi chạy ra ngoài chùa tìm kiếm, các sư huynh trong chùa Thân Giới cũng chạy theo tìm kiếm giùm nhưng mấy chục dặm không hề thấy một chút tung tích nào của hung thủ.
Bảo Định Đế buồn bã nói:
- Huyền Bi đại sư vì họ Đoàn ta mà viên tịch, lại bị nạn ngay trong cảnh giới nước Đại Lý, dù tình dù lý, anh em chúng tôi nhất quyết không thể đứng ngoài.
Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư cùng quì xuống bái tạ, Tuệ Chân nói:
- Bốn người anh em chúng tôi cùng phương trượng chùa Thân Giới Ngũ Diệp đại sư bàn thảo xong tạm quàn pháp thể của sư phụ chúng tôi tại chùa Thân Giới, không dám hỏa hóa để tiện việc sau này chưởng môn sư bá có kiểm tra. Hai vị sư huynh quay về chùa Thiếu Lâm bẩm lại cho chưởng môn sư bá, tiểu tăng và sư đệ Tuệ Quan thì đi Đại Lý, bẩm cho hoàng gia và Trấn Nam Vương.
Bảo Định Đế nói:
- Phương trượng Ngũ Diệp tuổi cao đức trọng, kiến thức uyên bác, thông hiểu nhiều chuyện trong võ lâm, vậy lão nhân gia dạy thế nào?
Tuệ Chân đáp:
- Ngũ Diệp phương trượng dạy rằng: mười phần thì có đến tám chín, hung thủ là người trong họ Mộ Dung đất Cô Tô.
Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đưa mắt nhìn nhau, trong bụng cùng nghĩ: “Lại là Cô Tô Mộ Dung nữa”. Hoàng Mi tăng từ nãy đến giờ chưa mở miệng đột nhiên xen vào:
- Phải chăng Huyền Bi đại sư bị địch nhân đánh một chiêu Đại Vi Đà Chử ngay giữa ngực mà viên tịch chăng?
Tuệ Chân kinh hãi hỏi lại:
- Đại sư đoán không sai, không hiểu tại sao ... tại sao ...
Hoàng Mi tăng đáp:
- Ta từng nghe công phu Đại Vi Đà Chử của Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm là một tuyệt học trong võ lâm, người nào trúng phải gân cốt đều đứt rời. Môn võ công này quả là ghê gớm nhưng dẫu sao cũng quá ư bá đạo, dường như không thích hợp cho đệ tử Phật môn ... Ôi!
Đoàn Dự cũng xen vào:
- Đúng thế! Môn công phu này quá ư độc địa!
Tuệ Chân, Tuệ Quan nghe Hoàng Mi tăng bình luận sư phụ của mình, trong bụng khó chịu nhưng kính trọng ông là tiền bối cao tăng không dám nói gì, bỗng nghe Đoàn Dự ở ngoài chõ mồm vào, không khỏi hầm hầm nhìn chàng. Đoàn Dự làm như không thấy chẳng coi vào đâu.
Đoàn Chính Thuần hỏi:
- Sư huynh tại sao biết được Huyền Bi đại sư trúng phải đại Vi Đà Chử mà viên tịch?
Hoàng Mi tăng thở dài:
- Phương trượng chùa Thân Giới Ngũ Diệp đại sư đoán rằng hung thủ thuộc họ Mộ Dung đất Cô Tô ắt không phải là đoán sằng vô căn cứ. Đoàn nhị đệ, Cô Tô Mộ Dung có một câu rằng:
Hễ ai có tài nghệ gì,
Ta đem trả ngược lại về cho ngươi.
Chẳng hay hiền đệ có biết chăng?
Đoàn Chính Thuần trầm ngâm đáp:
- Câu đó tiểu đệ đã từng nghe qua, có điều không hiểu rõ lắm nghĩa lý của nó.
Hoàng Mi tăng lẩm bẩm:
- Gậy ông đập lưng ông, hừ, gậy ông đập lưng ông ...
Trên mặt ông đột nhiên lộ vẻ sợ hãi. Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần quen biết ông ta đã mấy chục năm chưa bao giờ thấy ông ta lộ vẻ kinh hãi, mới đây ông ta đụng độ với thái tử Diên Khánh rõ ràng đã vào thế thua, tuy bề ngoài hết sức gay cấn nhưng vẫn thản nhiên, bây giờ lại tỏ vẻ sợ sệt đủ biết đối phương quả thực đáng ngại.
Trong noãn các bỗng nhiên lặng tanh không một tiếng động. Qua một hồi lâu, Hoàng Mi tăng chậm rãi nói:
- Lão tăng nghe nói quả thực trên đời này có một nhân vật tên là Mộ Dung Bác, y dám lấy cái tên “Bác” vì võ công uyên bác không đâu kể xiết, tựa hồ không một tuyệt kỹ của nhà nào, phái nào trong võ lâm y không tinh thông, không am tường. Một điều kỳ lạ là nếu y muốn giết ai thì lại sử dụng ngay tuyệt kỹ thành danh c


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:11 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Phượng kia làm tổ đã lâu,
Chim loan bỗng chợt ở đâu bay vào.
*
* *

Ta khi đó dương dương tự đắc, miệng sùi bọt mép huênh hoang với viên hưu quan kia, bảo là “dẫu có mười đứa, tám đứa đại đạo thì cũng sẽ dùng Kim Cương chỉ lực giết sạch”. Vừa lúc đó, bỗng nghe tiếng lộp cộp, hai người cưỡi lừa từ bên đường đi qua, nghe giọng một người đàn bà hừ một tiếng, thanh âm đầy vẻ khinh miệt không coi vào đâu. Ta quay đầu lại thì thấy người ngồi trên lưng lừa là một thiếu phụ chừng ba mươi sáu, ba mươi bảy, còn người kia là một thiếu niên độ mười lăm mười sáu, mi thanh mục tú, coi thật là tuấn nhã, cả hai đều mặc sô gai theo kiểu đại tang. Lại nghe thiếu niên kia nói:
- Mẹ ơi! Kim Cương chỉ thì đã thấm vào đâu mà ở đây khoác lác.
Thân thế lai lịch của Hoàng Mi tăng anh em Bảo Định Đế cũng không biết rõ. Thế nhưng ông ta ở trong Vạn Kiếp Cốc dùng tay vẽ lên đá thành bàn cờ, khắc đá thành quân, đấu ngang ngửa với thái tử Diên Khánh, mọi người ai nấy đều hết sức kính ngưỡng, còn Kim Cương chỉ lực của ông có ai không phục, lúc này nghe ông thuật lại lời của thiếu niên kia, đều nghĩ chẳng qua trẻ con nói năng lếu láo.
Ngờ đâu Hoàng Mi tăng thở dài một tiếng nói tiếp:
- Khi đó ta nghe câu nói kia trong bụng cũng tức thật nhưng nghĩ thầm một đứa trẻ còn măng sữa nói năng bậy bạ chấp làm gì? Ta trừng mắt nhìn nó nhưng cũng bỏ qua. Lại nghe người đàn bà mắng con: “Kim Cương chỉ của người ta là chính tông của Đạt Ma hạ viện ở Bồ Điền Phúc Kiến, luyện cũng tới mức ba thành hỏa hầu rồi, con còn bé biết gì? Con đâm ra chưa chắc đã chính xác được đến thế”.
Ta nghe đến đây, trong bụng vừa tức tối vừa kinh hãi. Uyên nguyên sư môn của ta trên giang hồ ít người biết đến, người đàn bà này vừa nói ra đã đúng ngay, lại bảo Kim Cương chỉ lực của ta chỉ mới được ba thành hỏa hầu, ta làm sao chịu nổi. Ôi, thực ra ta không biết trời cao đất dày là gì, chứ cứ theo công lực lúc đó mà nói, nói ta được ba thành hỏa hầu cũng đã là quá cao chứ tối đa chỉ được hai thành sáu bảy phân thôi. Ta liền lớn tiếng quát: “Tôn tính vị phu nhân kia là gì? Bà coi khinh Kim Cương chỉ lực của ta, liệu có thể tứ giáo vài chiêu được chăng?”.
Thiếu niên kia dừng con lừa đốm lại toan trả lời, người đàn bà bỗng dưng hai mắt rưng rưng dường như muốn khóc nói:
- Cha con lúc lâm chung dặn con những gì? Sao con quên ngay thế?
Cậu bé kia đáp:
- Vâng! Hài nhi không dám quên.
Hai người liền vung roi quất lừa chạy về phía trước. Ta càng nghe càng thêm bực mình liền giục ngựa đuổi theo gọi lớn:
- Này! Nói láo lếu lăng nhăng chỉ trích võ công người khác, nếu không để lại vài chiêu tưởng bỏ chạy mà xong ư?
Con ngựa ta cưỡi là một con tuấn mã cước lực thật nhanh, vừa nói vừa đuổi đã vượt qua hai con lừa, chặn ngay trước mặt hai người. Người đàn bà nhìn con nói:
- Con xem đó, con chỉ ngứa miệng nói một câu người ta đã không chịu rồi.
Cậu bé kia xem chừng rất hiếu thuận với mẹ, không dám ngước mắt nhìn ta. Ta thấy họ sợ mình nghĩ thầm mẹ góa con côi có thắng cũng chẳng hay ho nên cũng không thèm chấp, nhưng nghe giọng điệu bà ta xem ra thiếu niên này cũng biết Kim Cương chỉ lực. Môn công phu này ta đã khổ luyện mười lăm năm, cũng đã có chút thành tựu, thằng bé con này biết gì đâu? Ta bèn lên mặt nói:
- Hôm nay ta tha cho hai mẹ con, từ rày ăn nói nên giữ mồm giữ miệng.
Người đàn bà kia chẳng nhìn vào mặt ta, quay sang nói với cậu bé:
- Vị thúc thúc này nói không sai, từ rày về sau con ăn nói nên giữ mồm giữ miệng.
Nếu cứ đến đó là xong thì chẳng hay lắm sao. Có điều khi đó ta tuổi còn trẻ, tính tình hung hăng, giục ngựa đứng tránh qua một bên, thiếu phụ phóng lừa chạy qua đến lượt thiếu niên vừa vỗ lừa, con vật vừa phóng lên ta liền vung roi quất ngay vào mông nó một cái, cười lớn:
- Chạy cho nhanh nào!
Cây roi ngựa còn cách mông lừa độ chừng một thước, bỗng nghe vèo một tiếng, cậu bé quay lại giơ ngón tay, chỉ lực lăng không phóng ra, chiếc roi của ta bay vụt lên trời. Sự việc xảy ra khiến ta sợ đến đờ đẫn cả người, chỉ lực của y thật ghê gớm hơn ta xa.
Lại nghe thiếu phụ kia nói:
- Đã chót ra tay thì phải kết thúc đi thôi.
Thiếu niên kia đáp:
- Vâng!
Y ghìm con lừa đốm quay lại xông vào ta. Ta vung tay trái ra chiêu “Lan Vân Thủ”, đột nhiên nghe soẹt một cái tay y đã đâm ra một chỉ, ngực ta bên trái đau nhói, bao nhiêu kình lực mất hết.
Hoàng Mi tăng nói đến đây chầm chậm cởi tăng bào để lộ bộ ngực xương xẩu, thấy bên trái ngay đúng tâm tạng có một cái lỗ sâu chừng một tấc. Cái lỗ đó tuy đã thành sẹo rồi nhưng cũng mường tượng ra năm xưa bị thương nặng biết chừng nào. Có điều vết thương đó đâm thấu tim sao ông ta không chết mà còn sống đến ngày nay khiến ai nấy đều kinh ngạc.
Hoàng Mi tăng chỉ vào ngực bên phải nói:
- Các vị xem đây.
Mọi người thấy nơi đó phập phồng mới hay ông ta vốn có dị tướng, trái tim không nằm bên trái mà lại nằm bên phải năm xưa tưởng chết mà không chết cũng là do đó. Hoàng Mi tăng buộc lại dây lưng tăng bào nói tiếp:
- Người có tâm tạng lệch qua bên phải như ta thật vạn người không có một. Thiếu niên đó thấy một chỉ đã đâm trúng ngay trái tim mà không chết ngay liền giục lừa lách qua mấy bước, vẻ mặt thật ngạc nhiên. Ta thấy trên ngực máu chảy ào ào, xem chừng tính mạng không còn chẳng úy kỵ gì nữa ngoác mồm chửi: “Tiểu tặc kia, ngươi bảo ngươi biết sử dụng Kim Cương chỉ ư, hừ hừ! Kim Cương chỉ lực của Đạt Ma hạ viện không lẽ đâm người chảy máu mà không chết? Thủ pháp của ngươi sai bét đâu có phải là Kim Cương chỉ”.
Cậu bé kia nhảy tới toan đâm thêm một chỉ nữa, lúc đó ta đâu còn sức nào mà kháng cự chỉ đành bó tay đợi chết. Ngờ đâu thiếu phụ kia vung cây roi trong tay ra, cuốn lấy cánh tay thiếu niên, trong cơn mơ màng nghe bà ta mắng con: “Họ Mộ Dung đất Cô Tô làm gì có người nào vô dụng thế? Chỉ lực của ngươi luyện chưa rốt ráo thì không được giết y nữa, để trong vòng bảy ngày ngươi ...” Không biết trong vòng bảy ngày y phải làm gì thì ta đã ngất đi không nghe thấy nữa.
Thôi Bách Tuyền run run hỏi:
- Đại ... đại sư, về sau ... về sau ngài có gặp lại họ không?
Hoàng Mi tăng đáp:
- Nói ra thật xấu hổ, lão nạp từ bữa đó trở đi trong lòng chán ngán, thấy một đứa bé con đã luyện được đến mức đó, dù ta có luyện thêm bao nhiêu cũng không thể nào bì kịp. Đến khi vết thương trên ngực khỏi rồi liền rời đất Đại Tống bỏ xuống Đại Lý nương náu dưới khu vực của Đoàn hoàng gia, mấy năm sau thì xuất gia. Lão tăng tuy bao nhiêu năm nay đã tham ngộ lẽ tử sinh không còn khắc khoải sự vinh nhục năm xưa nhưng đôi khi nhớ lại vẫn còn rùng mình, quả thật đúng là kinh cung chi điểu.
Đoàn Dự hỏi:
- Đại sư, nếu như thiếu niên đó còn sống đến hôm nay thì cũng phải trên dưới sáu mươi rồi, có phải y là Mộ Dung Bác chăng?
Hoàng Mi tăng lắc đầu:
- Nói ra thật là hổ thẹn, lão nạp cũng không biết nữa. Thực ra một chỉ của cậu bé đó có phải Kim Cương chỉ hay không, ta cũng đâu có nhìn rõ, nhưng xem chừng ra tay không giống hẳn. Thế nhưng phải hay không thì cũng thật là lợi hại, thật là ghê gớm ...
Mọi người ai nấy lặng thinh, lòng khinh thị Thôi Bách Tuyền giảm đi quá nửa, nghĩ thầm võ công cao siêu như Hoàng Mi tăng mà còn úy kỵ Cô Tô Mộ Dung đến thế, Thôi Bách Tuyền sợ đến mất cả hồn vía thì cũng có nguyên do.
Thôi Bách Tuyền nói:
- Hoàng Mi đại sư thân phận cao như thế mà chuyện ngày xưa còn không dấu diếm chút nào, họ Thôi này có đáng gì đâu mà còn sợ xấu mặt? Tại hạ vốn dĩ muốn đem chuyện trà trộn vào Trấn Nam Vương phủ nói rõ đầu đuôi ngọn ngành cho bệ hạ và vương gia, nơi đây cũng chẳng có ai người ngoài, vây tại hạ xin thuật lại để các vị cùng rõ.
Y nói mấy câu đó rồi, tâm tình khích động, cổ khô miệng đắng cầm chén trà lên uống ực một cái cạn sạch, lại cầm luôn cả chén của Quá Ngạn Chi uống luôn rồi mới tiếp tục:
- Chuyện ... chuyện này của tôi, là ... là đã mười tám năm rồi ...
Y nói tới đây tự nhiên nhìn ra ngoài cửa sổ. Y định thần rồi nói tiếp:
- Ở trong thành phủ Nam Dương, có một thổ hào họ Sái, giàu có nhưng bất nhân, hiếp đáp dân lành. Kha sư ca của tôi có một người bạn bị y hãm hại, toàn gia chết về tay y.
Quá Ngạn Chi hỏi lại:
- Sư thúc nói đến tên tặc tử Sái Khánh Đồ phải không?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Đúng đó. Sư phụ ngươi mỗi khi nói đến Sái Khánh Đồ vẫn thường nghiến răng hậm hực tuy có làm đơn kêu lên quan mấy lần đều bị họ Sái đem tiền đút lót ếm nhẹm đi. Nếu như sư phụ ngươi xách nhuyễn tiên đến giết phứt gã đi thì thật dễ như thổi tro trong bếp, tuy ông ta anh hùng khí khái trên giang hồ nhưng ở quê hương bản quán có nhà có cửa nên không dám làm chuyện phạm vương pháp như thế. Còn Thôi Bách Tuyền tôi thì khác, trộm gà bắt chó, bài bạc trai gái, giết người phóng hỏa chuyện gì cũng làm. Đêm đó tôi nổi giận nên mò vào nhà tên Sái Khánh Đồ, giết một hơi hơn ba chục mạng nhân khẩu.
Tôi từ cửa chính giết vào đến tận hoa viên đằng sau, đến làm vườn người ở cũng không tha. Đến giữa vườn thấy một căn lầu nhỏ trên có ánh đèn chiếu ra. Tôi chạy lên lầu, đá tung cửa vào thì ra đó là một thư phòng, bốn bề chung quanh đầy những kệ trên để toàn là sách vở, một đôi nam nữ đang ngồi đọc sách ở bàn.
Đôi nam nữ đó chừng trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn nhã ăn mặc theo lối thư sinh. Người đàn bà tuổi trông trẻ hơn, quay lưng lại không nhìn rõ mặt nhưng bà ta mặc áo lụa mỏng màu xanh nhạt, dưới ánh nến trông thật xinh đẹp, con bà nó chứ ...
Y vốn dĩ nói năng thật văn vẻ, so với ngôn ngữ bình thời thật khác xa, ngờ đâu đột nhiên chêm vào một lời thô tục, ai nấy đều sửng sốt. Thôi Bách Tuyền dường như không để ý nói tiếp:
- ... tôi một hơi giết hơn ba chục mạng, càng lúc càng say máu, trông thấy đôi trai gái chó má này, con mẹ nó chứ, xem ra có điều khác lạ. Trong nhà Sái Khánh Đồ ai nấy thô lỗ hung ác, sao lại lọt vào một đôi cẩu nam nữ thanh tú ở đâu ra? Trông họ có khác gì Đường Minh Hoàng với Dương quí phi trong tuồng hát? Tôi thật ngạc nhiên nhưng không có ý ra tay giết họ. Bỗng nghe người đàn ông nói: “Nương tử, từ Qui Muội đến Võ Vương, hình như không theo thứ tự này”.
Đoàn Dự nghe nói “từ Qui Muội đến Võ Vương” nghĩ thầm: “Cái gì mà Qui Muội? Võ Vương?” Chàng suy nghĩ hiểu ngay: “À, thì ra là từ Qui Muội đến Vô Vọng, người đàn ông này nói về Kinh Dịch”. Chàng thấy thế trong lòng liền phấn khởi hẳn lên.
Lại nghe Thôi Bách Tuyền nói tiếp:
- Người đàn bà trầm ngâm rồi nói: “Nếu như từ hướng đông bắc đi chéo xuống Đại Ca, rồi chuyển qua Tỉ Tỉ chàng nghĩ đi thế có thông hay không?”.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hừ, sao lại Đại Ca? Tỉ Tỉ là sao? À thì ra Đại Quá và Ký Tế”. Bỗng chàng giật mình sửng sốt: “Thì ra người đàn bà nói về bộ pháp trong Lăng Ba Vi Bộ, có điều vị trí hơi sai không hoàn toàn đúng hẳn. Không lẽ người đàn bà này với thần tiên tỉ tỉ trong động núi kia có liên quan?”.
Thôi Bách Tuyền nói tiếp:
- Tôi nghe hai vợ chồng bàn tán không ngừng, nói gì mà Ô Qui Muội Tử, Đại Cữu Tử, Tiểu Tỉ Tỉ càng nghe càng chán nên lớn tiếng quát: “Hai đứa cẩu nam nữ kia, con bà ngươi chứ, có mau cút ra không nào”. Không ngờ hai người đó dường như giả điếc, không nghe ta nói gì, vẫn chăm chăm nhìn vào quyển sách. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói: “ Từ chỗ này đến nhà tỉ tỉ cả thảy chín bước, không làm cách nào đi được”. Tôi liền quát lên: “Cút mau! Cút mau! Cút ngay đến nhà ông bà ông vải nhà ngươi, gặp tổ tông mười tám đời”. Tôi đang toan cất bước tiến lên, người đàn ông đột nhiên vỗ tay cười nói: “Hay lắm, ông bà là khôn, mười tám đời tổ tông, ồ, hai lần chín mười tám có thể chuyển qua vị trí khôn được. Thế là bước này nghĩ ra rồi!”. Y thuận tay cầm một chiếc bàn toán trên bàn, không biết làm cách nào ba quân toán đột nhiên bắn ra, tôi chỉ thấy ngực đau nhói, thân hình đứng chết sững không còn động đậy gì được.
Hai người đó không ngó ngàng gì đến tôi, vẫn tiếp tục đàm luận chuyện tiểu ca ca, tiểu súc sinh còn tôi trong bụng sợ hãi không biết chừng nào. Tại hạ có cái phỉ hiệu là Kim Toán Bàn, luôn luôn đem theo trong người một cái bàn toán đúc bằng vàng, bên trong có dấu cơ quan, bảy mươi bảy quân toán muốn lúc nào là có thể bắn ra lúc ấy, nhưng cái bàn toán trên bàn kia làm bằng gỗ gụ trông thật bình thường, mấy thanh ngang làm bằng tre, hiển nhiên y dùng nội lực chấn gãy những thanh này rồi dùng nội lực bắn tung những viên toán ra, công phu đó quả con mẹ nó cao minh thật.
Đôi trai gái kia càng nói càng cao hứng, còn tôi thì càng lúc càng hoảng hốt. Tôi ở trong nhà này giết hơn ba chục mạng người gây ra một vụ đại huyết án vậy mà đứng trơ trơ nơi đây, không nhúc nhích gì được, nói cũng không nói được, tội tôi gây ra bị quả báo đã đành nhưng chuyện vỡ lở thì thể nào cũng liên lụy đến Kha sư huynh. Thời gian hơn hai giờ đó thật không khác gì chịu khổ hình mười năm, hai mươi năm.
Chờ mãi đến khi gà gáy sáng, người đàn ông bấy giờ mới cười nói: “Nương tử, mấy bước kế tiếp đây hôm nay mình nghĩ chưa ra, thôi mình đi chứ!”. Người đàn bà nói: “Vị Kim Toán Bàn Thôi lão sư giúp chàng nghĩ ra được một bước thật kỳ diệu, mình phải tạ ơn y cái gì mới được”. Tôi lại càng sợ hãi, không ngờ họ biết tên tuổi tôi rồi. Người đàn ông nói: “Nếu thế thì cho y sống thêm vài năm, lần sau gặp mình giết y cũng được. Y dám chửi nàng, chửi ta thì nay ha cho”. Y nói rồi cầm cuốn sách lên, tiếp theo tay trái đưa về sau phất nhẹ sau lưng tôi giải khai huyệt đạo. Tiếp theo đôi trai gái đó nhảy qua cửa sổ đi mất. Tôi cúi đầu nhìn xuống thấy trước ngực áo có ba lỗ hổng, ba viên bàn toán ngay ngắn chỉnh tề gắn trên ngực tôi, thật dẫu có lấy thước mà đo cũng không được đều như thế. Chậc chậc, quí vị xem cái công trình của tôi đây.
Y nói xong cởi áo ra. Mọi người thoạt nhìn không khỏi bật cười, thấy hai quân gắn chặt trên hai đầu vú y, ngay chính giữa có thêm một viên khác, đã bấy lâu nay sao y không tìm cách gỡ ra.
Thôi Bách Tuyền lắc đầu, đóng khuy áo lại nói:
- Ba quân bàn toán này khảm trên thân thể tôi thật chịu không nổi. Tôi đã tính dùng dao nạy ra thế nhưng chỉ hơi dùng sức một chút, chạm phải huyệt đạo của mình lập tức chết giấc ngay, phải mất hai giờ sau mới hồi tỉnh. Còn như dùng dũa, dùng giấy nhám mà mài thì chao ôi, đau đến kêu ông kêu bà. Cái tội nghiệt này cứ lẩn quẩn theo tôi như bóng với hình, mỗi khi trái gió trở trời, ba chỗ đó tiên sư nó đau đến chết cha chết mẹ, thật chẳng khác gì rùa bị lột mai.
Mọi người nghe y nói vừa kinh hãi, vừa tức cười. Thôi Bách Tuyền thở dài một tiếng nói:
- Gã đó nói là lần sau gặp lại tôi sẽ lấy mạng, thành thử nếu muốn khỏi chết chỉ có cách là không gặp lại y, đó là cách duy nhất. Không còn đường nào khác hơn, tôi chỉ còn nước cao bay xa chạy trốn vào trong phủ Trấn Nam Vương. Tôi đã tính trong bụng, nước Đại Lý ở nơi xa vắng cõi thiên nam, những người trong võ lâm Trung Nguyên mấy ai rỗi hơi tìm đến, nếu vạn nhất tên khốn kiếp đó mò được tới đây thì có Đoàn vương gia, Cao hầu gia, Chử bằng hữu bao nhiêu là cao thủ, không lẽ ai cũng giương mắt không nhúng tay vào, để mặc cho y giết tôi hay sao? Ba viên quân bàn toán nằm trên ngực tôi, đau đớn chịu không nổi đành phải quay sang rượu chè bét nhè, quấy quá cho qua cơn đau. Bao nhiêu hùng tâm tráng chí, truyền tông tiếp đại, con mẹ nó đổ xuống sông xuống biển hết.
Mọi người nghĩ thầm: “Việc người này gặp phải với Hoàng Mi tăng chẳng khác gì mấy, chỉ có điều một người xuất gia làm sư, một người ẩn tính mai danh mà thôi”. Đoàn Dự hỏi thêm:
- Hoắc tiên sinh, làm sao ông biết hai vợ chồng đó thuộc họ Mộ Dung đất Cô Tô?
Chàng quen miệng gọi “Hoắc tiên sinh” nhất thời chưa sửa đổi được. Thôi Bách Tuyền gãi đầu nói:
- Cái đó là do sư ca của tôi đoán chừng vậy thôi. Tôi bị trúng ba quân bàn toán rồi liền quay về bàn với sư ca, ông ta nói trong võ lâm chỉ có một họ Mộ Dung đất Cô Tô là có cái ngón “gậy ông đập lưng ông” đó thôi. Tôi quen dùng quân bàn toán đả thương người khác, y lại dùng nó đánh tôi. Họ Mộ Dung đất Cô Tô người không đông, con mẹ nó chứ, cũng may nhà này ít người, chứ nếu như con đàn cháu đống thì trên giang hồ còn ai sống sót nổi, chắc chỉ còn mình họ Mộ Dung thôi.
Câu nói của y nghe ra bất kính đối với họ Đoàn nước Đại Lý nhưng cũng không ai để ý tới. Thôi Bách Tuyền lại tiếp:
- Trong nhà này nổi danh thì chỉ có Mộ Dung Bác, bốn mươi ba năm trước thiếu niên mười lăm mười sáu kia dùng Kim Cương chỉ đả thương vị đại sư này, mười tám năm trước, gã trung niên khoảng bốn mươi ném quân bàn toán vào tôi xem ra cũng là Mộ Dung Bác đấy thôi. Có ngờ đâu sư ca của tôi lại chết dưới tay y. Ngạn Chi, sư phụ ngươi làm sao lại gây chuyện với y vậy?
Quá Ngạn Chi đáp:
- Sư phụ cháu trước nay chỉ lo làm ăn, vẫn thường bảo là “mọi người hỉ hả mới đẻ ra tiền”, chẳng bao giờ mích lòng ai nên quyết không thể nào gây sự với họ Mộ Dung đất Cô Tô được. Mình ở Nam Dương, họ ở Tô Châu hai bên cách nhau đến mười vạn tám ngàn dặm.
Thôi Bách Tuyền nói:
- Nếu thế ắt hẳn Mộ Dung Bác thấy ta là con rùa đen rụt đầu rụt cổ kiếm không ra nên mới tra hỏi sư phụ ngươi. Sư phụ ngươi có nghĩa khí thà chết chứ không tiết lộ ta đang trốn ở Đại Lý nên mới trúng phải độc thủ của y. Kha đại ca, anh chết vì em rồi.
Nói xong nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, nghẹn ngào nghiến răng:
- Mộ Dung Bác, Mộ Dung Bác, ta nhất quyết lột da ngươi.
Y khóc mấy tiếng rồi quay sang Đoàn Chính Thuần:
- Đoàn vương gia, tôi đã nói hết cả rồi, bao nhiêu năm nay được vương gia che chở, lại cũng không lột mặt nạ tôi, Thôi mỗ thật là cảm kích, không biết cách gì báo đáp. Thôi chúng tôi đi Cô Tô đây!
Đoàn Chính Thuần lạ lùng hỏi:
- Ngươi đi Cô Tô ư?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Đúng thế! Sư ca tôi thật chẳng khác gì anh ruột. Cái thù giết anh không thể không báo! Ngạn Chi, thôi mình đi.
Nói xong quay sang mọi người vái một cái thật sâu rồi đi thẳng. Quá Ngạn Chi cũng chắp tay chào, đi theo y. Việc xảy ra hoàn toàn không ai ngờ nổi, thấy y nói tới Cô Tô Mộ Dung Bác lợi hại là thế nhưng vì mối thù sư huynh nhất định chịu chết không còn sợ sệt gì nữa, ai nấy trong lòng đều kính phục ngầm. Đoàn Chính Thuần nói:
- Hai vị đừng gấp. Quá huynh từ xa tới đây, đêm nay nghỉ lại đây, sáng mai đi cũng không muộn.
Thôi Bách Tuyền dừng chân quay lại nói:
- Vâng! Vương gia bảo như thế, thôi thì chúng tôi xin thêm một bữa cơm vậy. Ngạn Chi, thôi mình đi uống rượu.
Y dẫn Ngạn Chi ra ngoài. Bảo Định Đế nói với Đoàn Chính Thuần:
- Thuần đệ, sáng mai chú cùng Hoa Tư Đồ, Phạm Tư Mã, Ba Tư Không đến chùa Thân Giới ở châu Lục Lương, thay ta làm lễ trước linh sàng Huyền Bi đại sư.
Đoàn Chính Thuần đáp lờn còn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người phục xuống bái tạ. Bảo Định Đế lại nói với Đoàn Chính Thuần:
- Sau khi bái kiến Ngũ Diệp phương trượng rồi ở lại chùa Thân Giới chờ những vị sư chùa Thiếu Lâm đến, nhờ họ trình lên phong thư ta gởi đến phương trượng Huyền Từ đại sư.
Ông quay sang nói với Ba Thiên Thạch:
- Viết hai phong thư, một lá gửi cho phương trượng chùa Thiếu Lâm, một lá gửi cho phương trượng chùa Thân Giới rồi sửa soạn hai món lễ vật.
Ba Thiên Thạch khom lưng phụng chỉ. Bảo Định Đế nói:
- Ngươi mời hai vị đại sư chùa Thiếu Lâm đi nghỉ.
Đợi Ba Thiên Thạch dẫn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi khỏi rồi, Bảo Định Đế nói:
- Họ Đoàn Đại Lý nhà ta vốn từ võ lâm Trung Nguyên mà ra, mấy trăm năm qua không hề vong bản. Bằng hữu võ lâm Trung Nguyên đến Đại Lý chúng ta đều lấy lễ mà tiếp đãi. Tổ tiên họ Đoàn đã di huấn nghiêm cấm con cháu tham dự vào việc oán thù, tranh chấp riêng tư của võ lâm. Cái chết của Huyền Bi đại sư, tuy họ Đoàn chúng ta không thể sõng tay đứng ngoài nhưng việc báo cừu thì phải do phái Thiếu Lâm tự lo liệu lấy, chúng ta không nhúng tay vào.
Đoàn Chính Thuần nói:
- Vâng, em đã hiểu rồi.
Hoàng Mi tăng nói:
- Bên trong đây có chuyện gì thực không dễ gì mà biết rõ được. Chúng ta không thể không tương trợ phái Thiếu Lâm nhưng không nên xen vào chuyện thù hận chém giết. Họ Mộ Dung tuy người không đông nhưng là một thế gia trong võ lâm, bạn bè bộ thuộc không phải là ít. Phái Thiếu Lâm và họ Mộ Dung hai bên ngang nhiên chống báng nhau là một đại sự vang dậy cổ kim, gió tanh mưa máu, không biết chết bao nhiêu người. Nước Đại Lý ta mấy năm nay quốc thái dân an, nếu như chúng ta xen vào tranh chấp này, nay mai võ lâm Trung Nguyên tìm đến đây gây chuyện sinh sự e rằng không bao giờ dứt được.
Bảo Định Đế nói:
- Đại sư nói chí phải. Chúng ta một mặt theo chính đạo mà hành sự, mặt khác cố gắng nhịn một bước. Thuần đệ, em phải nhớ rõ bốn chữ “Trì Chính Nhẫn Nhượng”.
Đoàn Chính Thuần khom lưng nhận lời dạy bảo của anh.
Hoàng Mi tăng nói:
- Hai vị hiền đệ, thôi bây giờ mình từ biệt nhau, ta còn phải trở lại Vạn Kiếp Cốc một lần nữa.
Mọi người ai nấy ngạc nhiên, Bảo Định Đế hỏi:
- Sư huynh đến Vạn Kiếp Cốc có chuyện gì? Có cần mang theo ai không?
Hoàng Mi tăng cười ha hả nói:
- Đến cả hai tiểu đồ của ta ta cũng không cho theo. Hai vị hiền đệ đoán thử xem, ta đến Vạn Kiếp Cốc để làm gì?
Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần thấy ông ta cười khà khà, thầm nghĩ chắc việc này không có gì khó khăn nhưng không đoán ra chuyện gì. Hoàng Mi tăng quay sang nói với Đoàn Dự:
- Hiền điệt chắc là đoán ra.
Đoàn Dự ngạc nhiên: “Tại sao bá phụ và gia gia đoán không ra mà mình lại đoán ra là sao?”. Chàng suy nghĩ hiểu ngay lý do cười nói:
- Đại sư muốn đến đánh cờ phục thù.
Hoàng Mi tăng cười sằng sặc nói:
- Đúng đó! Ta làm sao mà thắng được thái tử Diên Khánh ván cờ đó quả thực kỳ lạ. Y đánh cờ tự bịt một mắt là cớ gì?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Tiểu điệt cũng không hiểu nổi.
Hoàng Mi tăng nói:
- Hoặc giả trong thạch thất hay phiến đá có cái gì bất thường chăng? Lão nạp phải tới xem mới được.
Người ham đánh cờ mỗi khi xong một ván, dù thua dù được bao giờ cũng suy ngẫm lại, chỗ nào mình sơ sểnh mất nước, chỗ nào chậm chỗ nào nhanh phải hiểu rõ từng nước mới thấy an tâm. Hoàng Mi tăng thắng ván cờ đó thật lạ kỳ, nếu không tìm ra nguyên do tại sao ắt sẽ suốt đời thắc mắc.
Kế đó Bảo Định Đế khởi giá hồi cung, Hoàng Mi tăng cũng dặn hai người học trò quay về chùa Niêm Hoa một mình quay lại Vạn Kiếp Cốc, sắp lại phiến đá xanh đã bị Đoàn Diên Khánh chấn động vỡ nát từ đầu đến đuôi xem lại từng nước. Đoàn Chính Thuần tiễn đưa Bảo Định Đế và Hoàng Mi tăng đi rồi, quay về nội thất định nói chuyện với vương phi. Ngờ đâu Đao Bạch Phượng vẫn còn đang tức tối chuyện ông có thêm một đứa con riêng là Chung Linh nên đóng cửa không cho vào. Đoàn Chính Thuần đứng ngoài năn nỉ ỉ ôi một hồi lâu, Đao Bạch Phượng mới nói chõ ra:
- Nếu ông không đi nơi khác, tôi lẽ lập tức quay về Ngọc Hư Quan.
Đoàn Chính Thuần không biết gì hơn đành quay về thư phòng ngồi ngơ ngẩn, nghĩ tới Chung Linh bị Vân Trung Hạc bắt đi, chẳng hiểu Chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần đuổi theo cứu được hay không, bọn Chử Vạn Lý đi nghe ngóng tin tức cũng chưa thấy quay về bẩm báo, trong bụng thắc thỏm không yên.
Ông lấy trong túi ra chiếc hộp vàng của Cam Bảo Bảo trao lại xem kỹ càng, nhìn mấy hàng chữ nhỏ như đầu ruồi nàng viết, nghĩ lại mười bảy năm xưa cùng nhau vui vầy, loan điên phượng đảo, lại tưởng đến nàng chờ đợi mỏi mòn không thấy mình quay lại nên đành phải lấy Chung Vạn Cừu, trong lòng thật xót xa: “Khi đó nàng mới chỉ là một cô gái mười bảy tuổi, cha và dì ghẻ nàng vốn dĩ chẳng tử tế gì, trong bụng mang đứa con của ta thì nàng còn làm gì hơn được?”.
Ông càng nghĩ càng đau lòng đột nhiên nghĩ đến khi trên bàn tiệc Đao Bạch Phượng nói với Hoa Tư Đồ: “Cái hầm đó thông vào cư thất của Chung phu nhân, nếu không lấp đi trong đám mình ắt có một vị nhân huynh tối nào cũng theo đó mà lẻn vào” liền gọi một tên thân binh sai y không được tiết lộ phong thanh, bí mật đi triệu hai gia tướng thân tín của Hoa Tư Đồ tới hầu.
*
* *
Đoàn Dự ngồi trong thư phòng, trong lòng miên man nghĩ đến những kỳ ngộ mình gặp phải trong mấy ngày qua, cùng Mộc Uyển Thanh đính ước thành vợ chồng, ngờ đâu nàng lại chính là em gái mình. Thế nhưng lạ hơn nữa, Chung Linh cũng lại là em mình nốt, bây giờ nàng bị Vân Trung Hạc bắt đi không biết có thoát hiểm hay không, trong lòng thật là bồn chồn. Chàng nghĩ tới vợ chồng Mộ Dung Bác nghiên cứu Lăng Ba Vi Bộ chẳng hiểu hai người có giây mơ rễ má gì đến thần tiên tỉ tỉ trong hang núi hay không? Không lẽ hai người đó là đệ tử phái Tiêu Dao? Thần tiên tỉ tỉ đã dặn ta phải giết sạch bọn họ, nhưng hai người này võ công cao cường như thế, bảo mình đi giết thật đúng là trò cười.
Chàng nghĩ đến những ngày bị giam trong thạch thất, không làm trò loạn luân, thật là hú vía, may sao bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ lại tập thuần thục hơn nhiều, nhưng công phu thần tiên tỉ tỉ dặn phải luyện thì chểnh mảng đã lâu. Nghĩ thế chàng bèn thò tay vào túi định đem quyển trục ra xem, tay vừa mò vào chợt thấy không xong vội vàng đem ra, kêu luôn mồm:
- Chết rồi! Trời ơi là trời!
Quyển trục kia giờ đây chỉ còn là những mẩu giẻ rách quấn lại thành một túm, vừa mở ra trông có còn gì nữa đâu. Những miếng giẻ đó tối đa chỉ còn được hai ba phần, hình vẽ và chữ nghĩa ghi trên quyển không còn gì nữa. Đoàn Dự tưởng nhơ rơi vào hầm băng, trong bụng tự hỏi: “Sao lại ra ... ra thế này là làm sao?”.
Một lúc lâu sao chàng mới nghĩ ra khi bị người áo xanh nhốt trong nhà đá, trong người nóng không chịu nổi, bao nhiêu quần áo xé rách hết, sau cùng chạy như người điên tay vẫn rứt áo xé quần, trong cơn mê loạn còn phân biệt đâu là quần áo đâu là quyển trục nên cũng xé vụn hết cả vứt lung tung. Chàng nhìn những hình người khỏa thân, cái thì cụt tay cái thì cụt chân ngơ ngẩn một hồi nhưng cũng thấy gánh nặng trên vai nhẹ bỗng nghĩ thầm: “Quyển trục rách mất rồi, thần công của thần tiên tỉ tỉ truyền cho ta nay không sao luyện được nữa, không phải ta không luyện mà là không thể luyện. Cho nên việc “giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao” vân vân không tính đến nữa”. Chàng vơ những mảnh vải rách đó vứt luôn vào trong lò, châm lửa lên đốt thành một đống tro nghĩ thầm: “Những hình người khỏa thân trong quyển trục này càng nhìn càng thêm khinh mạn thần tiên tỉ tỉ, chi bằng hỏa hóa âu cũng là ý trời đó thôi”.
Chàng thấy trời đã tối dần nên đi đến phòng mẫu thân, định truyện trò với mẹ một lát rồi cùng bà ăn cơm chiều. Đến trước cửa phòng chỉ thấy cửa đóng chặt, con tì nữ hầu hạ vương phi cười hì hì nói:
- Vương phi ngủ rồi, xin công tử sáng mai hãy đến.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “À, đúng rồi, cha ta đang ở trong đó”. Chàng quay mình đi ra định đi tìm Mộc Uyển Thanh nói chuyện, qua đến một hành lang chợt nghĩ mình lúc này nên tránh mặt là hơn gặp nhau chỉ càng làm cho nàng thêm đau lòng. Chàng rảnh rỗi không có việc gì làm thuận chân đi ra vườn hoa đằng sau nhà.
Bấy giờ trời đã sâm sẩm tối, chàng đến ngồi bên trong căn đình bên cạnh ao nhìn lên vàng trăng non từ hướng đông đi lên, nghĩ đến bóng trăng này cũng chiếu vào ngọc bích nơi kiếm hồ trong núi Vô Lượng, một vài giờ nữa trên vách núi sẽ hiện lên thanh trường kiếm ngũ sắc, chỉ vào động phủ nơi có pho tượng thần tiên tỉ tỉ. Chàng còn đang suy nghĩ xuất thần, bỗng nghe ngoài tường truyền vào vài tiếng huýt nho nhỏ, ngừng lại một chút rồi lại có vài tiếng nữa. Nếu phải trước đây chàng cón ghe cũng chẳng để tâm, nhưng sau mấy ngày đã thêm duyệt lịch, trong bụng hơi lạ nghĩ thầm: “Chẳng lẽ là ám hiệu của nhân vật giang hồ nào chăng?”.
Một lát sau, tiếng huýt còi lại nổi lên thấy nơi bụi hoa mẫu đơn có một bóng người nhanh nhẹn vụt qua chạy đến bên cạnh tường nhảy lên đầu tường. Đoàn Dự thất thanh kêu lên:
- Uyển muội!
Người đó chính là Mộc Uyển Thanh. Chỉ thấy nàng tung mình nhảy lên vọt ra bên ngoài tường. Đoàn Dự lại gọi:
- Uyển muội!
Chàng chạy đến chỗ Mộc Uyển Thanh vừa nhảy qua nhưng chàng không thể nào nhảy lên đầu tường được, cửa sau hoa viên ngay bên cạnh nhưng đã cài then lại thêm khóa sắt đóng chặt chỉ đành đứng đó mà réo:
- Uyển muội! Uyển muội!
Chỉ nghe Mộc Uyển Thanh ở bên ngoài nói lớn:
- Anh còn gọi tôi làm gì? Tôi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại anh, tôi đi theo mẹ tôi đây.
Đoàn Dự vội gọi giật lại:
- Em đừng đi, nhất định đừng nên đi.
Một lát sau bên ngoài tường có tiếng một người đàn bà giọng già dặn hơn:
- Uyển nhi! Thôi mình đi con. Ấy, chớ có làm thế!
Không nghe tiếng Mộc Uyển Thanh trả lời, Đoàn Dự đoán chừng người đàn bà kia là Tần Hồng Miên bèn kêu:
- Tần A Di, xin cả hai người vào đây.
Tần Hồng Miên hỏi lại:
- Vào làm gì? Để cho mẹ ngươi giết ta hay sao?
Đoàn Dự cứng họng, hết sức đẩy cửa hoa viên vừa kêu:
- Uyển muội! Em đừng đi, chúng mình thủng thẳng tìm cách tính lại.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Còn có cách nào nữa? Có trời cũng không làm gì được.
Một lát sau nàng đột nhiên kêu lên:
- A! có cách rồi, anh có dám làm không?
Đoàn Dự mừng rỡ đáp:
- Hay lắm! Cách nào thế?
Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, một thanh đao xanh biếc luồn vào khe cửa chặt đứt luôn cái khóa tiếng theo hai tiếng bình bình, cửa hoa viên mở toang ra, Mộc Uyển Thanh đứng ngay đó, trong tay cầm một thanh Tu La Đao nói:
- Chàng vươn cổ ra để cho em chém, sau đó em sẽ tự sát ngay, hai đứa mình đầu thai kiếp sau lúc đó không còn là anh em nữa sẽ thành vợ thành chồng.
Đoàn Dự sợ chết điếng run run nói:
- Cái đó ... cái đó ... không được đâu!
Mộc Uyển Thanh hỏi:
- Em bằng lòng, sao chàng lại không làm được? Hay là anh muốn giết em trước rồi tự sát sau.
Nói xong chuyển ngược thanh Tu La Đao lại. Đoàn Dự hoảng hốt lùi lại hai bước nói:
- Không đâu! Không đâu!
Mộc Uyển Thanh từ từ quay lại cầm lấy tay mẹ, rảo bước đi. Đoàn Dự đứng như trời trồng một hồi lâu, ngẩn ngơ nhìn theo bóng hai mẹ con lẫn dần vào bóng tối. Mặt trăng từ từ lên cao, chàng vẫn còn đứng chết lặng. Đột nhiên sau cổ bị ai nắm chặt, thân hình bị người nào đó xách bay vọt lên, có tiếng cười nhỏ bên tai:
- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn là sư phụ ta thì là sư phụ chết, còn chịu làm đồ đệ ta thì là đồ đệ sống.
Tiếng nói đó chính là của Nam Hải Ngạc Thần.
*
* *
Đoàn Chính Thuần dẫn hai gia tướng đắc lực của Hoa Hách Cấn giục ngựa chạy đến Vạn Kiếp Cốc. Hai tên gia tướng đó vốn đi theo Hoa Hách Cấn đào đường hầm nên biết lối vào ở chỗ nào, liền vạch những tùm cây che cửa hang. Một tên gia tướng nói:
- Tiểu nhân xin dẫn đường!
Đoàn Chính Thuần ngăn lại:
- Không cần, hai người ở ngoài này đợi ta.
Ông đang định chui vào trong hầm bỗng thấy ở phía tây đằng sau một cây to có bóng người thấp thoáng, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Đoàn Chính Thuần lập tức nhảy tới đuổi theo, quát nhỏ:
- Ai đó!
Đằng sau gốc cây có tiếng khẽ đáp lại:
- Bẩm vương gia, Thôi Bách Tuyền đây.
Y len lén chui ra. Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:
- Thôi huynh đến đây làm gì thế?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Tiểu nhân nghe thấy thiên kim của vương gia bị gian nhân bắt cóc nên cùng với sư điệt hai người chia ra đi tìm. Tiểu nhân trên đường có thấy đôi chút đầu dây mối nhợ nghĩ rằng tiểu thư chạy về phía này nhưng kẻ gian kia vẫn đuổi theo sát chưa chịu buông tha.
Đoàn Chính Thuần lập tức hiểu ra: “Gã Thôi Bách Tuyền này là người ân oán phân minh, y trốn trong nhà ta bấy nhiêu năm, chịu ơn chưa kịp báo đáp. Lần này đi kiếm Cô Tô Mộ Dung báo thù, quyết ý chết dưới tay người. Y chỉ mong giúp ta kiếm lại được Linh nhi, báo đáp cái ơn ta dung dưỡng y lâu nay”. Ông liền cúi rạp người vái một cái nói:
- Cao nghĩa của Thôi huynh, tại hạ cảm kích khôn cùng.
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Tiểu nhân đến bên kia tìm kiếm.
Y lắc người một cái đã lẩn vào trong rừng cây, khinh công quả cũng vào loại khá.
Đoàn Chính Thuần thấy hơi yên trong bụng, nghĩ thầm: “Võ công của Thôi huynh không kém gì bọn Vạn Lý, Đan Thần”. Ông quay lại cửa địa đạo tiến vào hang.
Bò được một lát, địa đạo chia làm hai nhánh. Ông đã hỏi kỹ hai tên gia tướng của Hoa Tư Đồ biết là đường hầm phía đông bắc thông vào thạch thất trước dùng để giam giữ Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh còn phía tây bắc thông vào ngọa thất của Chung phu nhân nên liền theo phía này bò tới. Đi đến hết cái hang, ông nhè nhẹ nâng phiến gỗ trên nắp lên mấy tấc thấy ánh sáng chiếu vào, nhìn qua khe hở thấy hai bàn chân đi giày thêu màu tím nhạt đang ở trên mặt đất.
Đoàn Chính Thuần trong lòng chấn động, đẩy mảnh gỗ lên thêm mấy tấc nữa, nghe tiếng Cam Bảo Bảo thở dài, một lát sau mới buồn bã nói:
- Nếu như chàng chẳng phải vương gia, chỉ là một người thợ cày thợ săn, hay dẫu cho có là một tên ăn cắp trộm gà bắt chó, đốt nhà cướp của, thiếp cũng nguyện theo chàng ... theo chàng suốt đời ...
Nói xong mấy giọt lệ lã chã rơi xuống, rơi lên trên ván bên cạnh đôi giày hoa. Máu nóng trên ngực Đoàn Chính Thuần dâng lên, nghĩ thầm: “Ta chẳng thèm làm vương gia, chỉ mong làm tên ăn cắp vặt, làm tên ăn cướp để nàng được mãi mãi bên ta. Cái chức vương gia này đâu có đáng gì?”.
Lại nghe Cam Bảo Bảo nói tiếp:
- Không lẽ kiếp này thiếp không gặp lại được chàng một lần nữa hay sao? Một lần không được ư? Thiếp ... thiếp chết đi cho xong ... Thuần ca! Thuần ca! ... chàng có nhớ đến em không?
Mấy tiếng gọi thiết tha đó nghe thật não lòng não dạ. Đoàn Chính Thuần nhịn không nổi gọi khẽ:
- Bảo Bảo, cục cưng Bảo Bảo ơi!
Cam Bảo Bảo hoảng hốt, đứng phắt dậy nhưng rồi lập tức thở dài, tự nói một mình:
- Thiếp lại nằm mơ nữa rồi! Trong giấc mơ nghe tiếng chàng gọi em!
Đoàn Chính Thuần nói khẽ:
- Cục cưng Bảo Bảo ơi! Chính ta gọi em đây, anh lúc nào cũng nghĩ đến em, cũng nhớ thương em.
Cam Bảo Bảo mừng rỡ ồ lên một tiếng:
- Thuần ca! Có thật là chàng đấy không?
Đoàn Chính Thuần mở tấm gỗ lên, chui ra nói nhỏ:
- Cục cưng Bảo Bảo, ta đây!
Cam Bảo Bảo đột nhiên thấy Đoàn Chính Thuần, mặt tái mét, chạy tới mấy bước, thân hình lảo đảo. Đoàn Chính Thuần tiến lên ôm chặt lấy bà, Cam Bảo Bảo rùng mình một cái bất tỉnh nhân sự. Đoàn Chính Thuần vội vàng xoa trên nhân trung, Cam Bảo Bảo từ từ tỉnh lại, thấy mình đang ở trong lòng Đoàn Chính Thuần, ông đang hôn hít trên má mình, mừng đến nỗi toàn thân tưởng như bốc thành hơi, đầu óc hoang mang, nói khẽ:
- Thuần ca! Thuần ca! Em ... em lại nằm mơ nữa rồi!
Đoàn Chính Thuần ôm chặt thân hình mềm mại của người tình, ghé tai bà thì thầm:
- Cục cưng Bảo Bảo, nàng không nằm mơ đâu, chính ta mới đang nằm mơ đó!
Đột nhiên ở bên ngoài có tiếng người ồm ồm:
- Ai? Ai ở trong phòng đó? Ta nghe có tiếng đàn ông!
Chính là tiếng của Chung Vạn Cừu. Đoàn Chính Thuần và Cam Bảo Bảo đều hoảng hốt, Cam Bảo Bảo lớn tiếng nói:
- Tôi đây! Cái gì mà đàn ông với chẳng đàn bà! Lại nói năng bậy bạ nữa rồi.
Đoàn Chính Thuần ghé tai bà nói nhỏ:
- Nàng đi theo ta, ta sẽ làm tên tiểu tặc, làm tên cường đạo, ta không làm vương gia nữa đâu!
Cam Bảo Bảo mừng quá nói nhỏ:
- Em sẽ theo chàng làm vợ tên ăn cắp vặt, làm vợ tên ăn cướp. Rồi có ngày ... như thế thật sung sướng.
Chung Vạn Cừu chưa được vợ đồng ý đâu có dám tùy tiện tiến vào phòng nhưng trên song cửa thấy có thấp thoáng bóng một người đàn ông, kêu lớn:
- Trong phòng nàng có đàn ông, ta ... ta trông thấy rồi.
Y không còn chờ vợ đồng ý hay không, bình một tiếng giơ chân đá tung cửa phòng.
*
* *
Đoàn Dự bị Nam Hải Ngạc Thần chộp được sau ót, nhấc bổng lên lập tức không còn cử động gì được. Bắc Minh thần công của chàng chỉ mới luyện có một đường Thủ Thái Âm Phế Kinh, khi nào huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái tiếp cận với người khác, mà đối phương lại vận kình thì mới hút được nội lực người ta mà thôi, còn lại các huyệt đạo khác đều không dùng được. Chàng đang định há mồm kêu cứu, Nam Hải Ngạc Thần liến giơ tay bịt miệng chàng lại, ôm lên rồi co giò chạy như bay, đến một nơi hẻo lánh cách xa phủ Trấn Nam Vương lúc ấy mới bỏ xuống, nhưng tay vẫn nắm cổ sợ chàng giở môn bộ pháp cổ quái đào tẩu.
Đoàn Dự cười gượng:
- Thì ra ngươi đổi ý không chịu làm học trò ta nữa, cam chịu làm quân đệ tiện, làm đồ khốn kiếp.
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Ai bảo thế? Ngươi trước hết lạy trả ta tám cái, đuổi ta ra khỏi môn tường không chịu nhận ta làm học trò nữa, sau đó lại lạy ta thêm tám cái, bái ta làm thầy. Chúng ta rành mạch rõ ràng như thế, ta đâu có là quân đê tiện, là đồ khốn kiếp được.
Đoàn Dự bật cười, lắc đầu:
- Ta không chịu. Ta lúc này bị ngươi chộp được, không có hơi sức đâu mà chống trả, ngươi cứ giết ta đi.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Hừ, ta đâu có để mắc hỡm ngươi, lão tử đời nào để người ta lừa mình thành quân đệ tiện khốn kiếp được. Ngươi tưởng ta ngu lắm sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi thông minh lắm, thật là thông minh.
Nam Hải Ngạc Thần nghĩ ra được cái “diệu kế” đó, chỉ mong “rành mạch rõ ràng” hoàn tất thủ tục là có thể biến học trò thành thầy được ngay, ngờ đâu đối phương thà chết chứ không chịu rập đầu lạy mười sáu cái, mấy đêm nay suy nghĩ tính toán bây giờ hóa ra công cốc trong lòng không khỏi hoang mang.
Đoàn Dự nói:
- Qui củ của phái Nam Hải nhà ngươi, học trò có giết thầy được không?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Đương nhiên là không, chỉ có thầy giết trò chứ làm gì có chuyện trò giết thầy.
Đoàn Dự hỏi tiếp:
- Thế thì học trò nghe lời thấy hay là thầy nghe lời học trò?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Dĩ nhiên là trò phải nghe lời thầy, ngươi bái ta làm thầy rồi ta sai gì ngươi phải làm nấy.
Đoàn Dự cười đáp:
- Hiện giờ ngươi đang là học trò ta, ta bảo ngươi đi đoạt tiểu sư nương về, ngươi đã làm xong chưa?
Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Con mẹ nó chứ, ta ra tay đánh nhau với Vân lão tứ thì ông già cũa tiểu sư nương chạy đến, thừa cơ đem tiểu sư nương bỏ chạy.
Đoàn Dự nghe thấy Chung Linh đã thoát khỏi độc thủ của Vân Trung Hạc trong lòng thật vui mừng. Nam Hải Ngạc Thần nói tiếp:
- Về sau ta lại đánh nhau với ông già của tiểu sư nương, y đánh một hồi thì không chịu đánh nữa, tiểu sư nương tự mình chạy đâu mất. Vân lão tứ bảo là bọn ta quay lại Vạn Kiếp Cốc giết Chung Vạn Cừu cho rồi.
Đoàn Dự hỏi:
- Sao lại thế?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Việc đó không thể không làm, nếu không thì Nhạc lão nhị không còn ngóc đầu lên được trên chốn giang hồ, ai ai cũng chẳng còn coi ta ra gì.
Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại:
- Nói thế là nghĩa làm sao? Vân lão tứ đánh lừa ngươi đó, đừng nghe lời y làm gì.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Không phải, không phải! Vân lão tứ có lòng tốt mới bảo cho ta hay, ngươi không rõ đạo lý ở bên trong, để ta chỉ cho ngươi. Tiểu cô nương đó là sư nương của ta vai vế đã hơn ta một hàng rồi, ông già của cô ta phải hơn ta hai bậc, con mẹ nó chứ, Chung Vạn Cừu là cái thá gì mà lại hơn ta đến hai hàng được? Không giết y không xong. Vân lão tứ còn bảo, y muốn đến cướp con vợ Chung Vạn Cừu về làm vợ, vì y nghĩ đến tình Tứ Đại Ác Nhân với nhau nên hết sức vì ta, hoàn toàn vì ta, không kể sống chết nhất quyết phải làm cho xong.
Đoàn Dự càng ngạc nhiên hơn hỏi tiếp:
- Thế là như thế nào?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Vợ của Chung Vạn Cừu là mẹ của sư nương ta nghĩa là hơn ta đến hai bậc. Nếu như Vân lão tứ chiếm được mụ làm vợ thì mụ ta sẽ thành vợ của em Nhạc lão nhị này, tức là em dâu ta. Con gái của mụ sẽ thấp hơn ta một bậc, trở thành cháu của ta. Ngươi là chồng của điệt nữ ta sẽ thành cháu rể ta, vậy là dưới ta một bậc. Đến khi đó ta gọi ngươi là sư phụ, ngươi lại gọi ta là bác hai, có phải mình hai người người nào cũng có vai vế hay chăng? Ha ha! Cách đó thiệt là hay.
Đoàn Dự cũng cười ha hả. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Thôi mau lên, mau lên! Mình là cho xong việc này, trên đời này quyết không thể có ai cao hơn Nhạc lão nhị đến hai bậc.
Y nắm tay Đoàn Dự kéo chạy như bay về phía Vạn Kiếp Cốc.
*
* *
Đoàn Chính Thuần nghe thấy tiếng Chung Vạn Cừu đá cửa phòng vào, trong đầu chợt nghĩ ra một ý niệm: “Mình không nên giết y”, nhẹ nhàng gỡ tay Cam Bảo Bảo ra, chui xuống hầm, đóng nắp lại. Chung Vạn Cừu tay cầm đại đao, xông thẳng vào phòng thấy trong đó chỉ có mình Cam Bảo Bảo vội vàng mở tủ, ngó xuống gầm giường, sau cánh cửa các nơi xem xét, chẳng thấy một người đàn ông nào, đến bóng ma cũng không, trong bụng lạ lùng. Cam Bảo Bảo giận dữ nói:
- Ông lại hiếp đáp tôi, mau một đao giết tôi cho xong.
Chung Vạn Cừu không kiếm thấy ai trong bụng mừng không để đâu kể xiết, vội vàng vứt đại đao đi, cười nịnh:
- Phu nhân, chắc là tại mắt tôi hoa, mới rồi uống quá chén đấy mà!
Y vừa nói vừa nhìn ngang nhìn ngửa. Đột nhiên bên ngoài có tiếng chân người rầm rập, tiếng Chung Linh hoảng hốt kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Kế đó nàng chụt vụt vào trong phòng, rồi có tiếng Vân Trung Hạc kêu lên:
- Ngươi có chạy lên trời ta cũng đuổi cho bằng được.
Rồi lập tức y chạy theo vào. Chung Linh kêu lên:
- Cha ơi! Tên ác nhân kia ... tên ác nhân kia đuổi bắt con ...
Nàng bị Vân Trung Hạc rượt đuổi vốn dĩ đã thở không ra hơi, cũng may đang ở trong nhà mình nên nàng thuộc đường, tránh bên đông trốn bên tây, Vân Trung Hạc phải chạy khuất khúc góc nọ góc kia không thi triển khinh công nên nàng mới chạy vào được phòng của mẫu thân.
Vân Trung Hạc thấy vợ chồng Chung Vạn Cừu đều ở trong đó, trong bụng mừng lắm, gặp dịp giết Chung Vạn Cừu rồi bắt luôn cả Chung phu nhân lẫn Chung Linh. Chung Vạn Cừu liên tiếp đánh ra ba chưởng nhưng Vân Trung Hạc đều né tránh được cả tiếp tục lòn quanh chiếc bàn đuổi bắt Chung Linh. Y nghĩ thầm: “Bắt con nhãi con điểm huyệt nó trước, sau đó giết cha bắt mẹ để nó khỏi chạy thoát được”.
Chung Linh kêu lên:
- Thằng sếu vườn kia, ngươi còn đuổi theo ta là ta thọc léc ngươi đó.
Vân Trung Hạc ngạc nhiên, kêu lên:
- Ngươi dám thọc léc ta ư? Có giỏi thì thử xem nào?
Nói xong y nhảy chồm tới.
*
* *
Hôm đó Chung Linh bị Vân Trung Hạc ôm đi, nàng cố hết sức giãy giụa nhưng làm sao thoát được tay y? Trong lúc nàng sợ muốn chết thì nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần từ sau đuổi tới, kêu lớn:
- Sư nương, sư nương! Mau thò tay cù dưới nách tên sếu vườn, gã tre miễu đó sợ nhất là thọc léc.
Chung Linh nghĩ thầm: “Cù léc ư? Cái đó chính là tài nghệ số một của ta đây”. Nàng liền thò tay toan thọc léc Vân Trung Hạc, ngờ đâu Vân Trung Hạc nghe Nam Hải Ngạc Thần nói rồi không cần Chung Linh phải ra tay, nhịn không nổi đã cười sằng sặc. Tiếng cười vừa ra, y không còn thể nào chạy nhanh được nữa, Nam Hải Ngạc Thần đã đuổi tới nới. Vân Trung Hạc nói:
- Nhạc lão tam, ngươi mắc hỡm người ta rồi.
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Cái gì mà mắc hỡm? Có mau bỏ sư nương ta xuống không, nếu không thì nếm thử mùi vị ngạc chủy tiễn của ta đây.
Vân Trung Hạc không còn cách nào khác đành phải bỏ Chung Linh xuống. Chung Linh nhân lúc Vân Trung Hạc không phòng bị liên giơ tay chọc vào nách y, Vân Trung Hạc gập người xuống cười như nắc nẻ đến nước thở không ra hơi. Y càng cười Chung Linh càng liên tục thọc léc khiến cho Vân Trung Hạc vừa cười khanh khách vừa ho sặc sụa. Nam Hải Ngạc Thần nói:
- Sư nương tha cho y đi, nếu còn cù nữa y không thở được chắc là chết mất.
Chung Linh ngạc nhiên, tên ác nhân này võ công cao cường như thế, cớ sao lại để người khác thọc léc đến chết được? Nàng bèn nói:
- Ta không tin, ta cứ thọc léc thử xem sao.
Nam Hải Ngạc Thần vội nói:
- Không được đâu, đừng có thử, y chết rồi không sống lại được đâu. Chỗ yếu điểm luyện công của Vân Trung Hạc là ở huyệt Thiên Tuyền dưới nách, nơi đó không thể đụng vào được.
Chung Linh nghe y nói thế liền rút tay lại không cù y nữa. Vân Trung Hạc đứng thẳng lên, đột nhiên nhổ một bãi nước bọt vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, chửi:
- Con cá sấu chết toi kia, con cá sấu thối tha kia, nơi luyện công bí hiểm của ta, sao ngươi lại để cho người ngoài biết được?
Chung Linh nói:
- Giỏi nhỉ, ngươi dám chửi người ta à!
Nàng lại giơ tay ra thọc léc Vân Trung Hạc, có ngờ đâu lần này không hiệu nghiệm bị Vân Trung Hạc phóng ra một cước đá nàng lăn chòng chọc ra tận đằng xa.
Nam Hải Ngạc Thần đỡ Chung Linh dậy hỏi:
- Sư nương ngã có đau lắm không?
Chung Linh chưa kịp đáp đã thấy Chung Vạn Cừu từ xa cầm đao chạy tới kêu lên:
- Con khốn kiếp kia, ngươi còn ở đây làm gì?
Nam Hải Ngạc Thần quay lại chửi:
- Con mẹ nó chứ, ngươi chẳng biết đầu đuôi đến đây lải nhải cái gì?
Chung Vạn Cừu giận quá quát lại:
- Ta chửi con ta, việc gì đến ngươi?
Nam Hải Ngạc Thần nổi cơn thịnh nộ, chỉ vào mặt Chung Vạn Cừu gầm lên:
- Ngươi ... ngươi là đồ chó má, tính chơi trèo với ta hả? Ta ... Nhạc lão nhị này phải dần cho ngươi một trận.
Chung Vạn Cừu hỏi lại:
- Cái gì mà bảo ta chơi trèo ngươi?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Cô ta là sư nương của ta, dĩ nhiên cao hơn ta một bậc, ấy chẳng qua việc chẳng đặng đừng, ta cũng không còn đường nào khác. Ngươi dám tự xưng là cha cô ta, cái đó ... cái đó ... ngươi ... ngươi chẳng hóa ra trên ta đến hai bậc hay sao? Nhạc lão nhị này ở Nam Hải thật là tôn quí, ai ai cũng phải gọi ta là ông cố, ông tổ, sang đến Trung Nguyên đi đâu cũng dưới người ta một hai bậc. Lão tử đếch thèm, nhất định đếch chịu.
Chung Vạn Cừu đáp:
- Ngươi đếch thèm thì kệ ngươi. Nó là con ruột ta, lẽ dĩ nhiên ta là cha nó chứ cái gì mà lại “tự xưng” là sao?
Nam Hải Ngạc Thần ngoẹo đầu ngắm hai cha con, nói:
- Ngươi đúng là “tự xưng”, sư nương ta xinh đẹp như thế, còn ngươi xấu đến ma chê quỉ hờn làm sao lại là ông già sư nương ta được? Sư nương ta nhất định là con người khác, không phải con ngươi. Ngươi là cha hờ, không phải cha thật.
Chung Vạn Cừu nghe nói thế, giận đến mặt tím ngắt, vung đao chém xuống Nam Hải Ngạc Thần. Chung Linh vội ngăn cha:
- Cha ơi! Người này cứu con khỏi tay tên ác nhân, cha đừng giết y!
Chung Vạn Cừu giận đến điên người, chửi con:
- Đồ đĩ thối, ta đã sớm nghi ngươi không phải con ta rồi. Đến ngay như tên cả đẫn này cũng còn nói thế thì còn sai làm sao được? Ta giết y trước rồi giết ngươi sau, kế đó về giết mẹ ngươi nốt.
Chung Linh thấy hai người xông vào đánh nhau, nhất thời chưa phân thắng bại lớn tiếng kêu:
- Này, Nhạc lão tam, ngươi không được giết cha ta đấy nhé!
Nàng lại quay sang nói:
- Còn cha, cha cũng đừng đả thương Nhạc lão tam.
Nói xong liền bỏ chạy. Nàng về đến Vạn Kiếp Cốc người thật mỏi mệt, về phòng mình nằm ngủ. Ngủ đến nửa đêm bỗng nghe Vân Trung Hạc la hét om sòm, lục lọi từ phòng này sang phòng khác nên vội nhỏm dậy bỏ chạy. Khi đó Chung Linh biết rằng mình không thể đến gần mà thọc léc Vân Trung Hạc được, chợt đâu nhìn thấy mộc bản cửa địa đạo hôm trước bị Hoa Hách Cấn kéo vào trong hang, vội vàng chạy tới mở ra chui tọt ngay xuống.
Vân Trung Hạc và Chung Vạn Cừu đột nhiên thấy có một đường hầm đều hết sức ngạc nhiên. Vân Trung Hạc vội vàng nhào tới toan nắm lấy chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu liền xuất chưởng ngay lưng y đánh tới. Vân Trung Hạc đưa tay ngược lại gạt ra, sợ rằng cô bé Chung Linh xinh đẹp kia chui vào địa đạo rồi không thể nào bắt được nên cũng chui theo.
Bò được chừng một trượng, trong bóng đêm cứ vung tay chộp lung tung, đột nhiên nắm ngay được một bàn chân nhỏ nhắn rồi nghe Chung Linh kêu lên:
- Trời ôi!
Nàng cố gắng giựt chân ra nhưng Vân Trung Hạc mừng quá sao lại để nàng thoát được, vận kình vào cánh tay định kéo nàng ra. Ngờ đâu khi vừa kéo Chung Linh lại kêu lên: “Ôi chao!” nhưng không thấy nhúc nhích, dường như phía trước có ai giữ lại. Ngay lúc đó, Vân Trung Hạc cũng thấy hai chân mình bị người ta nắm chặt kéo ra cùng với tiếng Chung Vạn Cừu:
- Ra mau! Ra mau!
Đó là vì Chung Vạn Cừu sợ y làm hại con gái mình, cũng đuổi theo vào trong đường hầm định kéo y ra. Chung Vạn Cừu thấy y không nhúc nhích đang định dùng sức, đột nhiên thấy gót chân mình cũng bị ai nắm chặt, một luồng lực đạo cuồn cuộn tuôn ra, rồi tiếng khàn khàn của Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:
- Thằng quỉ mặt ngựa, ngươi dám “tự xưng” là ông già của sư nương ta, muốn hơn ta đến hai bậc, ta thể nào cũng phải giết ngươi mới được.
Thì ra lúc này Nam Hải Ngạc Thần cắp được Đoàn Dự chạy tới đây, đứng ngoài phòng thấy Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu ba người chui vào trong đường hầm, nổi cơn bực tức nhất định phải giết cho bằng được gã “tự xưng hơn mình đến hai bậc”, nên cũng lẻn vào phòng rồi chui tọt xuống địa đạo, nắm lấy chân Chung Vạn Cừu.
Đoàn Dự cũng vội vàng vào trong phòng nói với Chung phu nhân:
- Chung bá mẫu, cứu Chung Linh muội tử mới là cần kíp.
Chàng đang toan chui vào trong hầm đột nhiên bị ai đó xô một cái thật mạnh ngã lăn ra, có tiếng đàn bà kêu lên:
- Nhạc lão ta, Vân lão tứ, các ngươi mau chui ra. Lão đại dặn rằng hai đứa ngươi không được tàn sát lẫn nhau.
Tiếng nói đó chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương phụng mệnh Đoàn Diên Khánh đến gọi Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc. Mụ ta đến chậm một bước nhưng cũng thấy Vân Trung Hạc chui vàng trong hang rồi đến Chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần cũng vào theo, lại tưởng Nam Hải Ngạc Thần muốn đuổi theo giết Vân Trung Hạc, lão tứ võ công không bằng chỉ sợ sẽ bị y giết chết, lão đại thể nào cũng trách phạt.
Mụ ta gọi mấy tiếng không thấy Nam Hải Ngạc Thần chui ra cũng chui vào theo, chộp được hai chân Nam Hải Ngạc Thần, hết sức kéo ra. Đoàn Dự kêu lên:
- Ối ối! Các ngươi không được hại đến cô em Chung Linh của ta, trước kia nàng là vợ chưa cưới, bây giờ thì là em gái ta.
Chỉ nghe thấy trong hầm tiếng hò hét nhốn nháo, thanh âm hỗn tạp, không biết là ai gọi ai. Chàng nghĩ thầm tam đại ác nhân cùng chui vào trong địa đạo, Chung Linh ắt sẽ dữ nhiều lành ít, nàng với ta có nghĩa có tình, mình dù không biết võ công cũng phải xả mệnh cứu giúp nên cũng chạy ra cửa hang nắm hai gót chân Diệp Nhị Nương hết sức kéo ra.
Hai tay chàng nắm chặt dĩ nhiên là nắm vào nơi hõm vào của hai chân Diệp Nhị Nương, nơi đó thường gọi là cổ chân nhưng cũng chính là đại huyệt Tam Âm Giao trong Túc Thái Âm Tì Kinh là nơi gặp gỡ của ba mạch âm Túc Thiếu Dương Thận Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh và Túc Quyết Âm Tâm Bao Kinh.
Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào Tam Âm Giao của Diệp Nhị Nương, hai bên cùng sử kình, nội lực của Diệp Nhị Nương lập tức cuồn cuộn tuôn ra, chảy thẳng vào trong người Đoàn Dự.
Trong địa đạo không ai xoay ngang xoay dọc gì được, Vân Trung Hạc nắm được chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu lại nắm chân Vân Trung Hạc, Nam Hải Ngạc Thần nắm chân Chung Vạn Cừu, Diệp Nhị Nương nắm chân Nam Hải Ngạc Thần sau cùng là Đoàn Dự nắm chân Diệp Nhị Nương, ngoại trừ Chung Linh ra, cả năm người ai nấy ráng sức kéo người kia ra khỏi cửa hang. Chung Linh lực khí chẳng có bao nhiêu, đáng lẽ Vân Trung Hạc kéo nàng thật dễ dàng nhưng không biết có ai đó giữ chặt nàng lại không cho bị kéo đi.
Cả một dãy như thế huyệt Thiếu Thương người sau nắm vào Tam Âm Giao người trước. Theo dây chuyền Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần nội lực bốn người cuồn cuộn chảy qua Diệp Nhị Nương vào người Đoàn Dự. Chung Linh vốn dĩ chẳng có bao nhiêu nội lực nên cũng không sao, những người còn lại ai nấy sợ đến mất hết hồn vía, cố hết sức vùng vẫy, mong thoát được người đằng sau nắm chân mình nhưng vẫn bị nắm chặt giãy giụa sao cũng không ra, càng dụng kình sử lực nội lực càng mau tán thất.
Vân Trung Hạc thấy từ bàn chân Chung Linh nội lực cuồn cuộn tuôn vào, rồi lại theo gót chân mình mà chảy ra, tự hỏi sao con nhãi này nội lực ở đâu mà thâm hậu đến thế, quả thực kỳ lạ, cũng may tuy chân mình nội lực tuôn ra thì tay lại có nội lực đổ vào thành thử sống chết cũng không dám buông chân Chung Linh ra để khỏi lâm vào cảnh chỉ có ra mà không có vào. Những người khác ai cũng nghĩ như thế, trong bụng càng thêm sợ hãi thì hai tay càng nắm chặt thêm, chẳng khác nào người đang chết đuối vớ được cái gì sống chết cũng không chịu nhả.
Cái xâu người đó ở trong địa đạo tuy không ai thấy ai, lúc đầu còn nghe la hét: “Lão đại bảo các n


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:13 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Tưởng đâu khói phất phơ bay,
Ai ngờ kiếm khí tràn đầy không gian.
*
* *

Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần từ biệt vợ con. Ông nghe Đoàn Dự nói Mộc Uyển Thanh đêm hôm qua đã theo mẹ là Tần Hồng Miên đi mất rồi, thẫn thờ một hồi, thở dài quay sang hỏi Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi hai người thì cũng đã lên đường đi về hướng bắc từ sớm.
Đoàn Chính Thuần dẫn theo Tam Công, Tứ Hộ Vệ vào cung từ biệt Bảo Định Đế, cùng Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi về phía Lục Lương châu. Đoàn Dự tiễn cha ra ngoài cửa đông mười dặm mới quay về.
Xế trưa hôm đó, Bảo Định Đế đang ở trong thiền phòng tụng kinh thì một tên thái giám tiến vào bẩm:
- Người trong phủ Hoàng thái đệ đến tâu rằng, Hoàng thái đệ thế tử đột nhiên bị ma làm, đã thỉnh Thái y đến chẩn bệnh.
Bảo Định Đế lo quá, từ khi Đoàn Dự bị trúng phải chất độc của thái tử Diên Khánh rồi chưa chắc đã trừ được một cách dễ dàng như thế, lập tức sai hai tên Thái y đến xem sao. Độ nửa giờ sau, hai tên thái giám quay về báo:
- Hoàng thái đệ thế tử bệnh không phải nhẹ, xem ra thần trí thác loạn.
Bảo Định Đế trong bụng hơi hoảng vội vàng xuất cung đích thân đến phủ Trấn Nam Vương thăm bệnh tình Đoàn Dự thế nào. Vừa đến bên ngoài ngọa thất của chàng đã nghe tiếng rầm rầm, loảng xoảng, lách cách liên hồi toàn là các loại khí mãnh bị đổ vỡ. Thị bộc ở bên ngoài thấy nhà vua liền quì xuống tiếp giá, ai nấy vẻ mặt kinh hoàng.
Bảo Định Đế đẩy cửa bước vào thấy Đoàn Dự đứng giữa phòng hoa chân múa tay, bao nhiêu bàn ghế cùng các loại trần thiết, đồ dùng văn phòng bị chàng vứt tung tóe. Hai tên thái y chạy đông né tây cực kỳ gấp rút. Bảo Định Đế gọi lớn:
- Dự nhi! Cháu sao thế?
Thần trí Đoàn Dự vẫn tỉnh táo như thường có điều chân khí trong người quá thịnh tưởng như muốn vỡ toang lồng ngực thành thử múa may quay cuồng đập phá đồ đạc một hồi thấy dần dần đỡ hơn. Chàng thấy Bảo Định Đế đi vào kêu lên:
- Bá phụ ơi! Cháu chết mất.
Hai tay chàng vung lên vòng vòng trên không. Đao Bạch Phượng đứng một bên, nước mắt ròng ròng nói:
- Đại ca, sáng sớm hôm nay Dự nhi còn khỏe mạnh bình thường tiễn cha nó ra khỏi thành, chẳng hiểu vì sao tự nhiên lại nổi cơn điên.
Bảo Định Đế an ủi:
- Đệ muội chẳng nên hoảng hốt, chắc là cháu nó trúng độc ở Vạn Kiếp Cốc chưa hết hẳn, để chữa cho xong.
Ông quay sang hỏi Đoàn Dự:
- Cháu thấy trong người thế nào?
Đoàn Dự liên tiếp dậm chân kêu lên:
- Điệt nhi toàn thân căng phồng lên thật là khó chịu.
Bảo Định Đế nhìn mặt và cánh tay chàng thấy không có gì khác lạ, chẳng sưng chút nào, câu nói đó đúng là thần trí bất thường khiến ông không khỏi nhíu mày.
Thì ra hôm qua nơi Vạn Kiếp Cốc Đoàn Dự bị năm cao thủ trút gần một nửa nội lực của họ vào người, lúc đó thì không thấy gì nhưng sau khi tiễn phụ thân xong, quay về nằm ngủ, trong giấc ngủ chân khí không được đạo dẫn nên chạy lung tung. Chàng nhỏm dậy, sử dụng Lăng Ba Vi Bộ mỗi lúc một nhanh chân khí liền bùng lên không còn cách nào chế ngự được, bèn kêu toáng lên khiến ai nấy đều nhốn nháo.
Một tên thái y nói:
- Khải tấu hoàng thượng, mạch của thế tử nhảy thật mạnh, dường như huyết khí quá vượng, theo ngu kiến của vi thần trích huyết cho ra bớt đi không biết có được hay không?
Bảo Định Đế nghĩ thầm phương pháp này may ra có thể áp dụng bèn gật đầu nói:
- Được, ngươi rút bớt máu ra cho y đi.
Tên thái y tuân lệnh, mở hộp thuốc ra lấy từ trong hộp gốm ra một con đỉa thật to. Đỉa dùng để hút máu ứ trong người bệnh nhân thật là tiện lợi, lại không đau. Y cầm tay Đoàn Dự để con đỉa đúng vào ngay chỗ huyết quản. Con đỉa đụng phải tay Đoàn Dự rồi liên tiếp ngọ ngoạy, dù ép cách nào cũng không chịu cắn vào tay Đoàn Dự. Gã thái y lạ lùng dùng sức đè nó xuống, một lát sau con đỉa dãy một cái chết mất rồi. Gã thái y thấy bị bẽ mặt trước mặt hoàng đế, mồ hôi trán tong tỏng nhỏ xuống vội vàng lấy một con đỉa khác nhưng rồi cũng chết.
Một tên thái y lo lắng tâu lên:
- Khải bẩm hoàng thượng, trong mình thế tử có chất kịch độc, đến ngay cả đỉa cũng phải chết.
Y có biết đâu Đoàn Dự đã nuốt con Mãng Cổ Chu Cáp vào bụng, dẫu loại rắn rết gì ngửi thấy mùi cũng phải chạy cho xa, dù loại rắn độc nhất cũng bị nhiếp phục, huống chi chỉ là một con đỉa nhỏ nhoi?
Bảo Định Đế trong bụng bồn chồn hỏi lại:
- Thế là loại độc dược gì, lợi hại cỡ nào?
Một tên thái y nói:
- Theo ngu kiến của thần, mạch của thế tử dường như quá nóng, ắt là trúng phải một độc vật cực nhiệt, còn tên ư? Đó là ... đó là ... vi thần ngu dốt ...
Tên thái y kia cãi lại:
- Không phải, mạch của thế tử âm hư, độc tính cực hàn, phải dùng nhiệt độc để trung hòa.
Trong cơ thể Đoàn Dự có các luồng nội lực dương cương của Hoàng Mi tăng, Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu lại cũng có các luồng âm nhu của Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc hai tên thái y mỗi bên một cách không ai nói được thực sự nó là cái gì.
Bảo Định Đế thấy hai người tranh luận, cả hai đều là danh y giỏi nhất nước Đại Lý, bây giờ quan điểm lại khác hẳn nhau đủ biết tà độc trong người cháu mình thật là quái đản liền đưa ba ngón trỏ, giữa và vô danh bàn tay phải để nhẹ nhàng lên huyệt Liệt Khuyết. Con cháu nhà họ Đoàn mạch không nhảy ở nơi cổ tay mà lại nhảy nơi huyệt Liệt Khuyết, y gia gọi là phản quan mạch.
Hai tên thái y thấy hoàng thượng vừa ra tay đã chứng tỏ một người tinh thông y đạo đều cực kỳ bội phục. Một gã nói:
- Trong y thư có chép là: người nào có phản quan mạch ở tay trái chủ về quí, có ở tay phải chủ về phú, nếu có cả hai bên thì đại phú đại quí. Bệ hạ, Trấn Nam Vương, thế tử ba vị đều có phản quan mạch.
Tên thái y kia liền cãi:
- Ba vị đại phú đại quí nào có phải chỉ vì có phản quan mạch mà nên đâu.
Người kia nói:
- Chứ còn gì nữa. Thế tử có mạch tượng đại phú đại quí đủ biết bệnh tuy hung hiểm thật nhưng cũng không sao cả.
Thế nhưng gã kia đâu có tin là thế nghĩ thầm: “Người đại phú đại quí tưởng không chết non à?”. Thế nhưng y làm sao dám nói ra câu đó.
Bảo Định Đế thấy mạch cháu mình vừa nhanh vừa mạnh, nếu cứ nhảy thế này thì tâm tạng làm sao chịu nổi? Ông hơi nhấn tay một chút định xem trong kinh mạch có gì lạ, đột nhiên nội lực trong người tuôn ra ào ào rồi biến mất không thấy gì nữa nên hoảng hồn vội vàng buông tay. Ông có biết đâu Đoàn Dự đã luyện được thủ Thái Âm Phế Kinh trong Bắc Minh thần công mà huyệt Liệt Khuyết là một trong những huyệt đạo của mạch này. Bảo Định Đế vừa vận nội kình lập tức nội lực đổ vào người Đoàn Dự.
Đoàn Dự rùng mình kêu lên:
- Chao ôi!
Người rung động mạnh run rẩy như cầy sấy. Bảo Định Đế lùi lại hai bước hỏi:
- Dự nhi, cháu đã gặp Đinh Xuân Thu của Tinh Tú Hải chăng?
Đoàn Dự lắp bắp:
- Đinh ... Đinh Xuân Thu ư? Điệt nhi không biết y là ai cả.
Bảo Định Đế nói:
- Nghe nói y là một ông già trông rất tiên phong đạo cốt chẳng khác gì người trong tranh vẽ.
Đoàn Dự đáp:
- Cháu chưa từng gặp ông ta bao giờ.
Bảo Định Đế nói:
- Người này có một môn công phu tà môn, chuyên làm tiêu hủy công lực người khác, gọi là Hóa Công đại pháp, có thể phế trừ được võ công tu luyện cả đời của người khác trong một lúc, người trong võ lâm ai ai cũng ghét cay ghét đắng. Cháu chưa từng gặp y, sao ... sao lại học được tà môn đó?
Đoàn Dự vội đáp:
- Điệt nhi chưa ... chưa từng học bao giờ. Hóa Công đại pháp của Đinh Xuân Thu kia, đây là lần đầu tiên cháu được nghe bá phụ nói tới.
Bảo Định Đế xem chừng chàng không dám nói láo nhưng sao lại hóa tán nội lực của mình được, nghĩ một chút chợt hiểu ra: “Đúng rồi! Chắc là Đoàn Diên Khánh học mông công phu này, không biết làm sao mà đưa được tà môn đó vào người Đoàn Dự để cho nó ngẫu nhiên làm hại ta và Thuần đệ. Hà hà, người này đã dám xưng là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân, quả thật danh bất hư truyền”.
Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay cào cấu khắp người, quần áo rách bươm, trên da đầy những vết máu, cố hết sức gắng gượng mới khỏi kêu ầm lên nhưng miệng rên rỉ không ngừng. Đao Bạch Phượng luôn mồm dỗ con:
- Dự nhi, con cố chịu một chút, lát nữa sẽ bớt.
Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Cái nạn đề này chỉ còn cách lên chùa Thiên Long cầu giáo thôi”. Ông bèn nói:
- Dự nhi, ta đưa cháu đi bái kiến vài vị trưởng bối mong rằng họ có cách để trị tà độc cho cháu.
Đoàn Dự đáp lời:
- Vâng!
Đao Bạch Phượng vội vàng lấy quần áo cho con thay. Bảo Định Đế dẫn chàng ra khỏi phủ, mỗi người cưỡi một con ngựa đi về hướng núi mờ mờ xa.
Chùa Thiên Long nằm ở ngọn trung nhạc phía bắc dãy núi Điểm Thương ở bên ngoài thành Đại Lý, tên chính thức của ngôi chùa này là Sùng Thánh Tự nhưng người trong nước quen gọi là chùa Thiên Long. Chùa quay lưng vào núi cao, đối diện là sông Nhĩ_, hình thế thật là uy nghi. Chùa có ba ngọn tháp kiến tạo từ đầu đời Đường_, tháp lớn nhất cao hơn hai trăm thước_ gồm mười sáu tầng, đỉnh tháp đúc bằng sắt có ghi: “Đại Đường Trinh Quan Uất Trì Kính Đức tạo”_. Tương truyền chùa Thiên Long có năm báu vật mà ba ngọn tháp đứng đầu trong ngũ bảo_.
Họ Đoàn từ xưa tới nay các triều vua thường rời ngôi báu thì xuất gia làm sư, ai nấy đều tu tại chùa Thiên Long thành ra chùa Thiên Long cũng là gia miếu của hoàng thất được tôn vinh hơn cả trong các chùa chiền trong nước. Các vị hoàng đế sau khi xuất gia rồi, con cháu đến ngày sinh nhật thường lên chùa lễ bái, lần nào cũng có cúng dường trùng tu. Trong chùa có ba gác, bảy ngôi lầu, chín điện và một trăm gian qui mô thật là to lớn_, cấu trúc tinh kỳ so với danh sơn thắng địa ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi_ là nơi có chùa chiền lớn cũng không kém gì, có điều ở sâu tại nam cương nên tên tuổi không mấy vang dội.
Trên đường đi Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa được bá phụ chỉ điểm cách trấn nhiếp nội tức đang xung đột trong cơ thể cũng bớt khó chịu lẽo đẽo theo được Bảo Định Đế đến tận chùa Thiên Long. Chùa này là nơi nhà vua thường đến nên liền đi vào yết kiến phương trượng Bản Nhân đại sư.
Nếu tính vai vế trong họ ở ngoài đời thì Bản Nhân đại sư là chú của Bảo Định Đế, người xuất gia không giữ lễ quân thần, cũng không theo bối phận trong gia tộc nên hai bên dùng lễ phép ngang hàng mà xưng hô. Bảo Định Đế kể lại Đoàn Dự bị Diên Khánh thái tử bắt giữ ra sao, rồi trúng tà độc thế nào, nhiễm phải tà công hóa giải nội lực người khác kể lại một lượt.
Bản Nhân phương trượng trầm ngâm một hồi nói:
- Xin mời theo ta đến Mâu Ni Đường để gặp ba vị sư huynh sư đệ.
Bảo Định Đế đáp:
- Làm phiền đến sự thanh tu của các vị đại hòa thượng quả thực tội lỗi quá lắm.
Bản Nhân phương trượng đáp:
- Trấn Nam thế tử mai sau là tự quân của nước Đại Lý ta, trên vai gánh vác họa phúc của trăm họ. Kiến thức nội lực của bệ hạ còn hơn cả ta nữa nhưng đã phải tới đây hỏi thì chuyện ắt là khó khăn trăm phần. Một mình ta không thể quyết định phải cùng với ba vị sư huynh đệ thương lượng mới xong.
Hai chút tiểu đi trước dẫn đường đi sau là Bản Nhân phương trượng, kế đến là hai bác cháu Bảo Định Đế theo Thụy Hạc môn ở bên trái tiến vào, đi qua cửa Thiên Môn, gác Thanh Đô, mỏm Ký Ký, cung Đẩu Mẫu và cung Tam Nguyên rồi Đại Sĩ viện, Vũ Hoa viện, Bát Nhã đài đến một hành lang dài thì hai chú tiểu khom lưng đứng tránh sang hai bên không đi tiếp nữa. Ba người theo hành lang đó đi về hướng tây đến trước mấy căn nhà. Đoàn Dự đã từng đến chùa Thiên Long nhiều lần nhưng nơi đây chưa từng đến, thấy mấy gian nhà đó đều làm bằng những cây thông ghép thành, cửa nẻo cột kèo đều là cây cắt ra chưa lột vỏ thật là tự nhiên, khác hẳn những điện đài tường vàng mái ngói rực rỡ trên đường đi.
Bản Nhân phương trượng chắp hai tay nói:
- A Di Đà Phật, Bản Nhân có một việc nghi nan bất quyết đến làm phiền công quả của ba vị sư huynh đệ.
Trong nhà có tiếng người vọng ra:
- Mời phương trượng vào.
Bản Nhân giơ tay chầm chậm đẩy cửa, cánh cửa kẹt kẹt đủ biết bình thời ít ai dùng đến. Đoàn Dự đi theo phương trượng và bá phụ tiến vào, chàng nghe phương trượng nói đến “ba vị sư huynh sư đệ” nhưng trong nhà có đến bốn nhà sư mỗi người ngồi trên một cái bồ đoàn riêng. Ba nhà sư ngồi hướng ra ngoài, trong đó hai người mặt khô héo còn một người cao to hồng hào. Hòa thượng ở phía đông ngồi quay vào trong tường lặng yên không cử động.
Bảo Định Đế nhận ra hai nhà sư gầy gò vàng vọt kia pháp danh Bản Quan, Bản Tướng đều là sư huynh của phương trượng Bản Nhân, còn người cao to kia pháp danh Bản Tham là sư đệ của ông ta. Nhà vua chỉ biết trong Mâu Ni Đường chùa Thiên Long có ba cao tăng Quan, Tướng, Tham, đâu ngờ rằng lại còn một vị khác, lập tức khom lưng hành lễ, các nhà sư mỉm cười đáp lại. Nhà sư quay vào tường kia không biết đang nhập định hay đang lúc hành công khẩn yếu nên không thể phân tâm, trước sau không để ý gì tới. Bảo Định Đế biết rằng hai chữ Mâu Ni vốn nghĩa là tĩnh mịch, trầm mặc, nơi đây được đặt tên Mâu Ni Đường nên càng nói ít chừng nào tốt chừng nấy, nên vắn tắt kể lại chuyện Đoàn Dự bị trúng tà độc, sau cùng kết luận:
- Thỉnh cầu bốn vị đại đức chỉ điểm cho một con đường sáng.
Bản Quan trầm ngâm một hồi, quay sang Đoàn Dự ngắm nghía thật lâu rồi mới nói:
- Hai vị sư đệ ý kiến ra sao?
Bản Tham nói:
- Nếu bị tổn thất nội lực e rằng không luyện xong được Lục Mạch Thần Kiếm.
Bảo Định Đế nghe nói đến bốn chữ Lục Mạch Thần Kiếm trong lòng chấn động nghĩ thầm: “Khi còn bé ta từng nghe cha ta nói đến họ Đoàn chúng ta tổ tiên có một môn võ công gọi là Lục Mạch Thần Kiếm, uy lực vô cùng ghê gớm. Thế nhưng cha ta cũng nói rằng cái đó cũng chỉ truyền lại vậy thôi chưa nghe nói vị tổ tiên nào luyện được, ngay cả công phu đó thần kỳ bậc nào cũng không ai hay biết. Bản Tham đại sư nói như vậy hóa ra có môn kỳ công này thật”. Ông chợt nghĩ: “Câu nói của Bản Tham đại sư có ý là nếu như dùng nội lực giải độc cho Dự nhi thì sẽ làm trở ngại cho việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm. Thế nhưng Dự nhi trúng phải tà độc, tà công cực kỳ quái lạ nếu không nhờ vào sức của năm người thì làm sao mà trị được?”. Trong lòng ông tuy thấy băn khoăn nhưng cũng không lên tiếng từ chối.
Hòa thượng Bản Tướng không nói một lời, đứng dậy cúi đầu đôi lông mày rủ xuống lim dim đứng vào phương vị đông bắc. Bản Quan, Bản Tham cũng đứng ra hai vị trí. Bản Nhân phương trượng bước vào vị trí phía tây nói:
- Thiện tai! Thiện tai!
. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, bốn vị tổ công trưởng lão không ngại tổn hao công lực, giúp con khu trị tà độc, mau khấu đầu bái tạ.
Đoàn Dự nhìn thần sắc của bá phụ và cử chỉ của tứ tăng biết việc này không phải tầm thường, lập tức quì về phía bốn nhà sư khấu đầu từng người. Bốn nhà sư mỉm cười gật đầu. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, cháu ngồi xuống xếp bằng, trong lòng đừng suy nghĩ gì cả, toàn thân không sử dụng chút lực khí nào, nếu như đau nhói, ngứa ngáy, chỉ là hiện tượng bình thường chớ có kinh hãi, khiếp sợ.
Đoàn Dự vâng lời ngồi xuống.
Bản Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra, ngưng khí một chút rồi ấn vào sau huyệt Phong Phủ sau ót Đoàn Dự, lực đạo Nhất Dương Chỉ cuồn cuộn tuôn ra. Huyệt Phong Phủ nằm cách chân tóc chừng một tấc, thuộc về Đốc Mạch. Kế đó Bản Tướng hòa thượng cũng điểm huyệt Tử Cung thuộc về Nhâm Mạch, Bản Tham thì điểm huyệt Đại Hoành thuộc Âm Duy Mạch còn Bản Nhân phương trượng điểm vào huyệt U Môn thuộc Xung Mạch và huyệt Chương Môn thuộc Đới Mạch, Bảo Định Đế điểm vào huyệt Tinh Minh trên Âm Kiều Mạch. Kỳ kinh bát mạch tổng cộng tám đường kinh mạch, năm người để lại Dương Duy, Dương Kiều hai mạch không điểm. Cả năm người đều sử dụng công phu Nhất Dương Chỉ, dùng lực thuần dương để đẩy tà độc, tà công trong người Đoàn Dự theo các huyệt đạo từ hai mạch Dương Duy, Dương Kiều ra ngoài.
Năm đại cao thủ họ Đoàn công lực ngang ngửa nhau, chỉ nghe tiếng vèo vèo, năm nguồn thuần dương nội lực cùng tống vào cơ thể Đoàn Dự. Đoàn Dự thân thể rung động, lập tức thấy người thật là thư thái ấm áp chẳng khác gì đang lúc mùa đông ra sưởi nắng ngoài trời. Năm người vừa vận kình thấy nội lực của mình tuôn vào người Đoàn Dự rồi biến đâu mất không thể nào thu trở về được. Đoàn Dự chưa luyện Bắc Minh thần công đầy đủ kỳ kinh bát mạch nhưng năm cao thủ đẩy nội lực vào người chàng không còn cách nào khác mỗi khi truyền tới biển khí nơi huyệt Đãn Trung thì lập tức chứa vào đó. Năm đại cao thủ họ Đoàn người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hoảng đầy nghi vấn, không hiểu ra sao.
Bỗng nghe một gầm thật lớn, tai người nào người nấy ù cả đi. Bảo Định Đế biết đó là một công phu thượng thừa trong Phật môn tên là Sư Tử Hống, trong thanh âm chứa một luồng nội lực cực kỳ thâm hậu có tác dụng nhiếp phục kẻ địch, cảnh tỉnh phe mình. Bỗng nghe nhà sư quay mặt vào tường lên tiếng:
- Cường địch nội trong hôm nay sẽ tới, uy danh của chùa Thiên Long hàng trăm năm nay lung lay muốn đổ, đứa trẻ miệng còn măng sữa này trúng độc cũng vậy, trúng tà cũng vậy, lẽ nào lại vì y mà hao phí công lực ư?
Mấy câu nói nó đầy vẻ uy nghiêm. Bản Nhân phương trượng đáp:
- Lời dạy của sư thúc phải lắm.
Tay trái ông vẫy một cái, cả năm người cùng lui trở ra. Bảo Định Đế nghe phương trượng gọi ông ta là sư thúc vội nói:
- Không biết có Khô Vinh trưởng lão nơi đây, vãn bối chưa kịp lễ kính quả thực có lỗi.
Thì ra Khô Vinh trưởng lão là người vai vế cao nhất trong chùa Thiên Long, diện bích đã mấy chục năm, chư tăng chúng trong chùa chẳng ai biết khuôn mặt thật của ông ta như thế nào. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe tiếng chứ trước nay chưa hề bái kiến, chỉ nghe nói ông ta tu khô thiền_ một mình trong Song Thụ Viện, hơn chục năm qua chẳng nghe ai nhắc đến lại tưởng ông ta đã viên tịch rồi.
Khô Vinh trưởng lão nói:
- Việc có khinh trọng hoãn cấp, ước hẹn với Đại Luân Minh Vương của Đại Tuyết Sơn chớp mắt là tới rồi. Chính Minh, ngươi cũng nên biết việc này.
Bảo Định Đế đáp:
- Vâng!
Ông nghĩ thầm: “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Minh Vương Phật pháp uyên thâm nhưng có liên quan gì đến chúng ta đâu?”.
Bản Nhân phương trượng lấy trong túi ra một phong thư sáng choang để vào tay Bảo Định Đế. Bảo Định Đế cầm lấy thấy nặng chình chịch, lá thư đó quả thật kỳ dị, dùng vàng ròng dát thật mỏng làm phong bì trên khảm bạch kim thành chữ Phạn. Bảo Định Đế đọc được thấy viết là: “Thư trình Sùng Thánh Tự trụ trì”. Ông mở ra lấy phong thư cũng là vàng lá dát thật mỏng đại ý viết:
“Năm xưa có duyên gặp được Mộ Dung Bác tiên sinh, đính giao kết bạn để đàm luận võ công đương thời. Mộ Dung Bác tiên sinh rất ngưỡng mộ Lục Mạch Thần Kiếm của quí tự nhưng chưa từng được xem qua nên rất lấy làm thèm khát. Gần đây nghe tin Mộ Dung tiên sinh đã qui tiên, thật là đau lòng, muốn báo đền tấm lòng tri kỷ nên cầu xin quí tự cuốn kinh này để phàn hóa trước mộ của Mộ Dung tiên sinh, ngày một ngày hai sẽ đến lấy xin đừng từ chối. Bần tăng sẽ đem vật quí báu đến đáp đền chứ không dám đến tay không”.
Dưới phong thư thự danh là “Đại Tuyết Sơn Đại Luân Tự Thích tử Cưu Ma Trí chắp tay trăm lạy”. Chữ Phạn trên lá thư cũng nạm bằng bạch kim thật là tinh tế đủ biết do thợ khéo hao phí bao nhiêu tâm huyết mới làm được. Chỉ riêng một lá thư, một bao thư cũng đã là hai món bảo vật trân quí đủ biết người gọi là Đại Luân Minh Vương kia tiêu xài rộng rãi biết chừng nào.
Bảo Định Đế biết Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí là Hộ Quốc Pháp Vương của nước Thổ Phồn nhưng chỉ nghe nói ông ta là kẻ đại trí tuệ, tinh thông Phật pháp, cứ năm năm một lần lại khai đàn giảng kinh thuyết pháp, các cao tăng đại đức ở Tây Trúc, Thiên Trúc kéo đến chùa Đại Luân chất vấn kinh kệ, nghiên thảo nội điển khi trở về ai nấy đều đẹp lòng tấm tắc khen ngợi. Bảo Định Đế Cũng đã tính chuyện thân hành đi nghe giảng kinh. Trong thư này nói là y cùng Mộ Dung Bác đàm luận võ công hai bên kết thành tri kỷ vậy thì y cũng là một đại cao thủ trong võ học. Một người đại trí đại tuệ như thế không học võ thì thôi chứ nếu đã đi vào con đường này thì cũng giỏi không kể đâu cho hết.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Lục Mạch Thần Kiếm Kinh là bảo vật trấn tự, là đỉnh cao của võ học họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh, võ học tối cao của họ Đoàn ta là ở chùa Thiên Long, ngươi là người thế tục, tuy cũng là con cháu chúng ta, nhưng nhiều bí áo trong võ học cũng không tiết lộ cho ngươi được.
Bảo Định Đế đáp:
- Chính thế, việc đó vãn bối đã biết rồi.
Bản Quan nói:
- Trong bản tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, ngay cả Chính Minh, Chính Thuần các ngươi cũng không biết, không hiểu sao họ Mộ Dung Cô Tô kia lại hay được?
Đoàn Dự nghe đến đây đột nhiên nghĩ ra trong thạch động núi Vô Lượng nơi Lang Hoàn Phúc Địa trên những giá sách trống rỗng kia nơi thẻ “Đại Lý Đoàn thị” có đề “Nhất Dương Chỉ Quyết, thiếu”, “Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, thiếu” bèn nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ thu góp võ phổ quyền kinh các nhà các phái trong thiên hạ nhưng Nhất Dương Chỉ Quyết và Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của nhà ta vẫn không cách nào kiếm ra được”. Chàng trong bụng có vẻ đắc ý nhưng cũng hơi ái ngại, vì như thế hẳn là thần tiên tỉ tỉ sẽ rất đau lòng”.
Chỉ nghe Bản Tham hậm hực nói:
- Gã Đại Luân Minh Vương kia nghe nói là một cao tăng nổi tiếng trên đời sao lại không thông đạo lý chút nào, dám đến chùa chúng ta xin cuốn kinh đó? Chinh Minh, phương trượng sư huynh biết rằng kẻ tốt lành thì chẳng tới, có tới cũng chẳng hay ho gì, hậu quả việc này ra sao không phải là nhỏ nên tự mình không thể chủ trương được nên đã mới Khô Vinh sư thúc đứng ra chủ trì đại cuộc.
Bản Nhân nói:
- Bản tự tuy có cuốn kinh đó thật nhưng nói ra thật là hổ thẹn, không một ai trong chúng ta luyện thành thân công ghi trong kinh, ngay cả có gì kỳ diệu ẩn dấu trong đó cũng không ai biết. Khô Vinh sư thúc luyện tập khô thiền, cũng là một thần công của bản tự đang vào thời kỳ kiết hạ sắp sửa thành tựu. Bọn ta chưa luyện thành thần công, người ngoài chưa chắc đã biết không lẽ Đại Luân Minh Vương ỷ thế không xem mình vào đâu, chẳng coi tuyệt học Lục Mạch Thần Kiếm ra gì hay sao?
Khô Vinh lạnh lùng đáp:
- Xem ra không phải y dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Trong thư rõ ràng y rất khâm phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh lại thèm muốn bộ kinh này. Có điều y cho rằng bản tự không có cao nhân nào xuất quần bạt tụy, bảo kinh tuy quí báu thật nhưng không một ai luyện thành thật là uổng phí.
Bản Tham lớn tiếng nói:
- Nếu y ngưỡng mộ như thế xin hỏi mượn xem qua, chúng ta kính trọng y là một cao tăng cửa Phật, cùng lắm thì cũng chỉ lựa lời từ khước thì cũng không lấy gì quá đáng. Tức nhất là chỗ y muốn đem đi đốt để cúng người chết, có phải coi thường chùa Thiên Long lắm hay sao?
Bản Tướng thở dài nói:
- Sư đệ chớ nên vì việc này mà giận dữ phiền não, ta xem gã Đại Luân Minh Vương kia chẳng phải là kẻ cuồng vọng đâu, có lẽ y học đòi công tử Quí Trát_ nước Ngô treo kiếm trên mộ người xưa dủ biết y cực kỳ khâm phục Mộ Dung tiên sinh. Ôi, bạn hiền đã chết, không còn thấy lại được người xưa ...
Nói rồi ông chậm rãi lắc đầu. Bảo Định Đế nói:
- Bản Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh này là ai không?
Bản Tướng đáp:
- Ta không biết. Thế nhưng thử nghĩ Đại Luân Minh Vương là hạng người như vậy mà còn khâm bội như thế thì Mộ Dung tiên sinh hẳn là người thật phi thường.
Nói xong ông lặng người đi. Bản Nhân phương trượng nói:
- Sư thúc xét tình thế bên địch, thấy rằng chúng ta nếu như không luyện cho xong Lục Mạch Thần Kiếm e rằng bảo kinh không chừng bị người ta đoạt mất, uy danh chùa Thiên Long tan ra mây khói. Có điều môn thần kiếm này toàn là do nội lực làm chủ không thể gấp rút một ngày một buổi mà xong. Chính Minh, không phải bọn ta thấy cháu Dự bị trúng tà độc mà thõng tay không ngó ngàng gì đến, chỉ sợ tất cả hao tổn nội lực quá nhiều, cường địch đột nhiên tới nơi thật khó mà chống đỡ. Xem ra y tuy bị trúng tà độc nặng thật nhưng trong vòng vài ngày không nguy gì đến tính mạng, cứ để cho y tĩnh dưỡng ở đây mấy hôm, thương thế nếu như có gì đột biến, chúng ta sẽ tùy thời tìm cách cứu chữa, đợi khi đẩy lui được đại địch rồi, tất cả sẽ giốc toàn lực khu trừ tà độc cho y, được chăng?
Bảo Định Đế tuy lo lắng cho bệnh trạng của Đoàn Dự nhưng ông là người rất biết đại thể, biết rằng chùa Thiên Long là gốc rễ của họ Đoàn nước Đại Lý. Mỗi khi hoàng thất gặp chuyện khó khăn, chùa Thiên Long đều hết sức cứu viện để chuyển nguy thành an. Năm xưa gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Thượng Đức Đế soán ngôi tất cả đều nhờ vào chùa Thiên Long hợp với trung thần Cao Trí Thăng dẹp loạn. Họ Đoàn Đại Lý được nước từ năm Đinh Dậu đời Ngũ Đại Thạch Tấn Thiên Phúc thứ hai, tới nay đã một trăm năm mươi tám năm, trải qua biết bao sóng to gió cả nhưng xã tắc cũng không bị sụp đổ đều là nhờ chùa Thiên Long ổn trấn kinh kỳ mấy lần, hôm nay chùa có việc khẩn cấp thật không khác gì xã tắc lâm nguy, bèn nói:
- Phương trượng nhân đức, Chính Minh cảm kích không để đâu cho hết, không biết để đối phó với Đại Luân Minh Vương, Chính Minh có đem chút lực nhỏ giúp đỡ gì được hay chăng?
Bản Nhân trầm ngâm đáp:
- Ngươi là cao thủ đệ nhất trong số tục gia của họ Đoàn ta, nếu như có thể liên thủ cùng ngăn chặn cường địch thì tiếng tăm càng tăng gia. Thế nhưng ngươi là người thế tục mà tham dự vào tranh chấp trong chốn Phật môn, không khỏi khiến cho Đại Luân Minh Vương cười chùa Thiên Long này không có người.
Khô Vinh bỗng nói:
- Nếu chúng ta mỗi người luyện Lục Mạch Thần Kiếm riêng, thì dù là ai chăng nữa cũng không đủ nội lực, chẳng thể nào luyện thành. Ta đã từng nghĩ tới một cách học tắt, mỗi người chỉ luyện một mạch, sáu người cùng ra tay. Tuy rằng lấy sáu địch một có thắng cũng không thượng võ nhưng chúng ta đâu có phải chủ trương cùng y đơn độc tranh hùng mà là bảo kinh hộ tự, dẫu có một trăm người đánh một người thì cũng được như thường. Có điều tính tới tính lui, trong chùa Thiên Long không tìm đâu ra sáu người chỉ lực tương đương cho nên vẫn trù trừ không quyết định được. Chính Minh, ngươi đến thật vừa đủ số. Có điều ngươi phải cạo đầu, mặc tăng y mới được.
Ông ta càng nói càng nhanh dường như có chiều hưng phấn, nhưng giọng nói vẫn lạnh như băng. Bảo Định Đế đáp:
- Qui y đầu Phật vốn là chí nguyện của Chính Minh này, có điều thần kiếm bí áo, Chính Minh chưa từng thấy từng nghe, trong giây lát e rằng ...
Bản Tham nói:
- Công phu cơ bản của lộ kiếm pháp này, ngươi vốn đã biết rồi, chỉ cần ghi nhớ kiếm pháp là đủ.
Bảo Định Đế không hiểu hỏi lại:
- Thỉnh phương trượng chỉ điểm.
Bản Nhân phương trượng đáp:
- Ngươi ngồi xuống đây.
Bảo Định Đế liền ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn. Bản Nhân nói:
- Lục Mạch Thần Kiếm không phải là kiếm thực mà là chỉ lực của Nhất Dương Chỉ dùng làm kiếm khí, hữu chất vô hình, có thể gọi là vô hình khí kiếm. Sở dĩ gọi là lục mạch tức là sáu mạch trên tay bao gồm Thái Âm Phế Kinh, Quyết Âm Tâm Bao Kinh, Thiếu Âm Tâm Kinh, Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Dương Minh Vị Kinh, Thiếu Âm Tam Tiêu Kinh.
Nói rồi ông lấy từ phía sau bồ đoàn Bản Quan đang ngồi ra một quyển trục. Bản Tướng cầm lấy treo lên trên tường, quyển trục mở ra mặt vải vì lâu ngày nên đã vàng ố, trên đó vẽ một người đàn ông khỏa thân, thân thể ghi rõ các huyệt đạo, các đường kinh mạch màu đỏ và màu đen vận chuyển thế nào. Bảo Định Đế là một đại hành gia về Nhất Dương Chỉ, pho Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này dùng chỉ lực Nhất Dương Chỉ làm cơ bản nên ông vừa trông đã hiểu ngay.
Đoàn Dự ngồi dưới đất thấy trên cẩm trục vẽ hình người đàn ông lõa thể, nhớ đến cuốn kinh mình làm rách mất, nghĩ thầm: “Kinh mạch huyệt đạo trên con người, nam nữ có khác gì nhau, thần tiên tỉ tỉ kể cũng lạ, tại sao lại vẽ thành hình đàn bà, mà những người khỏa thân kia lại vẽ tướng mạo của mình là sao?”. Chàng xem ra có điều gì không ổn, dường như thần tiên tỉ tỉ muốn đem sắc đẹp để dụ dỗ người ta, khiến người ta không thể không luyện thần công ghi trong đó, mình trong lúc thần trí mơ hồ làm hủy hoại cuốn kinh, không chừng lại làm tiêu tan một trường kiếp nạn. Có điều nếu nghĩ như thế thì quả là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ nên ý nghĩ chỉ thoáng qua trong đầu rồi thôi, không dám nghĩ ngợi thêm nữa.
Bản Nhân nói:
- Chính Minh, ngươi là chủ của nước Đại Lý, cải trang mặc quần áo khác, tuy chỉ là kế quyền nghi nhất thời, nhưng nếu để đối phương nhìn ra thì thật là tổn hại đến quốc thể. Lợi hại hai bên thế nào, nhà ngươi tự quyết định lấy.
Bảo Định Đế chắp hai tay nói:
- Hộ pháp hộ tự là việc nghĩa lẽ nào còn tính toán gì nữa.
Bản Nhân nói:
- Hay lắm, chỉ vì Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này không truyền cho đệ tử tục gia, ngươi phải thế độ thì ta mới truyền cho ngươi được. Đợi khi nào đẩy lui được cường địch rồi lúc ấy ngươi hãy hoàn tục.
Bảo Định Đế đứng lên, quì hai gối xuống nói:
- Xin đại sư mở lòng từ bi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Ngươi lại đây, để ta thế độ cho ngươi.
Bảo Định Đế tiến lên quì xuống ở sau lưng ông ta. Đoàn Dự thấy bá phụ định cắt tóc đi tu, trong lòng hơi bàng hoàng. Khô Vinh đại sư đưa tay phải ra, vòng lại sau để lên đầu Bảo Định Đế, bàn tay trông như không còn chút thịt nào, da sát vào chẳng khác gì một bộ xương khô. Khô Vinh đại sư vẫn ngồi đó không quay lại đọc một bài kệ:
Đã mang nghiệp xuống cõi trần,
Khác chi hạt bụi xoay vần hư không.
Lang thang nơi cõi mênh mông,
Nếu chưa kiến tính còn trong luân hồi.
Nhất vi trần trung nhập tam muội,
Thành tựu nhất thiết vi trần định.
Nhi bỉ vi trần diệc bất tăng,
Ư nhất phổ hiện nan tư sát.
Bàn tay ông đưa lên bao nhiêu tóc trên đầu Bảo Định Đế lả tả rơi xuống, đầu trọc lốc không còn một sợi nào, tưởng như có dùng dao cạo cũng không nhẵn được đến thế. Đoàn Dự cố nhiên hết sức kinh ngạc mà cả Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Nhân mọi người đều vô cùng bội phục: “Khô Vinh đại sư tham tu khô thiền công lực đạt đến mức cao thâm thật”.
Lại nghe Khô Vinh đại sư nói tiếp:
- Ngươi vào cửa Phật lấy pháp danh là Bản Trần.
Bảo Định Đế chắp tay đáp:
- Tạ sư phụ ban cho tên này.
Trong Phật môn không còn câu nệ vai vế ngoài đời, Bản Nhân phương trượng tuy là thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng Bảo Định Đế được Khô Vinh thế độ nên thành sư đệ của Bản Nhân. Kế đó Bảo Định Đế đi thay tăng bào, tăng hài biến ngay thành một vị hữu đạo cao tăng.
Khô Vinh đại sư nói:
- Gã Đại Luân Minh Vương kia hôm nay sẽ đến không chừng. Bản Nhân, ngươi đem những bí áo trong Lục Mạch Thần Kiếm truyền cho Bản Trần.
Bản Nhân đáp:
- Vâng!
Ông chỉ vào kinh mạch đồ trên tường nói:
- Bản Trần sư đệ, trong sáu mạch đây, ngươi chuyên tập Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh Mạch, chân khí từ Đan Điền chạy vào các huyệt nơi cánh tay và vai, từ Thanh Lãnh Uyên đến huyệt Thiên Tỉnh nơi khoeo tay, sau đó chạy tới Tứ Độc, Tam Dương Lạc, Hội Tông, Ngoại Quan, Dương Trì, Trung Chử, Dịch Môn, ngưng tụ chân khí từ ngón tay vô danh theo huyệt Quan Xung mà phóng ra.
Bảo Định Đế y theo đó vận chân khí, ra đến đầu ngón tay vô danh nghe tiếng vèo vèo theo huyệt Quan Xung vọt ra. Khô Vinh đại sư vui mừng nói:
- Nhà ngươi nội lực tu luyện không phải tầm thường. Pho kiếm pháp này tuy biến hóa phức tạp thật nhưng nếu kiếm khí đã thành rồi thì có thể tùy ý mà vận dụng.
Bản Nhân nói:
- Cứ theo bản ý của Lục Mạch Thần Kiếm thì phải do một người cùng sử dụng cả sáu mạch kiếm khí. Có điều bây giờ là thời mạt thế, võ học suy vi, không có ai nội lực đủ hùng hậu để làm chuyện đó, chúng ta đành phải sáu người chia ra sử dụng sáu mạch kiếm khí. Sư thúc chuyên luyện Thiếu Thương Kiếm ở ngón tay phải, ta chuyên luyện Thương Dương Kiếm ở ngón tay trỏ, Bản Quan sư huynh luyện Trung Xung Kiếm ở ngón tay giữa, Bản Trần sư đệ luyện Quan Xung Kiếm ở ngón tay vô danh, Bản Tướng sư huynh luyện Thiếu Xung Kiếm ở ngón tay út, Bản Tham sư đệ luyện Thiếu Trạch Kiếm ở ngón út tay trái. Việc không thể chậm trễ, chúng ta nên bắt đầu ngay là vừa.
Ông ta lấy ra sáu bức đồ hình, treo lên bốn bức tường, hình vẽ Thiếu Thương Kiếm ngay trước mặt Khô Vinh đại sư. Mỗi bức vẽ đầy những đường ngang dọc giao thoa, hình tròn cũng như hình cánh cung. Sáu người ai nấy chăm chú luyện kiếm khí đồ của mình, giơ ngón tay ra điểm hờ, vẽ hờ lên trên không.
Đoàn Dự len lén ngồi lên thấy chân khí trong người dâng tràn, so với khi trước còn khó chịu hơn nhiều. Thì ra Bảo Định Đế, cùng sư huynh đệ của phương trượng Bản Nhân đã đem một số lượng nội lực đáng kể truyền vào người chàng. Đoàn Dự thấy bá phụ và những người khác tập trung tinh thần vận công nên không dám lên tiếng quấy nhiễu, ngồi ngơ ngẩn một lúc thấy thật rảnh rỗi, vô ý đưa mắt nhìn vào bức hình kinh mạch huyệt đạo treo trước mặt Khô Vinh đại sư. Chàng coi một hồi bỗng thấy cánh tay phải của mình giật giật liên tiếp, tưởng như có con gì ở trong da thịt muốn chui ra ngoài. Nơi con vật muốn chui ra đó chính là huyệt Khổng Tối ghi trên đồ hình.
Đường kinh mạch Thủ Thái Âm Phế Kinh chàng đã từng luyện qua, những huyệt đạo trên tường giống hệt những huyệt ghi trên hình người đàn bà khỏa thân nhưng đường đi thì hoàn toàn khác hẳn. Chàng nhìn theo một đường dây đỏ trên bức vẽ, từ huyệt Khổng Tối đến huyệt Đại Uyên rồi nhảy trở về Xích Trạch, rồi chạy xuống dưới tới huyệt Ngư Tế, tuy chạy ngược chạy xuôi nhưng luồng chân khí tả xung hữu đột trong cơ thể vẫn thuận theo tâm ý, chạy ngược lên đến khuỷu tay rồi chạy thẳng lên cánh tay. Chân khí thuận theo kinh mạch mà vận hành, bao nhiêu nhộn nhạo khó chịu trong người liền tiêu giảm, chàng chuyên tâm ngưng chí đem luồng chân khí chuyển vào huyệt Đãn Trung.
Thế nhưng kinh mạch vận hành không giống như theo người đàn bà khỏa thân trên bức trục gấm nên luồng chân khí này không dễ dàng chạy vào huyệt Đãn Trung. Một hồi sau chàng liền phải suýt soa kêu lên mấy tiếng, Bảo Định Đế vội quay lại hỏi:
- Cháu thấy trong người ra sao?
Đoàn Dự đáp:
- Trong người cháu có vô số khí chạy nhảy lung tung, khó chịu quá. Cháu theo các sợi đỏ trên bức hình của thái sư bá để đưa khí về huyệt Đãn Trung, nhưng chao ôi! huyệt Đãn Trung càng lúc càng đầy ứ, không đưa thêm vào được. Cháu ... cháu ... huyệt Đãn Trung của cháu muốn nổ tung ra.
Cái cảm giác đó chỉ có người trong cuộc mới biết, chàng thấy ngực căng phồng lên tưởng như sắp vỡ đến nơi còn người ngoài không thấy gì khác thường. Bảo Định Đế biết rằng tu tập nội công ắt sẽ có những huyễn tượng, nhưng nếu huyệt Đãn Trung căng phồng muốn vỡ tung ra thì ít nhất cũng phải tu tập hai chục năm, nội lực hồn hậu vô cùng mới có cảm giác đó được, còn Đoàn Dự chưa từng học qua nội công, huyễn tượng đó hẳn là vì bị trúng tà độc mà thành.
Bảo Định Đế thầm kinh hoảng biết rằng nếu như chàng không thể đạo khí qui hư_ thân thể sẽ bị tê liệt, thế nhưng nếu đem luồng tà độc ấy đưa vào tạng phủ thì sau này trục được ra còn khó khăn vạn lần. Bình thời mỗi khi gặp chuyện nguy nan đại sự ông luôn luôn sáng suốt quả cảm, chỉ một lời là quyết định xong nhưng trước mặt việc quan hệ đến cả đời Đoàn Dự, chỉ sai sẩy một chút lập tức có thể nguy đến tính mạng. Oâng thấy Đoàn Dự hai mắt thần quang tán loạn xem ra có vẻ điên cuồng, không còn chần chờ gì nữa lập tức quyết định: “Thôi thì chỉ còn có nước “ẩm chậm chỉ khát”_ đành vậy biết làm sao hơn”. Ông bèn nói:
- Dự nhi, để ta dạy cháu pháp môn đạo khí qui hư.
Ông liền đem phương pháp chỉ dẫn cho Đoàn Dự. Đoàn Dự không đợi ông nói xong, nghe câu nào lập tức áp dụng ngay câu ấy. Pháp yếu về nội công của họ Đoàn nước Đại Lý quả thực tinh diệu tuyệt luân, chàng vừa theo đó mà làm, bốn luồng chân khí đang cuồn cuộn ở bên ngoài liền thu vào trong tạng phủ. Y thư Trung Quốc gọi các bộ phận trong con người là tạng phủ, tạng đồng nghĩa với tàng trữ còn phủ chính là kho lẫm nên đã hàm ý tụ tập tích súc. Đoàn Dự đầu tiên hút được toàn bộ nội lực của bảy tên đệ tử Vô Lượng Kiếm, sau lại hút một phần nội lực của các cao thủ Đoàn Diên Khánh, Hoàng Mi tăng, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Thôi Bách Tuyền, hôm nay lại được thêm một ít của năm đại cao thủ là Bảo Định Đế, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham, Bản Nhân nên chân khí trong người rất dồi dào, nội lực mạnh mẽ có thể nói là trên đời không ai bì kịp. Bây giờ chàng được bá phụ chỉ điểm, đem các luồng chân khí này tàng trữ nơi tạng phủ, toàn thân càng lúc càng khoan khoái, thấy người nhẹ nhàng tưởng chừng có thể bay lên không.
Bảo Định Đế thấy chàng mặt tươi như hoa cực kỳ vui sướng lại tưởng chàng bị rơi vào ma chướng đã sâu, e rằng tà độc từ này sẽ đeo đuổi không thôi càng khó trừ hơn nữa, không khỏi di lụy suốt đời, trong bụng thầm chua chát.
Khô Vinh đại sư thấy Bảo Định Đế đã truyền dạy công phu xong liền bảo:
- Bản Trần, duyên nghiệp của con người ai làm nấy chịu, họa phúc đúng sai đều do tâm mà sinh ra. Con cũng chẳng nên quá lo lắng cho người khác, mau luyện Thiếu Dương Kiếm đi.
Bảo Định Đế đáp:
- Vâng!
Ông cố gắng thu nhiếp tâm thần, tiếp tục nghiên cứu kiếm pháp. Chân khí trong người Đoàn Dự cực kỳ sung mãn, một buổi một lúc không thể nào đưa hết về tàng trữ trong tạng phủ được, nhưng có điều pháp môn này càng thực hành càng thuần thục, về sau cùng thu càng nhanh. Trong tăng xá bảy người ai cũng lo hành công không để ý phương đông trời đã hưng hửng sáng.
Bỗng nghe tiếng gà gáy vọng lại, Đoàn Dự thấy trong khắp người mình không còn chút chân khí nào ở ngoài nữa nên đứng lên vận động cho dãn gân cốt, thấy bá phụ và năm vị cao tăng vẫn chuyên tâm nghiên luyện kiếm pháp. Chàng không dám mở cửa bước ra ngoài tản bộ, cũng không dám lên tiếng làm rộn sáu người đang hành công, không có việc gì làm, tiện thể nhìn lên hình vẽ kinh mạch của bá phụ xem thử, rồi quay sang nhìn kiếm pháp đồ hình Thiếu Dương Kiếm, tuy đã nghe thái sư bá nói là Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia tử đệ, nhưng nghĩ thầm loại kiếm pháp cao thâm thế này chàng làm sao học nổi có xem cũng chỉ xem chơi cho biết.
Chàng coi đến lúc tâm thần chuyên chú, đột nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ đan điền xông lên đến cánh tay thuận theo đường chỉ đỏ đến huyệt Quan xung ở ngón tay vô danh. Chàng không biết cách vận khí phóng ra chỉ thấy đầu ngón tay vô danh căng phồng thật khó chịu nghĩ thầm: “Thôi ta phải đem luồng khí này trở về mới được”. Chàng nghĩ vậy lập tức luồng chân khí đi theo kinh mạch chạy trở về đan điền.
Đoàn Dự có biết đâu mình vô ý học được một phương pháp nội công thượng thừa, chỉ cảm thấy luồng chân khí chạy tới chạy lui trên cánh tay, muốn sao được vậy, thật là thích thú. Trong ba nhà sư ở Mâu Ni Đường chàng thấy hòa thượng Bản Tướng vui vẻ dễ thân cận nhất nên quay sang nhìn Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh Mạch Đồ của ông ta. Kinh mạch này chạy từ huyệt Cực Tuyền ở dưới nách đi đến huyệt Thanh Linh ở trên khuỷu tay ba tấc, đến huyệt Thiếu Hải ở chỗ lõm dưới cùi chỏ, đi qua các huyệt Linh Đạo, Thông Lý, Thần Môn, Thiếu Phủ tận cùng ở huyệt Thiếu Xung nơi ngón tay út. Chàng ngẫm nghĩ tự nhiên thấy một luồng chân khí đi theo lộ tuyến kinh mạch mà vận hành, có điều nhanh chậm rộng hẹp thì chưa được như ý, có khi thì được, có lúc lại không đi, nghĩ tại mình công lực chưa được bao nhiêu nên cũng không để ý tới nữa.
Chỉ trong nửa ngày Đoàn Dự đã thông qua tất cả các huyệt đạo trên sáu bức đồ hình. Chàng thấy tinh thần sảng khoái, cũng chẳng có việc gì làm nên lại quay qua xem hình vẽ của Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch sáu đường kiếm pháp. Chỉ thấy chỉ đen chỉ đỏ, ngang dọc giao thoa đầu mối thật khó mà dò nghĩ thầm: “Các kiếm chiêu phiền toái thế này, việc gì phải nhớ làm chi? Huống chi thái sư bá đã bảo rằng, tục gia tử đệ không được học kia mà”.
Chàng bèn không xem nữa, trong bụng thấy đói nghĩ bụng: “Sao mấy chú tiểu không ai mang cơm chay hay mì gì cả? Thôi mình len lén chui ra ngoài kiếm gì ăn mới được”. Ngay lúc đó chàng ngửi thấy một mùi đàn hương thơm ngát, tiếp theo là tiếng Phạn tụng niệm văng vẳng tiếng được tiếng mất từ xa truyền tới.
Khô Vinh đại sư nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Đại Luân Minh Vương đã đến rồi đây. Các ngươi luyện được đến đâu rồi?
Bản Tham đáp:
- Tuy chưa thuần thục, nhưng xem chừng cũng đủ để nghinh địch rồi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Hay lắm! Bản Nhân, ta không muốn đi ra vậy ngươi ra mời Minh Vương vào trong Mâu Ni Đường để gặp nhau.
Bản Nhân phương trượng đáp lời:
- Vâng!
Rồi đi ra ngoài. Bản Quan nhặt năm chiếc bồ đoàn lên xếp thành một hàng ở phía đông, bên phía tây để một cái bồ đoàn khác. Ông ta ngồi vào chiếc đệm thứ nhất, Bản Tướng thứ hai, Bản Tham thứ tư để trống chiếc thứ ba cho Bản Nhân phương trượng. Bảo Định Đế ngồi ở chiếc đệm thứ năm còn Đoàn Dự không có chỗ ngồi nên đứng sau lưng Bảo Định Đế.
Cả Khô Vinh lẫn những người khác ôn lại đồ hình một lần cuối rồi mới cuộn các hình vẽ đó lại, để ở trước mặt Khô Vinh đại sư. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, tới khi kịch chiến trong phòng kiếm khí tung hoành rất là hung hiểm, báp hụ không thể nào phân tâm bảo hộ cho cháu được. Cháu đi ra ngoài chơi thì hơn.
Đoàn Dự trong lòng đau đớn: “Nghe lời của mọi người thì gã Đại Luân Minh Vương này võ công cực kỳ lợi hại, Quan Xung kiếm pháp bá phụ mới luyện đây, không biết có địch lại y không, nếu sơ sẩy thì biết làm sao?”. Chàng bèn nói:
- Bá bá, cháu ... cháu ở đây với bác, bác đấu kiếm với người ta cháu không yên tâm ...
Chàng nói đến mấy tiếng sau cùng, thanh âm nghẹn ngào. Bảo Định Đế trong lòng rung động: “Thằng bé này quả là có hiếu”.
Khô Vinh đại sư nói:
- Dự nhi, cháu ngồi trước mặt ta đây, Đại Luân Minh Vương kia dẫu có lợi hại đến đâu cũng không động đến một sợi lông của cháu được.
Giọng nói của ông ta tuy lạnh như băng nhưng ngữ khí có vẻ như ngạo nghễ. Đoàn Dự đáp:
- Vâng!
Chàng khom lưng đi vào trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng không dám ngẩng lên nhìn mặt ông ta, chỉ xếp bằng ngồi xuống. Thân hình Khô Vinh đại sư cao hơn Đoàn Dự nhiều nên che hết người chàng. Bảo Định Đế trong lòng cảm kích lại cũng yên tâm, mới rồi Khô Vinh đại sư dùng Khô Thiền Công cạo đầu cho ông, thần công đó có thể nói là trên đời không ai bì kịp, muốn bảo vệ Đoàn Dự thật quả có thừa.
Sau đó Mâu Ni Đường thật lặng thinh hoàn toàn không một tiếng động. Một lúc sau có tiếng Bản Nhân phương trượng:
- Minh Vương pháp giá xin mới quá bộ lại Mâu Ni Đường.
Kế đó có tiếng người nói:
- Cảm phiền phương trượng dẫn đường cho.
Đoàn Dự nghe giọng nói thật là thân thiết hòa hoãn rất là lễ độ không phải là kẻ hung ác áp bức người khác. Nghe tiếng chân có đến mươi người rồi tiếng Bản Nhân phương trượng mở cửa nói:
- Xin mời Minh Vương.
Đại Luân Minh Vương cất bước tiến vào Phật đường nói:
- Xin phép.
Ông ta hướng về phía Khô Vinh đại sư chắp tay hành lễ nói:
- Vãn bối Cưu Ma Trí của nước Thổ Phồn tham kiếm tiền bối đại sư.
Một tươi một héo hai cây,
Hữu thường bên nọ bên đây vô thường.
Đông Tây Nam Bắc bốn phương,
Thật không, không thật đều không là gì.
Hữu thường vô thường,
Song thụ khô vinh.
Nam Bắc Tây Đông,
Phi giả phi không.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bốn câu kệ này có nghĩa là gì?” Thế nhưng Khô Vinh đại sư giật mình: “Đại Luân Minh Vương bác học tinh thâm, quả thật danh bất hư truyền. Y vừa mới gặp mặt đã nói ngay được lai lịch lối tu khô thiền của ta”.
Năm xưa khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn nơi giữa hai cây bà la_ tại thành Câu Thi Na_ thì bốn phía đông tây nam bắc mỗi hướng có hai cây, một cây tươi, một cây khô cho nên gọi là “tứ khô tứ vinh”. Cứ theo kinh Phật chép: hai cây ở hướng đông tượng trưng cho thường và vô thường, hai cây ở phương nam tượng trưng cho lạc và vô lạc, hai cây ở phương tây tượng trưng cho ngã và vô ngã, còn hai cây ở phương bắc tượng trưng cho tịnh và vô tịnh. Cây cối xanh tốt tượng trưng cho bản tướng tức là thường, lạc, ngã, tịnh; còn khô héo điêu tàn là thực tướng tức là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật Như Lai nhật diệt ở trong tám cảnh giới đó có ý là phi khô phi vinh, phi giả phi không.
Khô Vinh đại sư mấy chục năm qua tu khô thiền cũng chỉ mới cảnh giới “bán khô bán vinh”, không sao lên thêm một tầng nữa để được tới cảnh giới “phi khô phi vinh, diệc khô diệc vinh” nên không khỏi thảng thốt nói:
- Minh Vương từ xa tới đây, lão nạp không đi ra đón được, xin Minh Vương mở lòng từ bi mà tha lỗi cho.
Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí đáp:
- Uy danh của chùa Thiên Long tiểu tăng đã hâm mộ từ lâu, hôm nay được thấy bảo tướng trang nghiêm thực là hân hạnh.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Xin mời Minh Vương ngồi.
Cưu Ma Trí cảm tạ ngồi xuống. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không biết vị Đại Luân Minh Vương này hình dáng thế nào?”. Chàng len lén nghiêng đầu nhìn qua bên hông Khô Vinh đại sư thấy trên một nhà sư mặc tăng bào màu vàng ngồi chiếc bồ đoàn phía tây. Y chưa đến năm mươi tuổi, áo vải giày rơm, vẻ mặt vui tươi dường như có ánh sáng lẩn khuất chẳng khác gì minh châu bảo ngọc tự mang vẻ sáng. Đoàn Dự chỉ mới nhìn qua ông ta đôi lần trong lòng đã nảy sinh một vẻ ngưỡng mộ thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cửa ra ngoài thấy có tám chín hán tử, mặt mày bặm trợn dễ sợ trông không phải người Trung Thổ, chắc là những tùy tòng Đại Luân Minh Vương mang từ Thổ Phồn qua.


1 Tu quay mặt vào tường


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:15 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Tưởng đâu khói phất phơ bay,
Ai ngờ kiếm khí tràn đầy không gian.
*
* *

Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:
- Đức Phật có dạy rằng: Phải vào được cảnh giới không sinh không diệt, không nhơ bẩn cũng không thanh sạch. Thế nhưng tiểu tăng căn khí ngu độn không sao hiểu được lý lẽ yêu ghét tử sinh. Bình sinh tiểu tăng có một người tri giao, là người đất Cô Tô nhà Đại Tống, họ Mộ Dung, tên đơn là Bác. Năm xưa tiểu tăng có duyên gặp gỡ, hai bên đàm luận chuyện võ nghệ. Vị Mộ Dung tiên sinh kia võ học trong thiên hạ không gì không am tường, chỗ nào cũng tinh thông, tiểu tăng được ông ta chỉ điểm mấy ngày, những chỗ còn hồ nghi đều được giải đáp, lại được Mộ Dung tiên sinh khẳng khái tặng cho bí cập thượng thừa, cái ơn sâu xa đó không thể nào quên được. Ngờ đâu bậc đại anh hùng trời lại không cho ở lâu, Mộ Dung tiên sinh tây qui cực lạc mất rồi. Tiểu tăng có một việc cầu xin thật là không thuận tình xin quí vị trưởng lão mở lòng từ bi.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Minh Vương quen biết Mộ Dung tiên sinh cũng là nhân duyên mà thôi, duyên phận hết rồi việc gì phải cưỡng cầu làm gì? Mộ Dung tiên sinh vãng sinh cực lạc đi lễ phật ở chốn liên trì thì còn để tâm gì đến chuyện võ học ở chốn nhân gian? Việc của Minh Vương đang cố công kia phải chăng thêm chân cho rắn?
Cưu Ma Trí đáp:
- Phương trượng chỉ điểm quả thực là chí lý. Có điều tiểu tăng tính tình tham luyến chấp nê, bế quan bốn mươi ngày vẫn không sao dứt được mối tình bè bạn. Năm xưa khi Mộ Dung tiên sinh luận về kiếm pháp trong thiên hạ quả quyết rằng Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long nước Đại Lý là kiếm pháp đệ nhất trong thiên hạ, nhưng tiếc rằng chưa dịp thấy qua khiến phải hối tiếc cả một đời.
Bản Nhân nói:
- Tệ tự ở nơi hẻo lánh phương nam được Mộ Dung tiên sinh yêu mến quả là vinh hạnh. Thế nhưng sao năm xưa Mộ Dung tiên sinh không đích thân tới mượn kiếm kinh xem qua cho biết?
Cưu Ma Trí thở dài một tiếng, sắc mặt sầu thảm, yên lặng một hồi rồi mới đáp:
- Mộ Dung tiên sinh cũng biết kinh này là vật chí bảo của quí tự nếu đến đòi xem ắt là không được. Ông ta bảo là họ Đoàn Đại Lý tuy ở chỗ phú quí đến cực điểm nhưng không quên nghĩa khí giang hồ thuở xưa, yêu thương trăm họ, nhân đức thấm nhuần khắp lê dân nên không tiện ra tay cưỡng đoạt trộm cắp.
Bản Nhân cảm tạ nói:
- Xin cám ơn Mộ Dung tiên sinh đã khen ngợi. Nếu Mộ Dung tiên sinh đã coi trọng họ Đoàn nước Đại Lý như thế, Minh Vương là bằng hữu của ông ta thì cũng nên thể niệm di chí của người đã khuất.
Cưu Ma Trí đáp:
- Có điều năm xưa tiểu tăng từng huênh hoang nói rằng: Tiểu tăng là Quốc Sư nước Thổ Phồn đối với họ Đoàn Đại Lý vô thân vô cố, Thổ Phồn Đại Lý hai nước cũng chưa từng có bang giao mật thiết. Nếu như Mộ Dung tiên sinh không tiện tự mình đến lấy thì tiểu tăng thay mặt làm cho. Đại trượng phu một lời nói ra, dẫu chết cũng không hối hận. Tiểu tăng đã ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh như thế rồi thì không thể nào nuốt lời được.
Nói xong giơ tay vỗ nhẹ ba cái. Từ ngoài cửa hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương tiến vào để dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp thùng không có gió mà tự mở ra, thấy bên trong là một hộp nhỏ khác màu vàng chói lọi. Cưu Ma Trí cúi xuống cầm cái hộp bưng lên tay.
Bản Nhân nghĩ thầm: “Bọn ta đã là người xa lánh cuộc đời, không lẽ còn tham lam những loại kỳ trân dị bảo? Hơn nữa, họ Đoàn là chủ nước Đại Lý, tích súc trong một trăm năm mươi năm qua, có thiếu gì bạc vàng châu báu?”.
Cưu Ma Trí mở chiếc hộp ra, lấy ra ba tập sách mỏng. Y tiện tay lật mấy tờ, bọn Bản Nhân liếc mắt nhìn qua thấy trong sách có vẽ hình viết chữ bằng mực bằng son. Cưu Ma Trí đăm đăm nhìn ba cuốn sách, đột nhiên nước mắt đầm đìa rơi xuống ướt đẫm cả bâu áo, thần tình thật là đau khổ không sao kể xiết. Cả bọn Bản Nhân ai ai cũng thấy ngạc nhiên.
Khô Vinh đại sư nói:
- Minh Vương vẫn còn nghĩ đến người bạn xưa chưa quên, lòng trần chưa thanh tịnh há chẳng thẹn cho hai tiếng “cao tăng“ hay sao?
Đại Luân Minh Vương ủ rũ đáp:
- Đại sư đầy đủ trí tuệ, đại thần thông, tiểu tăng làm sao theo kịp. Ba quyển võ công yếu quyết này, chính là từ tay Mộ Dung tiên sinh viết thành, xiển thuật yếu chỉ về tập luyện và cách phá giải bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Mọi người nghe nói thế ai nấy đều sửng sốt, nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã lừng danh thiên hạ, nghe nói từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập đến nay, trừ một vị cao tăng đầu đời Tống luyện được hai mươi ba môn, ngoài ra không một ai luyện được trên hai mươi tuyệt kỹ cả. Vị Mộ Dung tiên sinh này thông hiểu toàn bộ bảy mươi hai môn cũng đã khó tin rồi, lại còn biết cả cách phá giải thì không thể nào ngờ nổi”.
Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Được Mộ Dung tiên sinh tặng cho ba quyển kỳ thư này, tiểu tăng giở ra xem quả thật ích lợi rất nhiều. Vậy nay xin đem ba quyển kỳ thư để xin đổi lấy Lục Mạch Thần Kiếm bảo kinh của quí tự. Xin quí vị đại sư bằng lòng cho để tiểu tăng được hoàn thành lời hứa năm xưa, quả thực cảm kích không đâu cho hết.
Bản Nhân phương trượng lặng thinh không trả lời, nghĩ thầm: “Ba cuốn sách này nếu quả có chép bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm thì bản tự có được rồi, võ học không phải chỉ cùng phái Thiếu Lâm đứng ngang hàng mà còn có phần trội hơn là khác. Chùa Thiên Long từ nay thông hiểu tất cả tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nhưng phái Thiếu Lâm làm sao biết được tuyệt kỹ của chùa Thiên Long”.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Trước khi quí tự tặng cho bảo kinh vẫn có thể để lại phó bản, chúng vị đại sư gia ơn cho tiểu tăng, thương xót cả đến nắm xương trắng dưới mồ, tự thân không mất mát gì là một điều. Tiểu tăng bái lĩnh bảo kinh lập tức gói kín, quyết không ghé mắt coi trộm, tự mình đem đến trước mộ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, cao nghệ của quí tự không thể nào lọt được ra ngoài, đó là hai điều. Các vị đại sư trong quí tự võ học uyên thâm, vốn chẳng cầu đến những môn của người ngoài, nhưng khốn nỗi đá núi vẫn có thể đem đập vỡ được ngọc, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm cũng có chỗ độc đáo của nó, trong đó Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, và Vô Tướng Kiếp Chỉ ba loại chỉ pháp, cùng với Nhất Dương Chỉ của quí phái có thể đem ra ấn chứng lẫn nhau, đó là ba điều.
Bọn Bản Nhân lúc đầu khi nhận được lá thư viết bằng vàng lá của y nghĩ rằng Cưu Ma Trí mưu toan cưỡng đoạt bảo vật trấn tự của chùa Thiên Long, quả thật ngang ngược, thế nhưng đến lúc này thấy y nói năng rành rọt, xem ra có tình có lý, dường như chùa Thiên Long chỉ có lợi mà không tổn hại gì, lại còn được y tự tay mang đến một món lễ vật hậu hĩ. Bản Tướng đại sư vốn tính tham lam, trong bụng đã có ý bằng lòng, thế nhưng đứng về mặt tôn ti thì còn sư thúc ở trên, còn nói về mặt địa vị thì còn phương trượng nên không tiện nói ra thành lời.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Tiểu tăng tuổi còn trẻ, kiến thức còn nông, chỉ nói không chưa chắc các vị đại sư đã tin. Chi bằng tiểu tăng đem phô cái xấu ra trước các vị ba môn chỉ pháp trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm.
Y nói xong đứng lên:
- Năm xưa tiểu tăng chẳng qua chỉ vì quá cao hứng nên vụng về tập qua, công phu còn thô sơ lắm, mong được các vị chỉ điểm thêm. Lộ chỉ pháp này là Niêm Hoa Chỉ.
Y giơ ngón tay cái và ngón tay trỏ bên phải làm như đang cầm một đóa hoa tươi, miệng hơi mỉm cười, năm ngón tay trái búng nhẹ qua bên phải. Trong Mâu Ni Đường ngoài Đoàn Dự ra, ai ai cũng là những đại hành gia suốt đời nghiên cứu chỉ pháp, thấy y ra tay thật là nhẹ nhàng, mỗi lần tay trái búng ra tưởng như đang rũ cho những hạt sương còn đọng trên đóa hoa tươi nhưng lại e ngại sẽ làm rụng những cánh hoa, mặt lúc nào cũng mỉm cười hết sức từ hòa quả là trong lòng sảng khoái. Cứ như lịch sử Thiền tông truyền lại, khi đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp trên đỉnh Linh Sơn, ngài cầm trên tay một bông hoa ba la vàng giơ lên cho mọi người coi, ai nấy lặng thinh không trả lời, chỉ có Ca Diếp tôn giả mặt rạng rỡ nở một nụ cười. Thích Ca Mâu Ni biết Ca Diếp đã lãnh ngộ được tâm pháp liền nói:
- Ta có chính pháp nhãn tàng, niết bàn pháp môn, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền nay trao cho Ma Ha Ca Diếp.
Thiền tông coi việc tâm truyền, đốn ngộ là điều quan trọng nhất, phái Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, lại càng tinh cứu môn Niêm Hoa Chỉ này.
Thế nhưng Cưu Ma Trí búng ngón tay không thấy gì là thần thông, liên tiếp mấy chục cái rồi giơ tay áo bên phải lên, há mồm thổi phù một cái, lập tức tay áo bay lả tả những mảnh vải tròn như đồng tiền, trên tay áo hiện ra mấy chục cái lỗ nhỏ. Thì ra mấy chục lần sử dụng Niêm Hoa Chỉ của Cưu Ma Trí đều xuyên qua không khí đâm vào tay áo mình, nhu lực làm rách áo nhưng thoạt nhìn không ai biết, chỉ hơi có gió lúc ấy công lực mới lộ ra.
Bản Nhân cùng với Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham và Bảo Định Đế người nọ nhìn người kia, ai nấy kinh hãi thầm: "Với công lực của mình nếu dùng Nhất Dương Chỉ hư điểm vào cho rách áo thành lỗ thì không có gì khó, nhưng ra tay nhẹ nhàng như thế, vẻ mặt ôn hòa mỉm cười mà vận được thần công thì mình không thể nào làm nổi. Môn Niêm Hoa Chỉ này khác hẳn Nhất Dương Chỉ, nội lực âm nhu, quả thực có điểm độc đáo đáng phải học hỏi”.
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
- Quả đáng xấu hổ, công phu Niêm Hoa Chỉ của tiểu tăng còn kém xa Huyền Độ đại sư của chùa Thiếu Lâm. Môn Đa La Diệp Chỉ này chắc còn sai sót nhiều.
Tiếp theo thân hình chuyển động rảo bước đi vòng quanh cái hòm gỗ dưới đất, mười ngón tay liên tiếp điểm ra, nắp hòm bay tung tóe, nhảy nhót liên tiếp, chỉ trong giây lát đã vỡ tan thành từng mảnh nhỏ.
Bọn Bảo Định Đế thấy chỉ lực của y phá tan chiếc rương gỗ thực không có gì làm lạ, có điều ngay cả xích sắt, bản đồng, dây đai, bản lề các loại kim thuộc cũng bị chỉ lực của y cắt nát vụn khiến cho ai nấy không khỏi kinh hoàng.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Tiểu tăng trình diễn môn Đa La Diệp Chỉ có hơi bá đạo, công phu quả thực là nông cạn vụng về.
Nói xong đưa hai bàn tay thu vào bên trong tay áo. Đột nhiên một mảnh gỗ vỡ bỗng dưng nhảy tưng tưng, tưởng như có một người vô hình nào đó dùng gậy khuấy lên. Nhìn lại Cưu Ma Trí thấy mặt y vẫn ôn hòa rạng rỡ, tay áo không hề rung động, thì ra chỉ lực dấu trong tay áo lén bắn ra, không có một chút hình tích nào. Bản Tướng nhịn không nổi buột miệng khen:
- Vô Tướng Kiếp Chỉ quả là danh bất hư truyền. Bội phục! Bội phục!
Cưu Ma Trí khom lưng đáp:
- Đại sư quá khen. Mảnh gỗ kia bay tung lên đã là hữu tướng rồi. Nếu như muốn cho danh thực ăn khớp với nhau, luyện đến mức vô hình vô tướng, phải mất cả một đời người chưa chắc dã thành.
Bản Tướng đại sư nói:
- Trong quyển kỳ thư Mộ Dung tiên sinh để lại, quả có cách phá giải Vô Tướng Kiếp Chỉ ư?
Cưu Ma Trí đáp:
- Có chứ! Cách phá giải cũng giống như pháp danh của đại sư vậy thôi.
Bản Tướng trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Ồ, lấy bản tướng phá vô tướng, thực là cao minh.
Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Tham bốn người thấy Cưu Ma Trí thi diễn ba môn chỉ lực, ai nấy đều động lòng, biết rằng ba quyển kỳ thư này quả có chép bảy mươi hai loại tuyệt kỹ lừng danh thiên hạ của chùa Thiếu Lâm, liệu có đem phó bản đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm Kinh đánh đổi hay không quả là khó nghĩ nên ai nấy đều trù trừ.
Bản Nhân nói:
- Sư thúc, Minh Vương từ xa đến đây, quả là có lòng thành, chúng ta ứng tiếp ra sao, xin sư thúc chỉ thị.
Khô Vinh đại sư hỏi:
- Bản Nhân, chúng ta luyện công tập nghệ là để làm gì thế?
Bản Nhân phương trượng không ngờ sư thúc lại hỏi như thế, hơi ngạc nhiên rồi trả lời:
- Cốt là để hoằng dương đạo pháp, bảo vệ bờ cõi.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Nếu như ngoại ma đến mà chúng ta đạo hạnh thô thiển không đủ sức dùng Phật pháp điểm hóa, không thể không ra tay hàng phục thì phải dùng công phu gì?
Bản Nhân đáp:
- Nếu bất đắc dĩ phải ra tay thì phải dùng Nhất Dương Chỉ.
Khô Vinh đại sư hỏi tiếp:
- Thế công phu tu tập Nhất Dương Chỉ của nhà ngươi đến được cảnh giới nào rồi?
Bản Nhân trán toát mồ hôi, trả lời:
- Đệ tử căn cơ dốt nát, chẳng tiến bộ được bao nhiêu nên chỉ mới đến được phẩm thứ tư.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Theo ngươi thì Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý so với ba loại chỉ pháp Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ, Vô Tướng Kiếp Chỉ của Thiếu Lâm đằng nào hơn, đằng nào kém?
Bản Nhân đáp:
- Chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công lực là cao thấp thôi.
Khô Vinh đại sư nói:
- Đúng lắm. Nếu như Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện đến đệ nhất phẩm thì sẽ thế nào?
Bản Nhân đáp:
- Đến mức đó thì uyên thâm khôn biết đâu mà lường, đệ tử không dám nói liều.
Khô Vinh đại sư nói:
- Ví như ngươi sống thêm một trăm năm nữa thì liệu luyện đến được phẩm thứ mấy?
Mồ hôi trán Bản Nhân rơi tong tỏng xuống đất, run run đáp:
- Đệ tử không biết.
Khô Vinh đại sư hỏi thêm:
- Liệu có đến được phẩm thứ nhất chăng?
Bản Nhân đáp:
- Chắc là không được.
Khô Vinh đại sư lặng thinh không nói thêm nữa. Bản Nhân nói:
- Sư thúc chỉ điểm rất đúng, đến như Nhất Dương Chỉ của chúng ta tu tập còn chưa xong, còn mong muốn có thêm võ học kỳ kinh của người ngoài làm gì? Minh Vương từ xa khổ nhọc đến đây, để tệ tự dọn đồ chay khoản đãi.
Câu nói đó rõ ràng có ý cự tuyệt lời yêu cầu của Đại Luân Minh Vương. Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:
- Cũng chỉ vì tiểu tăng năm xưa nói một câu không ra gì, nếu không thì Mộ Dung tiên sinh dẫu sao cũng chết rồi, được hay không được cuốn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này cũng thế thôi, có gì khác đâu? Hôm nay tiểu tăng cuồng vọng, nói một câu không biết trời cao đất dày là gì, kiếm pháp trong bộ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh này, nếu quả thực tinh áo như Mộ Dung tiên sinh đã nói, e rằng quí tự tuy có đồ phổ thật thì cũng không ai có năng lực luyện cho thành. Mà dẫu có người luyện thành chăng nữa thì chưa chắc gì kiếm pháp đó đã thần diệu như Mộ Dung tiên sinh đã nghĩ.
Khô Vinh đại sư nói:
- Lão nạp có một điều không rõ muốn thỉnh cầu Minh Vương chỉ điểm.
Cưu Ma Trí đáp:
- Không dám.
Khô Vinh đại sư nói:
- Việc tệ tự có tàng trữ Lục Mạch Thần Kiếm Kinh, đến ngay cả tục gia đệ tử trong họ Đoàn cũng không hay biết, Mộ Dung tiên sinh từ đâu mà nghe được chuyện này?
Cưu Ma Trí đáp:
- Về võ học trong thiên hạ Mộ Dung tiên sinh cực kỳ uyên bác. Các bí kỹ võ công của các môn phái nhiều khi chính chưởng môn bản phái cũng không biết mà Mộ Dung tiên sinh cũng rõ như bàn tay. Cái thuật: “Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” chính là từ đó mà ra. Thế nhưng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý ông ta vẫn không thể nào biết được, thành thử cả đời uất ức mang theo mối hận xuống tuyền đài.
Khô Vinh đại sư “Hừ” một tiếng không nói thêm nữa. Bọn Bảo Định Đế đều nghĩ thầm: “Nếu như y biết được những bí áo trong Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ e y sẽ quay lại dùng chính thuật này để tiêu diệt người trong họ Đoàn”.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Sư thúc chúng tôi hơn chục năm qua không gặp người ngoài, Minh Vương là cao tăng đương thế, nên sư thúc chúng tôi mới phá lệ tiếp kiến. Xin mời Minh Vương.
Nói xong đứng lên ý muốn tiễn khách ra về. Cưu Ma Trí không đứng lên, chậm rãi nói:
- Nếu Lục Mạch Thần Kiếm chỉ có hư danh không thực dụng, quí tự hà tất phải coi trọng nó như thế làm gì? Để phải tổn thương hòa khí giữa chùa Thiên Long và chùa Đại Luân, tổn thương đến bang giao hai nước Thổ Phồn và Đại Lý?
Bản Nhân sắc mặt hơi đổi, hậm hực hỏi lại:
- Lời của Minh Vương phải chăng muốn nói: Chùa Thiên Long nếu không chịu giao kinh ra, hai nước Thổ Phồn, Đại Lý sẽ có chuyện can qua?
Bảo Định Đế trước nay vẫn phải đưa trọng binh trú đóng nơi biên thùy tây bắc để phòng Thổ Phồn đem quân xâm lấn, nghe Cưu Ma Trí nói thế vội hết sức lắng tai nghe. Cưu Ma Trí đáp:
- Quốc vương nước Thổ Phồn chúng tôi vốn ái mộ phong cảnh, dân tình bên Đại Lý từ lâu, sớm có ý muốn cùng quốc chủ quí quốc đi săn chung một chuyến_, có điều tiểu tăng thấy rằng như thế ắt không ít người sẽ phải bỏ mạng, phạm vào lòng từ bi của Phật môn nên mấy năm nay vẫn phải hết sức ngăn trở.
Bọn Bản Nhân ai cũng biết lời nói y có ý uy hiếp. Y là quốc sư nước Thổ Phồn, trong nước từ vua trở xuống ai nấy đều sùng tín Phật pháp chẳng khác gì nước Đại Lý. Cưu Ma Trí lại được quốc vương tín nhiệm, hòa hay chiến phần lớn do một lời của y, nếu như chỉ vì một bộ kinh mà để sinh linh phải đồ thán thì thật không nên chút nào. Thổ Phồn mạnh mà Đại Lý yếu, nếu như chiến sự xảy ra quả thật rất đáng lo. Thế nhưng Cưu Ma Trí chỉ mới dọa một lời mà chùa Thiên Long đã hai tay dâng bộ bảo kinh trấn tự kia lên thì còn gì là thể thống nữa?
Khô Vinh đại sư nói:
- Nếu quả như Minh Vương không lấy bộ kinh này không được thì bọn lão nạp lẽ nào dám từ chối? Còn việc Minh Vương muốn đem bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm ra trao đổi, tệ tự không dám bái lãnh. Nếu như Minh Vương đã tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm, lại thêm cả võ công chùa Đại Luân Đại Tuyết Sơn thì hẳn là đương thế không ai có thể địch nổi.
Cưu Ma Trí chắp hai tay nói:
- Ý của đại sư phải chăng muốn tiểu tăng phải ra tay phô cái xấu của mình?
Khô Vinh đại sư đáp:
- Minh Vương nói rằng Lục Mạch Thần Kiếm của tệ tự chỉ có hư danh, không thực dụng, vậy thì chúng tôi sẽ dùng Lục Mạch Thần Kiếm lãnh giáo cao chiêu của Minh Vương. Nếu quả đúng như lời Minh Vương nói, lộ kiếm pháp này chỉ rỗng tuếch không dùng được vào đâu thì có gì là quí báu? Lúc đó Minh Vương cứ việc đem kiếm kinh đi.
Cưu Ma Trí trong lòng kinh hãi thầm, năm xưa y đàm luận với Mộ Dung Bác về Lục Mạch Thần Kiếm biết sơ qua rằng đây là kiếm ý chỉ dùng toàn nội lực sử dụng kiếm khí vô hình, dù kiếm pháp thần kỳ cao minh bậc nào chăng nữa, dùng nội lực của một người sử dụng một lượt sáu mạch kiếm khí thì không ai có thể làm nổi, bây giờ nghe giọng của Khô Vinh đại sư thì dường như ông ta biết sử dụng mà tất cả chư tăng cũng đều biết môn kiếm pháp này. Chùa Thiên Long danh tiếng lừng lẫy hơn trăm năm qua, không thể coi thường được. Thần thái của y vốn dĩ cung kính, bây giờ liền hơi khom lưng nói:
- Nếu chư vị cao tăng hiển thị tuyệt nghệ thần kiếm cho tiểu tăng được mở mắt thật là may mắn xiết bao.
Bản Nhân phương trượng nói:
- Minh Vương dùng loại binh khí gì, xin cứ việc đem ra.
Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một hán tử cao to từ bên ngoài bước vào. Y nói mấy câu tiếng Phiên người kia liền gật đầu vâng lệnh, đi ra ngoài lấy trong rương ra một bó nhang đưa lại cho Cưu Ma Trí rồi lại lui ra khỏi cửa.
Mọi người ai nấy lạ lùng, nghĩ thầm những cây hương này đụng vào là gẫy ngay không lẽ lại dùng làm binh khí được? Chỉ thấy tay trái cầm lên một cây nhang, tay phải vun gỗ vụn dưới đất nắn thành một cái gò cắm cây nhang lên. Cứ như thế y cắm sáu cây hương thành một dãy, mỗi cây cách nhau chừng một thước.
Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng ở đằng sau mấy cây hương chừng năm sáu thước, đột nhiên xoa tay mấy cái rồi vung ra, đầu những cây hương lóe lên cùng cháy một lượt. Mọi người ai nấy kinh hãi thấy người này nội lực quả thật hùng mạnh, quả đã đến mức không ai dám nghĩ tới. Thế nhưng lập tức ai nấy ngửi thấy mùi lưu hoàng thoang thoảng, đoán chừng đầu những cây hương có trộn hỏa dược, Cưu Ma Trí không phải chỉ dùng nội lực mà đốt những cây nhang này, mà là dùng nội lực ma sát hỏa dược đầu hương để đốt. Việc đó tuy cũng khó khăn thật nhưng bọn Bảo Định Đế miễn cưỡng cũng thể làm được.
Sáu làn khói xanh biếc của sáu cây hương bốc lên thẳng tắp. Song chưởng Cưu Ma Trí ôm thành hình cầu, nội lực vận ra, sáu cụm khói từ từ ngả ra ngoài, nhắm vào Khô Vinh đại sư, Bản Quan, Bản Tướng, Bản Nhân, Bản Tham và Bảo Định Đế sáu người. Thủ chưởng của y gọi là Hỏa Diễm Đao, tuy chỉ nhẹ nhàng hư vô không thể bắt nắm nhưng có thể giết người một cách vô hình, quả thực thật là ghê gớm. Lần này y chỉ muốn lấy được bộ kinh không cố ý giết người cho nên mới thắp sáu cây nhang để mọi người nhìn rõ đường đi của chưởng lực, trước là tỏ ra y cậy tài nên chẳng có gì sợ hãi, hai nữa có ý lấy lòng từ bi làm gốc, chỉ mong phân định võ học hơn thua chứ không phải nhằm sát hại người khác.
Sáu luồng khói biếc bay đến cách bọn Bản Nhân chừng ba thước thì dừng lại không chuyển động nữa. Cả bọn Bản Nhân ai nấy kinh hãi nghĩ thầm dùng nội lực đẩy khói đi thì không phải là khó khăn gì, nhưng nếu có thể hãm luồng khí đang tỏa ra kia giữa không gian thì phải nói là khó khăn gấp mười. Bản Tham đưa ngón tay út bên trái ra, một luồng khí từ huyệt Thiếu Xung phóng vào luồng khói biếc trước mặt. Luồng khói đó bị nội lực đẩy vào, bay vụt trở lại hướng Cưu Ma Trí, đến còn cách y chừng hai thước, Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí tăng lên nên làn khói không thể nào tiến xa hơn được nữa.
Cưu Ma Trí gật gù nói:
- Thật là danh bất hư truyền, Lục Mạch Thần Kiếm quả có lộ kiếm pháp Thiếu Trạch Kiếm.
Hai người thúc đẩy nội lực thêm mấy lần, Bản Tham đại sư biết rằng nếu mình chỉ ngồi yên không động đậy thì khó lòng mà phát huy được uy lực của kiếm pháp nên đứng lên, đi xéo qua bên trái ba bước, nội lực theo ngón tay út bên trái từ trái phóng lệch qua phải. Cưu Ma Trí vung tay trái ra chặn ngay lại.
Ngón tay giữa của Bản Quan đại sư đột nhiên bật lên, Trung Xung Kiếm phóng thẳng về trước. Cưu Ma Trí vung tay đỡ lại, quát lên:
- Giỏi thật! Đây là Trung Xung kiếm pháp.
Y lấy một địch hai nhưng không thấy khiếp sợ chút nào. Đoàn Dự ngồi đằng trước Khô Vinh đại sư, nghiêng người ngó ra, chăm chú xem cuộc đấu kiếm nghìn năm một thuở này. Tuy chàng không biết võ công nhưng cũng biết mấy vị cao tăng kia đang dùng nội lực để đấu kiếm còn hung hiểm và ghê gớm gấp mấy việc dùng binh khí đánh với nhau. Cũng may Cưu Ma Trí đốt sáu nén hương nên chàng có thể nhìn theo làn khói xanh di động mà xem được kiếm chiêu đao pháp của ba người.
Chàng coi được độ mươi chiêu trong bụng chợt nghĩ: “À, đúng rồi! Trung Xung kiếm pháp của Bản Quan đại sư giống hệt như hình vẽ không khác chút nào”. Chàng len lén mở đồ phổ Trung Xung kiếm pháp ra coi, theo luồng khói xanh đang di động, đối chiếu với kiếm chiêu vẽ trên đó, coi kỹ càng rồi không còn chỗ nào khó khăn nan giải nữa. Chàng quay qua xem Thiếu Trạch Kiếm của Bản Tham đại sư thì cũng như thế, chỉ khác nhau ở chỗ Trung Xung Kiếm mở ra thu vào bao trùm một khoảng lớn, khí thế thật hùng hậu còn Thiếu Trạch Kiếm thì chợt đến chợt đi biến hóa thật là tinh vi.
Bản Nhân phương trượng thấy sư huynh và sư đệ liên thủ cũng không thắng thế chút nào nghĩ thầm bên mình luyện kiếm chưa thành thục, kiếm chiêu chẳng mấy chốc sẽ dùng hết, cả sáu người ra tay càng sớm càng tốt, gã Đại Luân Minh Vương này thông minh tuyệt trần, hẳn là y đang quan sát kiếm pháp của Bản Quan, Bản Tham hai người, chưa dùng toàn lực để tấn công phòng ngự, nên ông bèn nói:
- Bản Tướng, Bản Trần hai vị sư đệ, tất cả chúng mình cùng ra tay đi thôi.
Ngón tay trỏ búng ra, Thương Dương kiếm pháp huy động, kế đó Thiếu Xung Kiếm của Bản Tướng đại sư và Quan Xung Kiếm của Bảo Định Đế, ba luồng kiếm khí cùng nhắm vào ba làn khói xanh tấn công.
Đoàn Dự nhìn Thiếu Xung Kiếm một lát rồi lại nhìn Thương Dương Kiếm, xem bên đông một chiêu, quay qua tây xem một chiêu đối chiếu với đồ phổ tuy đã rõ nhưng dẫu sao cũng hỗn loạn chẳng thành đầu đuôi gì. Chàng còn đang chăm chú xem đồ phổ Thiếu Xung Kiếm, bỗng thấy một ngón tay khô gầy để lên bức hình viết xuống: “Chỉ học một đồ hình, học xong hãy đổi qua bức khác”. Đoàn Dự nghĩ ra, biết ngay Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình, quay đầu lại nhìn ông mỉm cười có ý cảm tạ.
Chàng vừa nhìn ông, nụ cười trên môi tắt ngóm, thấy khuôn mặt ông ta hết sức lạ kỳ, một nửa bên trái hồng hào tươi tắn, da dẻ trơn tru chẳng khác gì một đứa trẻ, còn nửa bên phải lại là xương khô, ngoài làn da vàng ệch ra không còn một chút thịt nào, các đầu xương lòi ra chẳng khác gì một nửa cái đầu lâu.
Chàng kinh hãi vội vàng quay mặt đi, tim đập thình thình, biết rằng vị thái sư bá này tu tập Khô Vinh thiền công đã thành tựu, có điều khuôn mặt bên héo bên tươi này ghê gớm quá, chàng không thể nào định tâm được.
Chàng thấy ngón tay Khô Vinh đại sư viết tiếp trên tấm lụa:
“Dịp may chớ bỏ lỡ, hãy chăm chú xem kiếm pháp. Tự mình xem, tự mình học, để khỏi vi phạm lời dạy của tổ tiên”
Đoàn Dự hiểu rõ ngay: “Khô Vinh thái sư bá trước đây đã có nói với bá phụ rằng, Lục Mạch Thần Kiếm không truyền cho tục gia đệ tử họ Đoàn, đợi đến khi bác ta cắt tóc đi tu rồi mới chịu truyền thụ. Ông ấy viết là “tự quan tự học, bất vi tổ huấn” ắt là di huấn của tổ tiên không cấm con cháu tục gia họ Đoàn vô sư tự học. Thái sư bá bảo ta “lương cơ mạc thất, ngưng thần quan kiếm”, ắt là bảo ta tự mình xem, tự mình học rồi.
Chàng gật đầu, quan sát kỹ càng Quan Xung kiếm pháp của bá phụ, đến lúc hiểu rõ ràng mới cứ như thế mà xem qua hai đường kiếm pháp Thiếu Xung, Thương Dương. Phàm năm ngón tay của con người, ngón tay vô danh là ngón vụng về nhất, còn ngón tay trỏ linh hoạt hơn cả, thành thử Quan Xung Kiếm lấy vụng về chậm chạp để thủ thắng, còn Thương Dương Kiếm thì lấy xảo diệu hoạt bát để địch thủ không mò ra được. Thiếu Xung kiếm phá với Thiếu Trạch kiếm pháp đều dùng ngón tay út để vận kình sử dụng, nhưng một đằng là bên tay phải, một đằng là bên tay trái, kiếm pháp phân biệt ra khéo léo, vụng về, nhanh nhẹn, chậm rãi. Thế nhưng “vụng” không phải không hay, còn “chậm” cũng không vì thế mà giảm uy lực, chỉ phân biệt một bên là kỳ, một bên là chính_ mà thôi.
Đoàn Dự vốn chỉ vì lòng hiếu kỳ, theo dõi những làn khói xanh qua lại, đem đối chiếu với những sợi chỉ trên đồ hình, chẳng khác gì xem vẽ chữ bằng đèn_ để đoán chơi nhưng sau khi Khô Vinh đại sư dặn dò rồi chàng bèn chuyên tâm xem cho thật kỹ. Đến khi ba lộ kiếm pháp đó đã xem rõ cả rồi thì Bản Tham và Bản Quan hai người đã sử dụng hết một lượt bây giờ quay lại lần thứ hai. Đoàn Dự không còn phải tham chiếu đồ phổ nữa, chỉ chăm chăm nhìn vào làn khói biếc đem ấn chứng với những lộ kiếm pháp đã thuộc nằm lòng, mới thấy là những đường chỉ trên đồ hình là đường dây chết, còn luồng khói biếc kia biến hóa vô cùng phong phú phức tạp gấp bội những hình vẽ.
Chàng coi thêm một hồi nữa, kiếm pháp của Bản Nhân, Bản Tướng, và Bảo Định Đế ba người cũng đã sử dụng hết. Bản Tướng đại ư búng ngón tay út, sử dụng chiêu Phân Hoa Phất Liễu quay trở lại từ đầu. Cưu Ma Trí mỉm cười gật gù, tiếp theo Bản Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng những kiếm chiêu biến hóa ra từ các chiêu cũ. Ngay lúc đó bỗng nghe thấy Cưu Ma Trí phát xuất những tiếng vù vù, uy lực của Hỏa Diễm Đao đột nhiên cực mạnh, đẩy ngược kiếm chiêu của năm người dồn trở lại.
Thì ra lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ cốt để xem hết các chiêu thế trong Lục Mạch Thần Kiếm, nay bắt đầu phản kích chuyển từ thủ sang công, năm làn khói biếc xoay chuyển quay quần thật là linh động. Riêng làn khói thứ sáu vẫn đứng sững cách Khô Vinh đại sư chừng ba thước, ổn định không động đậy. Khô Vinh đại sư có ý muốn biết xem y toan tính những gì cốt để xem y giữ thế năm luồng lực đạo tấn công, một luồng giữ nguyên kia kéo dài được bao lâu, thành ra trước sau vẫn không ra tay công kích. Quả nhiên Cưu Ma Trí muốn giữ cho luồng lực đạo thứ sáu kia đứng yên như vậy hồi lâu hao tổn nội lực khá nhiều, nên làn khói biếc cừ từ từ từng tấc một tiến vào sau ót Khô Vinh đại sư.
Đoàn Dự kinh hãi nói:
- Thái sư bá, làn khói tấn công tới rồi.
Khô Vinh đại sư gật đầu mở bản đồ phổ Thiếu Thương Kiếm ra, để trước mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy bản vẽ Thiếu Thương Kiếm này thật chẳng khác gì một bức tranh thủy mặc vẽ theo lối “vẩy mực”_, nét tung hoành mạnh mẽ chỉ vài đường đã tỏ ra kiếm lộ hùng hồn xem ra chẳng khác gì thế gió bão mưa giông, long trời lở đất. Đoàn Dự xem kiếm phổ nhưng trong bụng vẫn lo lắng làn khói đang tấn công vào đằng sau Khô Vinh đại sư vừa quay đầu lại thấy làn khói chỉ còn cách đầu ông chừng vài ba tấc hoảng hốt kêu lên:
- Coi chừng!
Khô Vinh đại sư phất ngược tay lại, hai ngón tay cái cùng búng ra, hai tiếng vụt vụt chia ra tấn công vào ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Ông không thèm đỡ đòn tấn công của kẻ địch mà lại đưa ra hai luồng kỳ binh tập kích bất ngờ. Ông cho rằng lực đạo Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí dùng nội lực chầm chậm tiến vào có muốn đả thương mình cũng phải mất một thời gian, thành ra nếu mình ra tay sau mà tới trước, ắt là khiến y giở tay không kịp.
Cưu Ma Trí tính toán chu đáo, đã giữ sẵn một luồng chưởng lực tại trước ngực, nhưng y chỉ mới tính tới một luồng Thiếu Thương Kiếm tấn công tới, không ngờ Khô Vinh đại sư lại dùng cả hai luồng kiếm tấn công một lượt, chia ra tấn công hai nơi khác nhau. Bàn tay Cưu Ma Trí giơ lên gạt chỉ chặn được đường kiếm tấn công vào trên ngực, tiếp theo chân phải nhún một cái, nhảy vọt về phía sau. Tuy y nhảy đã nhanh nhưng vẫn không thể nhanh bằng kiếm khí tới chẳng khác gì ánh chớp, nghe soẹt một tiếng vai trái đã rách một mảnh, máu tươi tươm ra. Song chỉ của Khô Vinh đại sư lập tức quay ngoắt lại, kiếm khí rút ngược về, sáu nén hương đều gãy ngang. Bọn Bản Nhân, Bảo Định Đế cũng thu kiếm lại. Những người đó chiến đấu đã lâu không nên công cán gì, trong bụng đang lo thầm bây giờ mới thở phào một cái.
Cưu Ma Trí rảo bước đi vào mỉm cười nói:
- Thần công của Khô Vinh đại sư quả là không phải bình thường, tiểu tăng hết sức bội phục. Pho Lục Mạch Thần Kiếm kia quả thật chỉ có hư danh.
Bản Nhân phương trượng hỏi lại:
- Tại sao lại chỉ có hư danh, xin được thỉnh giáo.
Cưu Ma Trí đáp:
- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh hâm mộ kính ngưỡng là kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm chứ không phải là kiếm trận Lục Mạch Thần Kiếm. Pho kiếm trận này của chùa Thiên Long quả thực uy lực rất lớn, thế nhưng xem ra cũng chỉ ngang ngửa với La Hán kiếm trận của chùa Thiếu Lâm hay Hỗn Độn kiếm trận của phái Côn Lôn, không thể gọi là kiếm pháp thiên hạ vô song được.
Y chỉ nói là “kiếm trận” mà không phải là “kiếm pháp” là chỉ trích đối phương lấy sáu người bày ra thành trận thế cùng tấn công, chứ không phải một người sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm như y đã dùng Hỏa Diễm Đao.
Bản Nhân phương trượng nhận thấy lời nói của y quả có lý không sao trả lời được. Thế nhưng Bản Tham đại sư đã cười khẩy:
- Kiếm pháp cũng vậy mà kiếm trận thì cũng thế thôi. Trong cuộc tỉ đao luận kiếm này, Minh Vương thắng hay chùa Thiên Long chúng tôi thắng?
Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt ngẫm nghĩ, độ thời gian uống một chén trà, mở mắt ra nói:
- Trận đầu quí tự chiếm được thượng phong nhưng trận thứ hai tiểu tăng xem ra có bề thắng thế.
Bản Nhân kinh hãi hỏi lại:
- Minh Vương còn muốn tỉ thí thêm một lần nữa hay sao?
Cưu Ma Trí đáp:
- Đại trượng phu nói ra phải giữ lời, tiểu tăng đã đáp lời Mộ Dung tiên sinh không lẽ thấy khó thì chùn bước?
Bản Nhân nói:
- Thế nào mà Minh Vương bảo là có cơ thắng thế?
Cưu Ma Trí song chưởng từ từ tung ra, mỉm cười nói:
- Các vị võ học uyên thâm không lẽ không đoán ra? Xin tiếp chiêu đây.
Cả sáu người Khô Vinh đại sư, Bản Nhân cùng bọn Bảo Định Đế người nào cũng thấy có hai luồng lực đạo không biết từ đâu tấn công tới. Cả bọn biết rằng không thể dùng Lục Mạch Thần Kiếm ra chống đỡ, ai nấy song chưởng tống ra, đỡ hai luồng chưởng lực kia, chỉ riêng Khô Vinh đại sư vẫn hai ngón tay cái búng ra, dùng Thiếu Thương Kiếm đón tiếp nội kình của đối phương.
Cưu Ma Trí đẩy hai luồng lực đạo ra rồi lập tức thu chiêu nói:
- Xin lỗi nhé!
Bản Nhân và Bản Quan hai người đưa mắt nhìn nhau, đều hội ý: “Một chưởng của y cùng một lượt sinh ra mấy luồng lực đạo, Thiếu Thương Kiếm của Khô Vinh sư thúc dẫu có phân ra hợp kích y vẫn có thể chống đỡ như thường. Bọn mình đành phải bỏ kiếm dùng chưởng, Lục Mạch Thần Kiếm quả là không bằng Hỏa Diễm Đao của y”.
Ngay lúc đó, bỗng thấy trước mặt Khô Vinh đại sư mù mịt bốc lên, một luồng khói đen chia ra thành bốn nhánh tấn công Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vốn cũng khiếp sợ nhà sư già từ đầu chí cuối quay mặt vào tường không nhìn trở lại này, bây giờ thấy khói đen tấn công tới không đoán được đối phương định làm gì, chỉ đành sử dụng Hỏa Diễm Đao chia ra bốn phía chống đỡ. Y không dám phản kích, một mặt phòng bị bọn Bản Nhân xông lên tấn công, một mặt lặng yên thủ thế xem động tĩnh để xem Khô Vinh đại sư còn ngón gì lợi hại tiếp theo.
Chỉ thấy khói đen càng lúc càng dày đặc, thế công càng lúc càng mạnh mẽ. Cưu Ma Trí trong bụng lạ lùng: “Ông ta dùng toàn lực tấn công như thế nhưng gió mạnh không qua buổi sáng, mưa lớn không đổ trọn đêm, làm sao có thể chịu đựng lâu được? Khô Vinh đại sư là cao tăng đời nay, sao lại dùng phương thức gấp rút cương mãnh như thế để đối địch?”.
Xem chừng ông ta không phải là người kém cỏi như thế, ắt bên trong có ngụy kế gì, y bèn thủ thế thật chặt chẽ, trong lòng giữ thật bình tĩnh để tiện tùy cơ ứng biến. Chỉ trong chốc lát, bốn luồng khói đen một chia thành hai, hai chia thành bốn, bốn luồng khói đen chia thành mười sáu đường, bốn phương tám hướng tấn công thẳng vào Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Cung đã giương hết sức rồi có đáng gì đâu?”. Y thi triển Hỏa Diễm đao pháp chặng tất cả các luồng khói lại. Hai bên còn đang ra sức mười sáu luồng khói đen bỗng tan ra, trong căn phòng chỉ giây lát khói bay mù mịt. Cưu Ma Trí không hề sợ hãi vận dụng chân lực hộ vệ toàn thân.
Khói từ từ nhạt dần, trong làn không khí mông lung chỉ thấy năm nhà sư cùng quì cả xuống, thần tình trang nghiêm, trong ánh mắt của Bản Quan và Bản Tham đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí còn đang ngạc nhiên, lập tức hiểu ra: “Hỏng rồi! Nhà sư già Khô Vinh kia biết rằng không địch nổi ta nên đem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm đốt đi”.
Y đoán không sai, Khô Vinh đại sư dùng nội lực Nhất Dương Chỉ dồn ra đốt cháy Lục Mạch Thần Kiếm phổ, sợ Cưu Ma Trí ra tay sang đoạt hay ngăn trở nên thúc đẩy khói ra tấn công y để cho y phải hết sức chống đỡ đến khi khói tan hết rồi thì đồ phổ cũng đã cháy tiêu hết cả.
Cả năm nhà sư đều là những cao thủ tinh thông Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy khói đen đã biết ngay nguyên do, nghĩ thầm sư thúc thà làm ngọc vỡ chứ không chịu để ngói lành, cam tâm hủy bỏ món trấn tự chi bảo không để rơi vào tay địch thủ. Thế nhưng sáu người chia ra mỗi người nhớ một phần kiếm pháp, đợi khi cường địch đi khỏi rồi, chỉ cần ngồi viết lại là xong, có điều những đồ phổ tổ truyền đó đành phải hủy mất.
Thế nhưng từ nay chùa Thiên Long và Đại Luân Minh Vương hai bên kết oán thật sâu không dễ gì mà bỏ qua cho được.
Cưu Ma Trí vừa kinh hãi vừa tức tối, y xưa nay vẫn tự phụ mưu trí hơn người, hôm nay hai lần liên tiếp thua dưới ta Khô Vinh đại sư, Lục Mạch Thần Kiếm Kinh cũng đã bị hủy mất rồi, chuyến đi này gây thêm một mối thù lớn mà lại xôi hỏng bỏng không. Y đứng lên chắp tay nói:
- Khô Vinh đại sư sao lại cương cường đến thế? Thà gãy chứ không chịu cong, quả là cao cả. Bảo kinh của quí tự vì tiểu tăng mà phải hủy, trong lòng quả thật áy náy không an, có điều kinh này một người không ai có thể luyện thành, hủy hay không hủy cũng không có gì khác biệt lắm. Vậy xin cáo từ.
Y hơi chuyển mình, không đợi Khô Vinh và bọn Bản Nhân trả lời, đột nhiên giơ tay nắm lấy mạch môn Bảo Định Đế nói:
- Quốc chủ tệ quốc ngưỡng mộ phong phạm Bảo Định Đế đã lâu, vẫn thường mong mỏi gặp được một lần, vậy xin mời bệ hạ rời gót sang chơi nước Thổ Phồn một phen.
Biến cố đó xảy ra thật bất ngờ, mọi người ai nấy giật mình kinh hãi. Gã phiên tăng kia đột nhiên tấn công, tuy Bảo Định Đế võ công cao cường nhưng cũng không trở tay kịp, bị y nắm phải hai huyệt Liệt Khuyết và Thiên Lịch trên cổ tay. Bảo Định Đế vội vận nội lực giẫy ra nhưng sáu bảy lần vẫn không thoát được. Bọn Bản Nhân thấy Cưu Ma Trí ra tay như thế thật là hèn hạ, mất đi thân phận của một cao thủ tuyệt đính nhưng chỉ đành phẫn nộ mà không còn biết tính sao, Bảo Định Đế yếu huyệt bị y chế ngự rồi lúc nào cũng có thể bị y giết chết.
Khô Vinh đại sư cười ha hả nói:
- Trước kia y là Bảo Định Đế, bây giờ đã bỏ ngôi xuất gia, pháp danh Bản Trần. Bản Trần, nếu như quốc vương nước Thổ Phồn muốn gặp ngươi, ngươi cứ đi một chuyến cũng không sao.
Bảo Định Đế không biết cách nào hơn chỉ đành đáp lời:
- Vâng!
Ông biết được dụng ý của Khô Vinh đại sư, Cưu Ma Trí tưởng mình là vua của một nước, bắt được mới là một món hàng có giá, còn như nếu đã thoái vị đi tu, chẳng qua chỉ là bắt được một nhà sư của chùa Thiên Long mà thôi, thật chẳng đáng gì có thể y sẽ thả ra không chừng.
Từ khi Cưu Ma Trí vừa bước vào Mâu Ni Đường, Bảo Định Đế không nói một lời, cũng không để lộ chút gì khác lạ, nhưng nếu muốn sử dụng pho Lục Mạch Thần Kiếm, mặc dù chỉ là một trong sáu mạch kiếm khí, cũng phải là cao thủ võ học đệ nhất có công phu tu tập cực kỳ cao minh. Những cao thủ bậc nhất đó trong võ lâm ai nấy đều biết cả. Cưu Ma Trí phen này ra đi đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, họ Đoàn Đại Lý và các nhà sư chùa Thiên Long hình mạo tuổi tác thế nào đều đã thăm dò chu đáo, ngay cả tính nết tập quán, võ công bậc nào mười phần y cũng biết được đến tám chín.
Y đã biết trong chùa Thiên Long ngoài Khô Vinh đại sư ra chỉ có bốn vị cao thủ, bây giờ tự nhiên thêm vào một người là Bản Trần, tên đó y chưa từng nghe tới nhưng nội lực hùng mạnh không kém các nhà sư thuộc hàng chữ Bản chút nào. Y thấy ông thần thài ung dung uy nghiêm, khí tượng đầy vẻ phú quí tôn vinh nên đoán ngay là Bảo Định Đế.
Đến khi nghe Khô Vinh đại sư nói ông ta đã bỏ ngôi xuất gia, Cưu Ma Trí bỗng thấy chột dạ: “Ta từng nghe họ Đoàn Đại Lý các đời vua thường hay thoái vị đi tu, Bảo Định Đế xuất gia ở chùa Thiên Long thật cũng không có gì là lạ. Thế nhưng hoàng đế rời ngôi ra đi ắt có nghi lễ thật lớn trên toàn quốc, cúng dường chư tăng lễ Phật, trùng tu tháp miếu, ồn ào lên một thời gian chứ lẽ đâu không ai hay biết như thế. Nước Thổ Phồn ta nghe được tin này thể nào chả sai sứ sang chúc mừng tân quân đăng vị. Việc này hẳn là có gì man trá”.
Y bèn nói:
- Bảo Định Đế xuất gia cũng tốt, mà không xuất gia cũng tốt, cũng xin mời sang chơi Thổ Phồn một chuyến, triều kiến quốc vương tệ quốc.
Nói xong y nắm tay Bảo Định Đế lập tức rảo bước đi ra khỏi cửa. Bản Nhân quát lớn:
- Khoan đã!
Ông chuyển mình một cái, cùng Bản Quan hai người chặn ngay trước cửa. Cưu Ma Trí nói:
- Tiểu tăng không có ý gia hại Bảo Định Đế hoàng gia, thế nhưng nếu các vị bức bách thì đành phải vậy thôi.
Tay phải y đưa hờ ra để ngay giữa lưng Bảo Định Đế. Chưởng lực Hỏa Diễm Đao của y dẫu kiên cố đến đâu cũng phá vỡ được, Bảo Định Đế mạch môn đã bị nắm chặt, đành phải để y làm gì thì làm không thể nào kháng cự được. Nếu chúng tăng chùa Thiên Long hợp lực tấn công y, một là ném chuột sợ vỡ đồ, hai là chưa chắc đã thắng nhưng cả bọn Bản Nhân đều bối rối, Bảo Định Đế là vua của nước Đại Lý làm sao có thể để cho kẻ địch hiếp chế như thế được?
Cưu Ma Trí lớn tiếng nói:
- Đã từng nghe đại danh của chư cao tăng chùa Thiên Long, ngờ đâu chỉ mới một chuyện nhỏ nhặt, mà đã dùng dằng dúng dắng như đàn bà con trẻ là sao? Xin nhường đường thôi!
Đoàn Dự thấy bá phụ bị y bắt giữ, trong bụng rất lấy làm lo lắng, mới đầu còn tưởng bá phụ võ công cao cường, đâu có sợ gì y, chẳng qua tạm thời nhẫn nại lúc gặp thời cơ sẽ có cách thoát thân. Ngờ đâu càng lúc càng cảm thấy không xong, lời ăn tiếng nói cùng vẻ mặt Cưu Ma Trí càng lúc càng thêm ngạo nghễ còn bọn Bản Quan, Bản Nhân mặt mày lo lắng phẫn nộ đành chịu không làm gì được. Đến khi Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế, từng bước từng bước đi ra cửa, Đoàn Dự hoảng hốt không còn suy nghĩ gì thêm lớn tiếng quát:
- Này, ngươi có mau thả bá phụ ta ra không?
Chàng từ trước mặt Khô Vinh đại sư chạy ra. Cưu Ma Trí vốn đã thấy trước mặt Khô Vinh đại sư có một người ngồi đó nhưng không đoán ra được là người nào, cũng chẳng hiểu ngồi đó làm gì bây giờ thấy chàng xông ra liền quay lại hỏi:
- Tôn giá là ai?
Đoàn Dự đáp:
- Đừng hỏi ta là ai, mau thả bá phụ ta ra rồi hãy tính.
Chàng giơ tay nắm lấy tay trái Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nói:
- Dự nhi, cháu đừng lo cho ta làm gì, mau mau bảo cha cháu đăng cơ, tiếp thừa ngôi báu. Còn ta nay chỉ là một lão tăng hạc nội mây ngàn, có là gì nữa đâu?
Đoàn Dự cố sức nắm lấy tay Bảo Định Đế kêu lên:
- Có mau bỏ bá phụ ta ra không nào?
Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào huyệt đạo trên cổ tay Bảo Định Đế, mới sử lực Bảo Định Đế toàn thân liền chấn động, cảm thấy nội lực ào ạt tuôn ra. Ngay lúc đó, Cưu Ma Trí cũng thấy nội lực của mình bị hút ra ngoài, vẻ mặt liền biến đổi nghĩ thầm: “Họ Đoàn Đại Lý sao lại học được Hóa Công đại pháp thế này?”. Y vội vàng ngưng khí vận lực để kháng lại môn tà công âm độc đó.
Bảo Định Đế cũng cảm thấy hai cánh tay có một luồng nội lực tuôn ra ngoài, lập tức sử dụng phương pháp “mượn sức đánh sức” đưa hai luồng đó cùng đi vào một nơi. Nơi hai luồng nội lực đó gặp nhau chính là bản thân ông còn hai tay không hề chịu nên chỉ vùng một cái đã thoát khỏi tay Cưu Ma Trí, rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy vụt về sau, trong bụng kêu thầm: “Thật là hổ thẹn, hôm nay ta phải nhờ Dự nhi cứu cho!”.
Còn Cưu Ma Trí kinh hãi không đâu kể xiết, nghĩ thầm: “Trong giới võ lâm Trung Thổ sao lại có một đại cao thủ mà ta hoàn toàn không hay biết? Người này tuổi còn trẻ, chỉ chừng trên dưới hai mươi sao lại có công lực mạnh đến thế? Y gọi Bảo Định Đế là bá phụ, phải chăng là vai vế dưới một mức trong họ Đoàn Đại Lý?”.
Y chậm rãi gật đầu nói:
- Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn Đại Lý chỉ chuyên tập luyện nghệ thuật tổ truyền, không để mắt tới bên ngoài, nào có biết đâu hậu bối anh hiền lại kết giao với Tinh Tú lão nhân, nghiên tập kỳ môn võ học Hóa Công đại pháp , thật là kỳ lạ, thật là kỳ lạ.
Y tuy uyên bác khôn ngoan nhưng cũng nhầm Bắc Minh thần công của Đoàn Dự là Hóa Công đại pháp, có điều tự trọng thân phận mình nên không đưa lời thương tổn người khác thành ra đổi Tinh Tú lão quái thành “lão nhân”. Người trong võ lâm đều coi Hóa Công đại pháp là một công phu yêu quái tà thuật, y lại đổi thành “kỳ môn võ học”. Y vừa rồi đụng chạm với Đoàn Dự thấy chàng nội lực không kém gì Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu không thể nào là đệ tử truyền nhân của ông ta được thành thử mới dùng hai chữ “kết giao”.
Bảo Định Đế cười khẩy đáp:
- Chúng tôi từ lâu ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương túc trí viên thông, hiểu biết phi phàm sao lại buông lời nói năng nhăng cuội như thế? Tinh Tú lão quái chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa, con cháu họ Đoàn chúng ta làm gì có liên quan đến y?
Cưu Ma Trí ngạc nhiên, mặt hơi hổ thẹn, Bảo Định Đế dùng chữ “chuyên nghề đánh trộm, hèn hạ xấu xa” chính là chỉ trích hành vi của y mới rồi. Đoàn Dự nói:
- Đại Luân Minh Vương từ xa đến đây là khách, chùa Thiên Long lấy lễ đãi đằng sao ông lại dám phạm vào bá phụ của ta? Chẳng qua chúng tôi xem hai bên đều là đệ tử cửa Phật, cho nên mới xử sự khách khí, ông lại giở trò ngang ngược. Người xuất gia có đâu lại không giữ thanh qui như Minh Vương?
Mọi người nghe Đoàn Dự dùng đại nghĩa trách mắng, trong bụng ai cũng khen thầm nhưng cũng chăm chú đề phòng chỉ sợ Cưu Ma Trí xấu hổ mà nổi giận đột nhiên ra tay gia hại Đoàn Dự.
Ngờ đâu Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên như không, ôn tồn nói:
- Hôm nay được biết tới bậc cao hiền, thật may mắn biết mấy. Vậy xin dạy cho vài chiêu để cho tiểu tăng được phần ích lợi.
Đoàn Dự đáp:
- Ta không biết võ công, trước nay chưa từng học bao giờ.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Cao minh thật! Thôi tiểu tăng cáo từ.
Y hơi nghiêng người một chút, tay áo tung ra, bàn tay từ bên trong đánh ra, bốn chiêu Hỏa Diễm Đao cùng chém vào Đoàn Dự . Chiêu số tối lợi hại của địch đánh ra nhưng Đoàn Dự nào có hay biết gì. Bảo Định Đế và Bản Tướng song chỉ cùng tung ra, đỡ lấy bốn chiêu Hỏa Diễm Đao của y, đụng phải nội lực cực kỳ hùng mạnh của Cưu Ma Trí hai người đều lảo đảo. Bản Tướng “Oa” lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.
Đoàn Dự thấy Bản Tướng thổ huyết bấy giờ mới hay là Cưu Ma Trí đánh lén mình, trong bụng tức quá chỉ ngay mặt y mà chửi:
- Ngươi là đồ phiên tăng không biết phải quấy là gì!
Ngón tay trỏ tay phải của chàng vừa vung ra, tâm khí tương thông, tự nhiên sử dụng một chiêu trong Thương Dương kiếm pháp. Chàng nội lực hùng mạnh trên đời ít có ai bằng, lúc nãy ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư xem đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm và bảy nhà sư dùng vô hình đao kiếm đấu với nhau, ngón tay vừa chỉ ra có ngờ đâu lại trùng hợp với đồ phổ. Chỉ nghe soẹt một tiếng, một luồng nội kình cực kỳ hồn hậu bắn vọt vào người Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí kinh hãi, vội giơ chưởng lên dùng Hỏa Diễm Đao chặn lại. Đoàn Dự vừa ra tay không những Cưu Ma Trí hết sức kinh hãi mà cả Khô Vinh đại sư cùng bọn Bản Nhân cũng thật ngoài dự liệu, trong đó Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự ngạc nhiên hơn cả. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Việc này quả thực quái đản, ta tiện tay chỉ ra sao lão hòa thượng kia phải hết sức chăm chú chống đỡ là sao? Đúng rồi! Chắc là ta ra tay rất giống nên gã phiên tăng này lại tưởng mình biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm. Ha ha, nếu đã thế, ta phải dọa y một phen mới được”.
Chàng bèn lớn tiếng nói:
- Công phu Thương Dương Kiếm đã thấm vào đâu! Để ta ra mấy chiêu Trung Xung Kiếm cho ngươi biết tay.
Chàng vừa nói vừa chỉ ngón tay ra. Thế nhưng tuy thủ pháp có đúng thật nhưng lần này không có nội lực đi theo, chỉ điểm hờ ra thôi không hiệu quả chút nào. Cưu Ma Trí thấy ngón tay giữa của chàng đâm ra, lập tức thủ thế chặn lại, ngờ đâu chỉ của đối phương không có một chút kình lực nào, lại tưởng chàng hư hư thực thực, còn ẩn chiêu số tiếp theo. Đến khi y thấy chàng điểm thêm một chỉ nữa không thấy tăm hơi gì cả, trong bụng mừng thầm: “Ta đã nghe trên đời này làm gì có người nào vừa biết sử dụng Thương Dương Kiếm, lại biết cả Trung Xung Kiếm? Quả nhiên tên tiểu tử này chỉ hư trương thanh thế để dọa người làm mình sợ hết hồn”.
Lần này y đến chùa Thiên Long bị mấy phen thất thế nghĩ thầm nếu không tỏ chút tài năng thì Đại Luân Minh Vương sẽ thật là bẽ mặt, liền giơ tả chưởng chém trái phải luôn mấy cái, để ngăn chặng Bảo Định Đế và những người kia ra tay cứu viện, kế đó chưởng phải chém thẳng vào vai phải của Đoàn Dự.
Chiêu Bạch Hồng Quán Nhật_ là một chiêu tinh diệu trong Hỏa Diễm đao pháp, một đao đã dường như chặt đứt vai của Đoàn Dự. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Tham cả bọn đồng loạt giơ chỉ điểm vào Cưu Ma Trí đồng thời hoảng hốt kêu lên:
- Coi chừng!
Ba người xuất chiêu đều dùng võ công thượng thừa để kẻ địch không thể không quay về tự cứu, ngờ đâu Cưu Ma Trí đã dùng nội kình bao quanh những điểm yếu hại toàn thân, đao của y không thu về, vẫn tiếp tục chém xuống. Đoàn Dự nghe Bảo Định Đế và những nhà sư lên tiếng cảnh cáo biết là không ổn, song chưởng cùng hết sức tung ra, trong bụng kinh hoàng, chân khí tự nhiên vọt ra, tay phải dùng Thiếu Xung Kiếm, tay trái dùng Thiếu Trạch Kiếm, song kiếm cùng hất chiêu Hỏa Diễm Đao, dư thế chưa dứt, soẹt soẹt hai tiếng, phản kích ngược lại Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí không dám nghĩ ngợi gì thêm, tay trái vận kình đánh ra.
Đoàn Dự đâm ra hai kiếm rồi, hiểu được bí quyết muốn ra chiêu phải có ý nghĩ trước sau đó mới thúc đẩy nội lực ra ngón tay, nội kình chân khí mới có thể vọt ra, làm được như thế quả là tuyệt diệu. Chàng búng nhẹ ngón tay giữa lập tức Trung Xung Kiếm bắn ra, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu hình vẽ trên đồ phổ hiện ra trong óc, mười ngón tay liên tiếp búng ra, ngón này rụt về ngón kia tung ra liên miên bất tận.
Cưu Ma Trí kinh hãi hết sức thúc đẩy nội kình chống đỡ, trong gian phòng kiếm khí dọc ngang, xen với đao kình bay lượn, chẳng khác nào vô số lằn sét bay gió giật cùng nổi lên. Hai bên đấu một hồi, Cưu Ma Trí thấy đối phương nội kình càng lúc càng mạnh, kiếm pháp biến hóa càng thêm kỳ diệu, có khi còn tự sáng tạo thêm khác hẳn với Bản Nhân, Bản Tướng phải chấp nê vào kiếm chiêu khiến cho không sao có thể suy đoán được.
Y có biết đâu Đoàn Dự nhớ không kỹ những chiêu thức phiền phức trong sáu mạch kiếm pháp, trong cơn nguy cấp tùy ý đâm loạn lên chứ nào có phải là tự sáng tạo ra chiêu mới? Y trong bụng vừa kinh hãi vừa hối hận: “Trong chùa Thiên Long có ẩn một cao thủ thanh niên như thế này, hôm nay mình đúng là mua lấy cái nhục”. Đột nhiên soẹt soẹt soẹt y chém luôn ba đao kêu lên:
- Ngừng tay đã!
Chân khí của Đoàn Dự không thể tùy ý thu phát, nghe đối phương kêu lên “Ngừng tay đã” không biết thu hồi nội kình cách nào, chỉ đành hất ngón tay lên chỉ thẳng vào nóc nhà, nghĩ thầm: “Ta không nên phát kình thêm nữa chờ xem y nói gì đã nào”.
Cưu Ma Trí thấy chàng mặt mày ngơ ngác, khi thu kiếm khí về chân tay luống cuống hoàn toàn không biết phép tắc gì, trong lòng chợt động lập tức tung mình nhảy tới múa chưởng đánh thẳng vào mặt chàng.
Đoàn Dự vì có nhiều cơ duyên trùng hợp nên học được môn võ họ tối cao thâm là Lục Mạch Thần Kiếm nhưng công phu quyền cước tầm thường thì lại không biết gì. Chưởng của Cưu Ma Trí có ẩn bảy tám chiêu biến hóa tiếp theo là một môn quyền pháp cực kỳ cao minh nhưng so với Hỏa Diễm Đao dùng nội kình đả thương người thì hai bên nông sâu khó dễ không thể nào bì kịp.
Trên đời này dù kỹ thuật học vấn không ai lại biết cái sâu mà không biết cái nông, biết cái khó mà không biết cái dễ, thế nhưng trong võ học thì Đoàn Dự là một biệt lệ. Chàng thấy Cưu Ma Trí múa chưởng đánh tới lật đật quờ quạng đưa tay ra đỡ, Cưu Ma Trí tay phải liền vươn ra, chộp ngay được huyệt Thần Phong trên ngực chàng. Đoàn Dự lập tức toàn thân tê dại không còn cử động gì được nữa.
Thần Phong huyệt thuộc về Túc Thiếu Âm Thận Kinh chàng chưa hề luyện qua.
Cưu Ma Trí tuy nhìn thấy Đoàn Dự có rất nhiều sơ hở, nhất thời không sao địch lại Lục Mạch Thần Kiếm vẫn tưởng phải tìm một loại võ học cao thâm nào khác để đánh bại địch thủ, thật không thể ngờ rằng lại có thể bắt được chàng một cách dễ dàng đến như vậy. Y còn sợ Đoàn Dự cố ý giả vờ để thi hành ngụy kế nên khi nắm được huyệt Thần Phong rồi, lập tức giơ ngón tay điểm các huyệt Cực Tuyền, Đại Truy, Kinh Môn mấy nơi đại huyệt. Những kinh mạch có các huyệt đạo đó Đoàn Dự chưa hề luyện qua.
Cưu Ma Trí lùi lại ba bước nói:
- Vị tiểu thí chủ này nhớ hết các đồ phổ của Lục Mạch Thần Kiếm. Các đồ phổ đã bị Khô Vinh đại sư đốt đi rồi, tiểu thí chủ này là một bộ kinh sống, đem thiêu sống y trước mộ của Mộ Dung tiên sinh thì cũng thế thôi.
Y giơ tả chưởng ra chém luôn về trước liền năm đao rồi nắm Đoàn Dự xách ra khỏi Mâu Ni Đường. Bảo Định Đế, Bản Nhân, Bản Quan mấy người vừa định xông lên cướp Đoàn Dự về đều bị ngũ đao liên hoàn của y chặn lại không cách nào cứu người được.
Cưu Ma Trí nắm Đoàn Dự tung ra chỗ chín tên thủ hạ đang đứng ở ngoài cửa, quát lớn:
- Mau đi thôi!
Hai tên hán tử cùng giơ tay đón lấy Đoàn Dự, không đi theo đường cũ mà lại chạy thẳng vào khu rừng bên cạnh Mâu Ni Đường.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:16 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Lâu nay dạ luống mơ mòng,
Giang Nam cảnh vật một vòng ghé thăm.
Hồ xanh, liễu rủ, hương lăng,
Thuyền con một chiếc, xinh xinh hai nàng.
*
* *

Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm huyệt, không thể động đậy gì được bị mấy gã tùy tòng để nằm ngang trên yên, mặt quay xuống dưới thấy đất chạy giật lùi, vó ngựa tung bay khiến cho mũi miệng chàng dính đầy bụi bặm, tai nghe bọn chúng la hét om xòm toàn bằng tiếng Phiên nên không hiểu gì cả. Chàng đếm chân ngựa tổng cộng có đến mười con.
Chạy được hơn chục dặm đi đến một ngã ba đường nghe thấy Cưu Ma Trí xí xố mấy câu, năm con ngựa liền chạy qua ngả bên trái, còn Cưu Ma Trí đem theo Đoàn Dự cùng ba người khác cưỡi ngựa chạy về bên hữu. Đi thêm mấy dặm nữa lại gặp một ngã ba khác, trong năm người lại có hai người chạy theo ngả kia. Đoàn Dự biết rằng Cưu Ma Trí muốn cho truy binh bối rối không biết phải đuổi theo đường nào cho phải.
Lại chạy thêm một quãng nữa, Cưu Ma Trí nhảy xuống ngựa, lấy ra một cái dây lưng bằng da buộc vào Đoàn Dự, tay trái xách chàng lên, chạy theo triền núi bên ngoài hai gã còn lại giục ngựa chạy về hướng tây. Đoàn Dự trong bụng kêu khổ nghĩ thầm: “Bá phụ có sai thiết giáp kỵ binh liên tiếp đuổi đến đây, cùng lắm là bắt được cả chín tên tùy tòng của gã phiên tăng này nhưng cũng không cứu nổi ta”.
Tuy Cưu Ma Trí tay cầm thêm một người nhưng chân vẫn nhanh thoăn thoắt. Y càng lúc càng lên cao, suốt ba giờ liền chỉ chạy trong những hoang sơn dã lãnh. Đoàn Dự thấy vầng thái dương đã ngả về tây nhưng lúc nào cũng chiếu từ bên trái tới, biết rằng Cưu Ma Trí mang mình đi về hướng bắc.
Đến lúc chiều tối, Cưu Ma Trí để chàng lên trên cành một cây to, lẳng lặng lấy dây trói chặt chàng vào đó, đến mắt cũng không thèm nhìn đến Đoàn Dự, sau đó xoay lưng lại lấy ra mấy miếng bánh khô đưa cho chàng, chỉ giải huyệt một cánh tay trái để chàng tự ăn lấy. Đoàn Dự ngầm giơ tay trái ra, định vận khí dùng Thiếu Trạch Kiếm đả thương y, ngờ đâu các yếu huyệt trên người bị điểm, chân khí toàn thân bị chặn lại, ngón tay điểm ra trống không chẳng có chút nội kình nào.
Cứ như thế mấy ngày liền, Cưu Ma Trí xách chàng tiếp tục chạy về hướng bắc. Nhiều lần Đoàn Dự gợi chuyện với y, hỏi y tại sao lại bắt mình, đưa mình về phương bắc để làm gì, Cưu Ma Trí trước sau không trả lời. Đoàn Dự trong bụng tức tối lắm, nghĩ đến hôm trước bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt giữ, tuy bị hành hạ khổ sở hơn nhiều nhưng không đến nỗi chán ngấy như thế này. Huống chi bị một cô gái xinh đẹp bắt giữ, hương thơm thoang thoảng, lâu lâu bị đánh mắng còn hơn ở trong tay một gã phiên tăng giả câm giả điếc, sướng khổ gì cũng mình mình chịu không nói cho ai hay được.
Cứ như thế đi hơn mười ngày, áng chừng đã ra khỏi biên giới Đại Lý, Đoàn Dự thấy y đổi qua đi về hướng đông, nhưng vẫn tránh đường lớn, vẫn chỉ đi ngoằn ngoèo trong núi non hoang dã. Tuy nhiên mặt đất càng lúc càng bằng phẳng, núi đồi càng lúc càng ít dần mà sông nước càng nhiều hơn, trong một ngày phải qua đò đến mấy bận. Sau cùng Cưu Ma Trí mua hai con ngựa mỗi người cưỡi một con nhưng y vẫn không giải những huyệt đạo trên người chàng.
Có lần Đoàn Dự đi cầu đã tính: “Nếu như ta sử dụng Lăng Ba Vi Bộ, gã phiên tăng này chưa chắc gì đã đuổi kịp được?” Thế nhưng chàng chỉ đi được hai bước, chân khí bị chặn lại ngay tại những huyệt bị đóng, lập tức ngã lăn ra. Chàng thở dài một tiếng lồm cồm ngồi dậy biết rằng cách này không thể làm được.
Tối hôm đó hai người nghỉ lại tại một khách điếm trong một thị trấn nhỏ. Cưu Ma Trí bảo người hầu phòng mang nghiên bút giấy mực để lên trên bàn, khêu to ngọn đèn, đợi tên đó ra khỏi mới nói:
- Đoàn công tử, tiểu tăng mời đại giá lên miền bắc, quả thực đắc tội, trong lòng thật áy náy không yên.
Đoàn Dự đáp:
- Không dám, đại sư quá lời.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Công tử có biết tiểu tăng làm thế này là có ý gì không?
Đoàn Dự trên suốt con đường, trong bụng chỉ nghĩ đến một việc này thấy trên bàn để bút nghiên giấy mực, mười phần cũng đoán được tám chín bèn nói:
- Không được đâu.
Cưu Ma Trí hỏi lại:
- Cái gì mà không được?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi ái mộ kiếm pháp Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn ta định ép ta viết ra cho ngươi chứ gì? Cái đó không thể được.
Cưu Ma Trí lắc đầu:
- Đoàn công tử hiểu sai ý của ta rồi. Năm xưa tiểu tăng có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh, định mượn Lục Mạch Thần Kiếm Kinh của quí môn cho ông ta xem một lần. Lời hẹn đó chưa hoàn thành, trong lòng lúc nào cũng canh cánh. Cũng may Đoàn công tử thuộc lòng kinh đó, không biết cách nào hơn đành phải đem công tử đến trước mộ ông ta thiêu sống, để tiểu tăng khỏi bị thất tín với người xưa. Thế nhưng công tử là rồng phượng trong loài người, hai bên không có oán thù gì nhau, lẽ nào tiểu tăng lại làm hại đến công tử? Thành ra có một kế vẹn toàn cho cả đôi bên, công tử chỉ cần đem kinh văn đồ phổ chép lại, đừng dấu diếm chút nào, tiểu tăng nhất quyết không ghé mắt xem tới, lập tức gói chặt đem tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh hỏa hóa để hoàn thành tâm nguyện, sau đó sẽ cung kính tiễn công tử trở về Đại Lý ngay.
Câu này khi Cưu Ma Trí vừa mới bước chân vào chùa Thiên Long đã nhắc đến, lúc đó bọn Bản Nhân cũng đã toan bằng lòng, ngay cả Đoàn Dự cũng thấy cách đó có thể thực hiện được. Thế nhưng về sau Cưu Ma Trí tấn công lén Bảo Định Đế, rồi lại bắt giữ mình, ra tay chẳng có gì quang minh chính đại, khi trốn tránh truy binh thì có đủ các ngụy kế, đối với sinh tử an nguy của chín tên bộ thuộc hoàn toàn không coi vào đâu, bao nhiêu tàn ác gian trá đã lộ cả ra rồi, Đoàn Dự đời nào còn tin y cho nổi?
Chàng trong bụng đã tỏ tường bọn Nam Hải Ngạc Thần kia xưng là Tứ Đại ác Nhân xem ra phẩm cách còn hơn xa gã hòa thượng Thổ Phồn ngụy trang dưới danh vị “thánh tăng” này. Chàng tuy chưa từng trải việc đời nhưng trong hơn hai chục ngày qua, việc này đã suy nghĩ chín chắn, biết rõ đầu dây mối nhợ nên đáp:
- Cưu Ma Trí đại sư, lời nói của ông không đánh lừa được tôi đâu.
Cưu Ma Trí chắp tay nói:
- A Di Đà Phật, tiểu tăng một lời đã hứa với Mộ Dung năm xưa mà còn thủ tín đến thế, không lẽ giữ lời hứa này lại bỏ lời hứa kia hay sao?
Đoàn Dự lắc đầu nói:
- Ông bảo năm xưa hứa với Mộ Dung tiên sinh, thật hay giả nào ai biết được? Ông được đồ phổ Lục Mạch Thần Kiếm rồi thể nào chả đọc kỹ một lần, có đem đến đốt trước mồ Mộ Dung tiên sinh không nào ai biết được? Dẫu có phàn hóa thật chăng nữa, người thông minh tài trí như đại sư, đọc đi đọc lại vài lần không lẽ không nhớ được hay sao? Có khi còn sợ nhớ sai, đem sao lại một bản rồi sau mới đốt không chừng.
Cưu Ma Trí hai mắt lóe lên hầm hầm nhìn Đoàn Dự, chỉ trong giây lát, sắc mặt đổi lại từ hòa chậm rãi nói:
- Ngươi với ta đều là đệ tử cửa Phật, lẽ nào lại nói dối nói trá như thế bao giờ, tội quá, tội quá! Nếu như bất đắc dĩ, tiểu tăng đành phải ép buộc, âu cũng chỉ vì muốn cứu mạng công tử, xin đừng trách.
Nói xong đưa tay trái ra, nhẹ nhàng để lên ngực Đoàn Dự nói:
- Khi nào công tử không còn chịu nổi bằng lòng chép lại kinh này, chỉ cần gật đầu một cái, tiểu tăng sẽ buông tay ngay.
Đoàn Dự gượng cười đáp:
- Ta không chép kinh này, ngươi sẽ không chịu thua nên không đành lòng giết ta. Còn như nếu ta chép kinh cho ngươi, lúc đó đời nào ngươi để cho ta sống nữa? Ta chép kinh có khác gì tự sát, Cưu Ma Trí đại sư, cái chỗ đó mười ba ngày trước ta đã nghĩ đến rồi.
Cưu Ma Trí thở dài một tiếng niệm:
- Lạy Phật từ bi!
Chưởng tâm liền vận kình, nghĩ thầm luồng lực đạo này truyền vào huyệt Đãn Trung thì toàn thân chàng như có kiến cắn, khổ sở khó mà chịu nổi, gã công tử vốn được nuông chiều quen rồi, miệng thì nói cứng nhưng nếu bị hành hạ chết đi sống lại sẽ không thể nào không chịu ép một bề. Ngờ đâu kình lực vừa nhả ra, lập tức thấy biến đi đâu mất không thấy tăm hơi gì nữa. Y kinh hãi lập tức thúc đẩy mạnh thêm, lần này nội lực mất mát còn nhanh hơn nữa, tiếp theo chân khí trong người cuồn cuộn đổ ra. Cưu Ma Trí hết hồn, tay phải đẩy mạnh lên vai Đoàn Dự. Đoàn Dự “A” lên một tiếng, ngã lăn ra giường, ót đụng mạnh vào tường.
Cưu Ma Trí vốn đã biết Đoàn Dự học Hóa Công đại pháp của Tinh Tú lão quái nhưng yếu huyệt đang bị phong, dù chính dù ta thì võ công nào cũng không thể thi triển được, ngờ đâu y vừa phát kình, thì nội lực của mình liền tuôn vào huyệt Đãn Trung của đối phương, chẳng khác nào hôm trước toàn thân chàng không cử động gì được, mồm há hốc để cho con mãng cổ chu cáp chui tọt vào trong bụng, trên thân thể huyệt đạo bị đóng và Bắc Minh thần công không liên can gì đến nhau.
Đoàn Dự rên rỉ ngồi dậy hậm hực nói:
- Uổng cho ngươi tự xưng mình là cao tăng, cao tăng gì mà vừa ra tay đã đánh người là sao?
Cưu Ma Trí gằn giọng:
- Môn Hóa Công đại pháp của ngươi do ai dạy cho thế?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Hóa Công đại pháp, tàn bạo đối với cả trời lẫn vật khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì chẳng nực cười ru? Ha ha!
Mấy câu này vô hình chung chàng đem câu viết trong quyển trục lấy được trong thạch động ra dẫn. Cưu Ma Trí không hiểu ý tứ ra sao nhưng không dám đụng tới người chàng nữa, trước đây y điểm các huyệt Thần Phong, Đại Chuy, Huyền Khu, Kinh Môn của chàng nào có thấy gì đâu, người này võ công thật là quái dị, không thể nào hiểu nổi, chắc môn công phu này ắt là từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa ra, có điều chàng chỉ mới học được chút vỏ ngoài nên không biết sử dụng. Nếu thực như thế thì võ học họ Đoàn Đại Lý càng thèm thuồng hơn, thành thử y đột nhiên giơ chưởng lên, lăng không sử dụng một chiêu Hỏa Diễm Đao, chém đứt một mảnh chiếc khăn thư sinh trên đầu Đoàn Dự, quát lớn:
- Ngươi không viết thật chăng? Ngón đao này ta chỉ cần chém thấp xuống nửa thước thì đầu ngươi có còn không?
Đoàn Dự sợ lắm, nghĩ bụng nếu như y bực mình thật lại hủy một con mắt mình, hay chặt một cánh tay thì biết làm sao đây? Trên đường đi chàng đã suy nghĩ rất nhiều nên mấy câu hờm sẵn lập tức bật ra:
- Nếu như ta bị bức bách quá đỗi thì sẽ viết bậy viết bạ, không đúng hẳn. Nếu như ngươi làm hại đến chi thể ta, ta sẽ hận ngươi thấu xương, khi viết kiếm phổ sẽ thêm thắt đủ thứ. Nếu đã thế kiếm phổ ta chép kia nếu như ngươi đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, ngươi bảo là sẽ lập tức niêm phong ngay quyết không hé mắt nhìn đến, dù đúng dù sai thì cũng không liên quan gì đến ngươi. Ta viết lăng viết nhăng thì cũng là ta đánh lừa âm hồn Mộ Dung tiên sinh thôi, y ở cõi âm nếu như luyện rồi bị tẩn hỏa nhập ma, làm tuyệt quỉ mạch thì cũng đâu có trách gì nhà ngươi được.
Nói xong chàng làm như đi đến trước bàn, lấy giấy bút ra giả vờ định viết. Cưu Ma Trí giận lắm, mấy câu của Đoàn Dự làm lộ hết ý đồ định đánh lừa để lấy kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm của y, đồng thời cũng nói rõ ràng nếu y bức bách quá, kiếm phổ viết ra sẽ không đầu đủ, thiếu đầu thiếu đuôi, nhiều đoạn láo lếu, thì phỏng có ích gì, đọc vào chỉ thêm có hại. Y ở chùa Thiên Long đấu kiếm hai lần, Lục Mạch Thần Kiếm giả thật thế nào y nhìn là biết ngay thế nhưng yếu chỉ của lộ kiếm pháp đó đều do nội lực vận dụng sai sử mà thành thì không thể nào phân biệt được. Y thẹn quá hóa giận, nổi cơn điên vung tay chém ra một đòn Hỏa Diễm Đao, nghe soẹt một tiếng nhỏ, quản bút Đoàn Dự cầm trong tay bị chặt đứt ra làm hai.
Đoàn Dự còn đang cười sằng sặc, Cưu Ma Trí bèn quát lớn:
- Tặc tiểu tử, Phật gia có lòng tốt định tha mạng cho ngươi, ngươi vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Để ta xách ngươi tơi trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống, kiếm phổ ngươi nhớ trong bụng thì còn giả được hay chăng?
Đoàn Dự cười đáp:
- Ta khi sắp chết sẽ cố ý nhớ sai mấy chiêu kiếm pháp. Đúng đó, ta cứ thế mà làm, từ giờ trở đi ta hết sức nhớ sai, càng nhớ càng sai, đến sau cùng, đến chính ta cũng chẳng còn biết mình là ai.
Cưu Ma Trí hầm hầm trừng mắt nhìn chàng, ánh mắt dường tóe lửa, hận không thể dùng môn vô hình khí kình Hỏa Diễm Đao chém đứt cổ tên tiểu tử này cho xong.
Từ đó đường đi chỉ về hướng đông, đến hơn hai chục ngày, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói trên đường đi bắt đầu thánh thót dịu dàng, trong các món ăn cũng ít cay hơn. Hôm đó đến ngoài thành Tô Châu, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc sắp đến mộ của Mộ Dung Bác rồi. Phiên tăng không ép ta chép kiếm phổ được, chắc thể nào cũng giết mình đi nhưng biết đâu trước mồ của Mộ Dung Bác, y lại chẳng đốt một chốc, đánh một chập, khiến cho ta sống dở chết dở, y làm gì mà chẳng được".
Chàng thấy chạnh lòng không dám nghĩ thêm, đưa mắt nhìn phong cảnh. Lúc đó đang vào tháng ba, hoa hạnh đang nở, liễu xanh rủ bên hồ, gió xuân ấm áp thổi tới khiến lòng lâng lâng như say. Đoàn Dự thấy lòng khoan khoái, cất tiếng ngâm:
Liễu rủ lơ thơ sóng dập dềnh,
Cỏ thơm xóm nhỏ luống mông mênh.
Chiều hôm bóng ngả bên đường cũ,
Gió nhẹ vờn hoa cánh chập chờn.

Ba miểu miểu,
Liễu y y.
Cô thôn phương thảo viễn,
Tà nhật hạnh hoa phi.
Cưu Ma Trí cười khẩy:
- Chết đến nơi mà còn nhàn nhã tiêu sái để ngâm thơ vịnh phú nữa.
Đoàn Dự cười đáp:
- Sắc thân vốn là vô thường, đã còn là vô thường tức là còn khổ. Thiên hạ có ai mà không chết. Ngươi có sống cũng được thêm vài năm, phỏng được bao lâu mà chẳng hưởng cho sung sướng?
Cưu Ma Trí không thèm để ý đến chàng nữa, hỏi người đi trên đường Tham Hợp Trang ở chỗ nào? Thế nhưng y hỏi liên tiếp bảy tám người chẳng một ai biết cả. Hai bên ngôn ngữ bất đồng nên lại càng thêm rắc rối. Mãi sau mới có một ông già nói:
- Trong thành ngoài thành Tô Châu, chẳng có trang viện nào tên là Tham Hợp Trang cả. Chắc là đại hòa thượng nghe nhầm chăng?
Cưu Ma Trí nói:
- Có một đại trang chủ họ Mộ Dung, chẳng hay ông ta ở nơi nào?
Ông già đáp:
- Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Thẩm, họ Trương, họ Chu, họ Văn ... đều là những đại trang chủ, làm gì có ai họ Mộ Dung? Chưa từng nghe thấy bao giờ?
Cưu Ma Trí chưa biết tính sao, bỗng nghe từ một con đường nhỏ phía tây có người nói:
- Nghe nói họ Mộ Dung ở tại Yến Tử ổ_ ở phía tây cách thành ba mươi dặm, chúng mình tới đó xem sao.
Lại nghe một người khác nói:
- Này, mình đến nơi rồi, phải hết sức cẩn thận mới được.
Giọng nói vùng trung châu Hà Nam. Hai người đó nói rất khẽ nhưng nội công Cưu Ma Trí rất cao nên nghe rõ mồn một nên trong bụng tính thầm: “Không lẽ hai gã này cố ý nói cho mình nghe chăng? Nếu không thì sao lại vừa khéo đến thế?”. Y liếc mắt ngó qua, thấy một người hùng dũng hiên ngang, mặc đồ tang, còn một người nhỏ bé gầy gò chẳng khác gì người bị lao.
Cưu Ma Trí vừa liếc qua biết ngay hai người này có võ công, chưa biết có nên mở lời hỏi thăm không, Đoàn Dự đã kêu lên:
- Hoắc tiên sinh, Hoắc tiên sinh, ông cũng ở đây à?
Thì ra người hình dung ti tiện kia chính là Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền còn người kia thì là sư điệt của ông ta Truy Hồn Thủ Quá Ngạn Chi.
Hai người đó ra khỏi Đại Lý, nhất định báo thù cho Kha Bách Tuế biết rằng họ Mộ Dung võ công hết sức cao cường, mối thù này khó lòng mà trả được những cũng nhất quyết tìm đến Tô Châu. Họ dò hỏi biết được họ Mộ Dung ở tại Yến Tử ổ nhưng Mộ Dung Bác tạ thế đã lâu, làm sao có thể sát hại Kha Bách Tuế được, hẳn là một người nào khác trong nhà Mộ Dung. Hai người thấy việc báo cừu xem ra có đôi phần hi vọng, đi đến bờ hồ lại gặp phải Cưu Ma Trí và Đoàn Dự.
Thôi Bách Tuyền đột nhiên nghe thấy Đoàn Dự gọi tên mình, còn đang ngạc nhiên vội vàng đi tới, thấy một nhà sư ngồi trên lưng ngựa, tay trái nắm giây cương con ngựa Đoàn Dự đang cưỡi còn Đoàn Dự thì hai tay thẳng đơ xuôi theo bên mình, hiển nhiên đã bị điểm trúng huyệt đạo, lạ lùng hỏi:
- Tiểu vương gia đấy ư? Này, đại hòa thượng, tại sao ông lại gây khó cho vị công tử này? Ông có biết đây là ai không?
Cưu Ma Trí có coi hai người này vào đâu nhưng nghĩ mình chưa từng tới trung nguyên, nhà của Mộ Dung tiên sinh ở nơi nào không dễ gì tìm cho ra, được hai người này dẫn đường thật tốt biết chừng nào bèn nói:
- Ta muốn đến phủ đệ nhà Mộ Dung, phiền hai vị dẫn đường cho.
Thôi Bách Tuyền nói:
- Xin hỏi pháp danh của đại hòa thượng là gì? Sao dám đắc tội với tiểu vương gia họ Đoàn? Đến phủ Mộ Dung có chuyện chi?
Cưu Ma Trí đáp:
- Tới đó tự khắc sẽ biết.
Thôi Bách Tuyền hỏi:
- Đại sư là bằng hữu với nhà Mộ Dung chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
- Đúng thế, Tham Hợp Trang nơi ở của Mộ Dung tiên sinh ở nơi nào, Hoắc tiên sinh nếu biết, xin chỉ giùm cho.
Cưu Ma Trí thấy Đoàn Dự gọi y là “Hoắc tiên sinh” lại tưởng y họ Hoắc thật. Thôi Bách Tuyền gãi đầu, quay sang Đoàn Dự hỏi:
- Tiểu vương gia, để tôi giải khai huyệt đạo trên tay tiểu vương gia rồi tính sau.
Y tiến lên mấy bước, đưa tay định giải huyệt cho Đoàn Dự.
Đoàn Dự nghĩ thầm Cưu Ma Trí võ công cao siêu không đâu kể xiết, trên đời e rằng khó có ai bì kịp, Thôi Quá hai người không thể nào địch lại y, nếu lơ ngơ đến cứu mình thì chỉ uổng mạng thôi nên tốt hơn hết bảo họ chạy trốn bèn nói:
- Khoan đã, vị đại sư đây một thân một mình đánh bại bá phụ ta và năm cao thủ khác của nước Đại Lý, bắt ta đem tới đây. Ông ta là bạn bè tri kỷ của Mộ Dung tiên sinh, muốn đem ta đến đốt sống trước mộ để tế, hai vị không liên quan gì đến Mộ Dung Cô Tô, mau mau tránh ra nơi khác.
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nghe thấy hòa thượng này đánh bại Bảo Định Đế và các cao thủ khác, trong bụng kinh hãi, lại nghe nói y là bạn chí cốt của nhà Mộ Dung lại thêm hoảng hồn. Thôi Bách Tuyền nghĩ mình ẩn náu trong phủ Trấn Nam Vương hơn một chục năm, hôm nay tiểu vương gia bị nạn, lẽ nào làm lơ không ngó ngàng gì đến? Vả lại đã đến Cô Tô rồi, cái mạng mình vốn đã coi như xong, dẫu chết dưới những quân bàn toán như họ vẫn làm hay chết trong tay người khác thì có khác gì nhau. Nghĩ thế y bèn thò tay vào bọc lấy ra chiếc bàn toán đúc bằng vàng sáng chói, giơ lên lắc lắc nghe tiếng leng keng rộn rã nói:
- Đại hòa thượng, nếu Mộ Dung tiên sinh là bạn của ông thì tiểu vương gia đây cũng là bạn của ta, ta khuyên ông nên thả y ra đi.
Quá Ngạn Chi cũng lấy nhuyễn tiên quấn ở quanh bụng ra cầm trên tay, hai người cùng xông vào đầu ngựa của Cưu Ma Trí. Đoàn Dự kêu lên:
- Hai vị chạy mau lên, đánh không lại y đâu.
Cưu Ma Trí cười nhạt nói:
- Muốn động thủ thực chăng?
Thôi Bách Tuyền đáp:
- Đánh thế này ta biết là vuốt râu hùm, đánh không lại thực nhưng cũng thử một phen, sống chết ... ối ối ....
Chẳng biết y định nói “sống chết” cái gì, Cưu Ma Trí đã giơ tay đoạt nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi, kế đó nghe bạch một tiếng, hất ngược nhuyễn tiên lại cuốn lấy chiếc bàn toán trong tay Thôi Bách Tuyền, vung tay một cái, cả hai món binh khí cùng rơi xuống mé hồ bên phải, tưởng đâu sẽ chìm xuống đáy nước không ngờ Cưu Ma Trí sử kình rất chính xác, cán của nhuyễn tiên vòng một vòng, quấn luôn vào một cành liễu rủ trên mặt nước, cả cành cây lẫn nhuyễn tiên rún rẩy không ngừng. Chiếc bàn toán nhấp nhô chạm lên mặt nước thành những vòng tròn lan mỗi lúc một rộng.
Cưu Ma Trí chắp tay nói:
- Phiền đại giá của hai vị dẫn đường dùm.
Thôi Quá hai người mặt mày bàng hoàng, không biết làm sao cho phải. Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Nếu hai vị không muốn dẫn đường thì xin chỉ đường tới Tham Hợp Trang ở Yến Tử ổ vậy, tiểu tăng tự mình tìm tới cũng không sao.
Thôi Quá thấy võ công y cao cường như thế, thần thái lại hết sức khiêm hòa, quả thực có muốn nổi giận cũng không xong mà không nổi giận thì lại càng không được.
Ngay lúc đó, bỗng nghe có tiếng nước khua, trên mặt hồ một chiếc thuyền con theo làn sóng xanh đi tới. Trên thuyền là một cô gái mặc áo dài màu lục, hai tay cầm hai mái giầm chậm rãi chèo, miệng hát véo von một bài ca rằng:
Trên ao thơm ngát hương sen,
Cô kia tham hái khiến quên cả về.
Đầu thuyền khuấy nước say mê,
Cười anh vịt nhỏ chạy te khỏi quần.

Hạm đạm hương liên thất khoảnh bi,
Tiểu cô tham hí thái liên trì.
Vãn lai lộng thủy thuyền đầu thản,
Tiếu thoát hồng quần lý áp nhi.

Tiếng hát thánh thót dịu dàng khiến người nghe phải vui lây. Đoàn Dự khi còn ở Đại Lý thường ngâm đọc thơ phú người xưa, đã ghi sâu phong vật Giang Nam, bây giờ được nghe khúc hát khiến hồn không khỏi lâng lâng. Chỉ thấy cô gái kia hai cánh tay trắng muốt như ngọc, phản chiếu làn sóng xanh, tưởng chừng như sáng lóe lên. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi tuy đại địch ngay trước mặt nhưng cũng không khỏi quay đầu liếc nhìn cô gái mấy bận.
Chỉ có Cưu Ma Trí nhìn mà như không thấy, nghe mà như không lọt tai nói tiếp:
- Nếu hai vị không chịu nói cho biết Tham Hợp Trang ở đâu, tiểu tăng đành phải cáo từ.
Khi đó cô gái chèo chiếc thuyền nhỏ đã đến bờ hồ nghe Cưu Ma Trí nói như thế bèn xen vào:
- Vị đại sư phụ kia muốn đến Tham Hợp Trang chẳng hay có chuyện chi rứa?
Giọng nói thật trong trẻo dịu dàng khiến người nghe thấy lòng thật thoải mái. Cô gái đó tuổi chừng mười sáu mười bảy, mặt đầy vẻ ôn nhu, thân hình hết sức thanh tú.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Không ngờ con gái Giang Nam lại xinh đẹp nho nhã đến thế”. Thực ra cô gái này không đẹp lắm đâu, so với Mộc Uyển Thanh còn kém một chút, thế nhưng mặt mũi chỉ tám phần còn vẻ ôn nhu thêm hai phần nữa nên không sút chút nào với những mỹ nữ mười phân vẹn mười.
Cưu Ma Trí nói:
- Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp Trang, liệu tiểu nương tử có thể chỉ đường cho được chăng?
Cô gái mỉm cười đáp:
- Cái tên Tham Hợp Trang người bên ngoài làm răng mà biết được, đại sư phụ nghe ở mô vậy chừ?
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu tăng là người phương xa kết giao rất thân với Mộ Dung tiên sinh, đặc biệt đến trước mộ người bạn cũ tế một tuần để hoàn thành lời ước năm xưa lại cũng mong được thấy thanh phạm của Mộ Dung công tử một lần.
Cô gái ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Thế thì quả là phí công, Mộ Dung công tử vừa mới đi khỏi, giá như đại sư phụ tới sớm ba bữa thì đã gặp được công tử rồi.
Cưu Ma Trí nói:
- Giá như được gặp công tử một lần thì thật thỏa nguyện. Thế nhưng tiểu tăng từ nước Thổ Phồn xa xôi diệu vợi tới Trung Thổ, chỉ mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy để hoàn thành tâm nguyện năm xưa mà thôi.
Thiếu nữ đáp:
- Nếu đại sư phụ là bạn thân của Mộ Dung tiên sinh thì xin ghé uống một chén trà lạt đã, tiểu nữ sẽ vào báo tin, liệu có nên chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Nên xưng hô làm sao cho phải?
Cô gái cười khúc khích nói:
- Ôi chao! Tiểu nữ chỉ là người gẩy đàn thổi sáo hầu hạ công tử, tên gọi A Bích. Đại sư phụ chẳng nên đại nương tử, tiểu nương tử làm gì cho khách sáo ra, cứ gọi A Bích là được rồi.
Nàng nói giọng Tô Châu vốn thật khó nghe, thế nhưng là thị tì trong một đại thế gia võ lâm chắc bình thời nghe tiếng quan thoại cũng nhiều nên ăn nói thêm nhiều tiếng phổ thông Cưu Ma Trí và Đoàn Dự cố gắng cũng hiểu được. Cưu Ma Trí cung kính đáp:
- Không dám._
A Bích nói:
- Từ đây vào Cầm Vận tiểu trúc trong Yến Tử ổ đều là đường thủy, nếu tất cả các vị đều muốn đến thì tiểu nữ chở thuyền vào, liệu có nên chăng?
Mỗi câu nói cô gái lại thêm vào “liệu có nên chăng?”, vừa có vẻ ân cần hỏi han, lại như bàn thảo khiến cho người nghe khó mà từ chối. Cưu Ma Trí đáp:
- Thế thì xin phiền cô nương.
Y nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền chỉ hơi chìm xuống một chút mà không chòng chành chút nào. A Bích quay sang mỉm cười với Cưu Ma Trí và Đoàn Dự, dường như muốn khen: “Công phu giỏi thật!”.
Quá Ngạn Chi hỏi nhỏ:
- Sư thúc, mình tính sao đây?
Hai người đến kiếm nhà Mộ Dung báo thù nhưng gặp phải cảnh khó xử này thực là sượng sùng. A Bích mỉm cười:
- Hai vị đại gia đến Tô Châu, nếu không có gì gấp gáp, xin mời đến tệ xứ uống chén trà lạt, ăn chút điểm tâm. Đừng sợ chiếc thuyền này nhỏ không đủ sức, có thêm vài người nữa cũng không chìm đâu mà sợ.
Nàng nhẹ nhàng chèo thuyền đến dưới cây liễu nhặt lấy nhuyễn tiên cùng chiếc bàn toán, tiện tay khẩy mấy hạt toán châu, nghe lách cách leng keng. Đoàn Dự nghe vài tiếng, vui vẻ hỏi:
- Cô nương đàn khúc “Hái Dâu” đấy ư?
Thì ra cô gái thuận tay gẩy mấy viên bàn toán, nặng nhẹ nhanh chậm cũng thành tiết tấu, nghe ra hai câu rất linh động trong trẻo của bài “Hái Dâu”. A Bích mỉm cười nói:
- Công tử tinh thông âm luật, vậy đàn thử một khúc xem sao?
Đoàn Dự thấy nàng ngây thơ hồn nhiên, vui vẻ dễ thân cận cũng cười đáp:
- Tôi đâu có biết gẩy bàn toán.
Chàng quay lại nói với Thôi Bách Tuyền:
- Hoắc tiên sinh, cô này gẩy cái bàn toán của ông nghe hay quá.
Thôi Bách Tuyền cũng bật cười:
- Quả đúng thế! Cô nương thật là thanh nhã, cái món đồ nghề đầy tục khí của ta vào tay cô nương lại cũng thành một món nhạc khí.
A Bích đáp:
- Chao ôi! Quả là không phải chút nào. Cái này của Thôi đại gia đấy sao? Chiếc bàn toán này thật là quí giá, nhà ông chắc phải có của ăn của để nên cả cái bàn toán cũng đúc bằng vàng. Hoắc đại gia, xin trả lại ông đây.
Cô gái cầm chiếc bàn toán vươn tay đưa ra. Thôi Bách Tuyền đang ở trên bờ không thể nào vói tới, y cũng không thể nào bỏ món vật bất ly thân kia được, đành nhẹ nhàng nhảy lên đầu thuyền, giơ tay đón lấy chiếc bàn toán, quay sang trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vẻ mặt vẫn đầy vẻ từ hòa, mỉm cười không tỏ vẻ gì khó chịu.
A Bích tay trái cầm cán cây nhuyễn tiên giơ lên cao, năm ngón tay phải vuốt xuôi xuống, móng tay chạm vào những đốt nổi gồ lên phát ra những tiếng leng keng, tình tang khi cao khi thấp. Năm ngón tay nàng vuốt chẳng khác gì người gảy đàn tì bà, món binh khí đã từng chiến đấu khắp hai miền nam bắc Trường giang với biết bao anh hùng hắc bạch, nay vào bàn tay trắng trẻo mềm mại của nàng lại biến thành một món nhạc khí.
Đoàn Dự kêu lên:
- Hay quá! Hay quá! Cô nương thử đàn một bản xem nào.
A Bích quang sang Quá Ngạn Chi nói:
- Nhuyễn tiên này có phải của vị đại gia kia không? Tôi chẳng biết trời trăng gì lấy ra nghịch thực là vô lễ. Đại gia cũng xuống thuyền đi thôi, một lát nữa tôi sẽ bóc hồng lăng_ tươi cho ông ăn.
Quá Ngạn Chi nghĩ đến mối thù của sư phụ, hận nhà họ Mộ Dung đất Cô Tô thấu xương, nhưng thấy tiểu cô nương này nói năng nhí nhảnh, ngây thơ hồn nhiên ên trong bụng tuy đầy thù hằn nhưng cũng không thể nổi sùng với cô ta được, bụng nghĩ thầm: “Cô ta đưa mình đến trang viện thật hay biết mấy, thể nào mình cũng giết được vài đứa báo thù cho ân sư”. Nghĩ thế bèn gật đầu nhảy xuống thuyền.
A Bích cuộn gọn gàng cây nhuyễn tiên giao lại cho Quá Ngạn Chi, vừa chèo một cái, chiếc thuyền đã lướt về hướng tây. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đưa mắt ra hiệu cho nhau, cùng nghĩ: “Hôm nay mình chui vào hang cọp, không biết sống chết thế nào. Nhà Mộ Dung ra tay thật là độc ác, tiểu cô nương này nhỏ nhẹ dễ thương, xem ra không phải là giả dối, nhưng biết đâu chẳng phải là kế của họ dụ cho địch sinh ra kiêu căng để mình không đề phòng rồi thừa cơ hạ thủ?”.
Thuyền đi trên mặt hồ, quẹo qua quẹo lại mấy lần, rồi đi vào một chiếc đầm lớn, nhìn ra đằng xa thấy khói lung linh bốc lên, mặt nước xa tít tận chân trời. Quá Ngạn Chi trong bụng hãi thầm: “Chiếc hồ này chắc là Thái Hồ_ đây. Ta và Thôi sư thúc đều không biết bơi, con bé này chỉ cần lật thuyền là cả hai người mình sẽ vào bụng cá ngay, còn nói gì đến việc báo thù cho thầy nữa?”.
Thôi Bách Tuyền cũng đã nghĩ đến chuyện đó, nghĩ bụng nếu mình cầm được mái chèo trong tay, nếu cô gái này muốn lật thuyền thì cũng không phải là dễ bèn nói:
- Cô nương, để ta giúp cô chèo thuyền, cô chỉ cần chỉ đường là đủ.
A Bích cười nói:
- Ôi chao, tiểu nữ không dám. Nếu công tử biết được thể nào cũng mắng là coi thường khách.
Thôi Bách Tuyền thấy nàng từ chối lại càng nghi hơn, cười nói:
- Chẳng dấu gì cô, chúng tôi chỉ muốn cô trổ tài dùng nhuyễn tiên đàn một khúc. Chúng tôi là người thô lỗ không phải như Đoàn công tử đây, cầm kỳ thư họa môn nào cũng tinh thông.
A Bích nhìn Đoàn Dự cười nói:
- Tiểu nữ đàn có ra gì đâu, sao dám gọi là tuyệt kỹ? Đoàn công tử phong nhã như thế, nghe sẽ cười bằng thích, tôi chẳng đàn đâu.
Thôi Bách Tuyền cầm cây nhuyễn tiên trên tay Quá Ngạn Chi đặt vào tay cô gái tay kia cầm lấy mái chèo nói:
- Này cô! Cứ đàn đi nào!
A Bích cười nói:
- Thôi được, cho tôi mượn cái bàn toán của ông để đánh nhịp vậy.
Thôi Bách Tuyền trong bụng hơi e dè: “Cô ta muốn lấy luôn cả hai món binh khí của mình, không lẽ không có âm mưu gì sao?”. Thế nhưng đã đến nước này không tiện từ khước đành đưa cho cô ta chiếc kim toán bàn. A Bích để chiếc bàn toán lên sàn thuyền trước mặt, tay trái cầm cán nhuyễn tiên, chân trái đạp lên đầu roi, kéo thẳng ra, năm ngón tay phải vừa vuốt vừa búng, nhuyễn tiên liền phát ra âm thanh tính tang, tuy không réo rắt thánh thoát như tì bà những nghe cũng thật êm dịu.
Năm ngón tay của A Bích đàn nhuyễn tiên thỉnh thoảng lại nghỉ đưa ngón tay khẩy chiếc bàn toán, những hạt toán châu leng keng hòa với tiếng tình tang của nhuyễn tiên, lại càng vui tai. Ngay khi đó, bỗng thấy hai con chim ém sà ngang đầu thuyền, bay vụt về hướng tay. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi nhà Mộ Dung ở có tên là Yến Tử ổ, chắc hẳn chim én nhiều lắm”.
Lại nghe A Bích cất tiếng hát rằng:
Sớm mai nơi trước hiên nhà,
Hai con chim én bay sà xuống sân.
Phượng hoàng làm tổ cũng gần,
Khói Tiêu Tương cũng ân cần làm quen.
Lầu hồng cũng lại trèo lên,
Bờ sông biếc cũng chập chờn dừng chân.
Thuận đưa nét vẽ tay thần,
Tiếng oanh dìu dặt thả hồn mê ly.
Vì ai đến vì ai đi?
Rèm châu cuốn bức ơn kia nghìn trùng.

Nhị xã lương thần,
Thiên gia đình viện.
Phiên phiên hựu đổ song phi yến,
Phượng hoàng sào ổn hứa vi lân,
Tiêu Tương yên minh lai hà vãn?
Loạn nhập hồng lâu,
Để phi lục ngạn,
Họa lương khinh phất ca trần chuyển,
Vi thùy qui khứ vi thùy lai?
Chủ nhân ân trọng châu liêm quyển.

Đoàn Dự nghe nàng hát thật là ôn nhu tình tứ không khỏi lòng thấy mênh mang, nghĩ thầm: “Nếu như ta cứ suốt đời chui rúc ở nam cương, làm sao có được những giờ phút thần tiên như thế này?”.
Vì ai đến vì ai đi?
Rèm châu cuốn bức ơn kia nghìn trùng.
Mộ Dung công tử có người nữ tì như thế này hẳn phải là nhân vật phi thường. A Bích hát xong khúc hát đó rồi đưa bàn toán và nhuyễn tiên trả lại cho Thôi Quá hai người, cười nói:
- Hát chẳng ra gì, quí khách đừng cười nhé! Hoắc đại gia, xin chèo vào con lạch nhỏ phía bên trái, đó đó! Đúng rồi!
Thôi Bách Tuyền thấy nàng trả lại binh khí cho mình mới thấy yên bụng, bèn theo đúng lời nàng đi vào một con lạch nhỏ, có điều mặt hồ mọc đầy những lá sen, nếu không được cô ta chỉ điểm thì không ai có thể biết được giữa đám lá sen lại có một con đường. Thôi Bách Tuyền chèo một hồi, A Bích lại chỉ một con đường khác:
- Bơi qua phía kia kìa.
Phía đó mặt nước đầy những cây và trái hồng lăng, trong làn sóng xanh chập chờn, lăng đỏ lá xanh quả thật đẹp không thể tả. A Bích thuận tay hái hồng lăng chia cho mọi người.
Hai tay Đoàn Dự tuy vẫn cử động được nhưng sau khi huyệt đạo bị điểm rồi không có chút hơi sức nào, đến cái vỏ hồng lăng cũng không bóc được. A Bích cười nói:
- Công tử gia không phải người Giang Nam nên không biết bóc lăng, để tiểu nữ bóc dùm cho.
Cô ta bóc luôn mấy trái để vào tay chàng. Đoàn Dự thấy quả ấu đó trơn nhẵn bỏ vào mồm thơm phức, ăn ngon lạ thường cười nói:
- Hồng lăng này ăn bùi mà không ngấy, thật chẳng khác gì nghe cô nương hát vậy.
A Bích mặt ửng hồng cười nói:
- Đem bài hát của tôi so với trái hồng lăng, hôm nay mới là lần đầu nghe đến, xin đa tạ công tử.
Thuyền chưa qua khỏi hồ lăng, A Bích lại chỉ đường chèo thuyền vào một vùng lau lách và giao bạch_ khiến cho cả đến Cưu Ma Trí cũng nổi lòng e dè, trong bụng cố ghi nhớ đường đi của con thuyền để phòng khi đi ra không bị lạc lối. Mọi người đưa mắt nhìn quanh thấy mặt hồ toàn là lá sen, lá ấu, lau niễng nổi phất phơ trên mặt nước chỗ nào cũng giống chỗ nào, mỗi khi gió thổi lại biến đổi đủ chiều, dẫu lúc này có nhớ kỹ đến mấy thì chỉ chốc lát cục diện đã hoàn toàn khác hẳn.
Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi ba người chăm chăm nhìn vào mắt A Bích, cố gắng xem cô ta bằng cách nào tìm ra đường và dấu vết, nhưng cô gái chẳng để ý gì chỉ lo hái lăng, vọc nước, tiện đâu chỉ đó, dường như biết bao nhiêu thủy đạo ngang dọc như bàn cờ kia cô rõ như lòng bàn tay, sinh ra đã biết chẳng cần biện nhận làm gì.
Cứ như thế quay qua quẹo lại đến hai giờ, đến khoảng giời Mùi, nhìn thấy xa xa trong đám cây dương liễu xanh rì thấy lộ ra một góc rèm cửa. A Bích nói:
- Đến rồi đây! Hoắc đại gia, phiền ông phải chèo đến cả nửa ngày trời chắc là mệt lắm.
Thôi Bách Tuyền cười gượng:
- Chỉ cần có hồng lăng ăn, nghe tiếng hát, dẫu có phải chèo thuyền mười năm tám năm cũng không mệt.
A Bích vỗ tay reo:
- Nếu như ông muốn nghe hát, muốn ăn lăng thì có gì là khó? Cứ ở luôn trong đây không ra nữa là xong.
Thôi Bách Tuyền nghe cô ta bảo “Cứ ở luôn trong đây không ra nữa là xong” không khỏi kinh hãi, giương đôi mắt ti hí nhìn cô ta một hồi, chỉ thấy cô gái cười khúc khích xem ra không có bụng dạ nào nhưng cũng không vì thế mà yên tâm.
A Bích cầm lấy mái chèo, chèo thẳng vào dưới tàn cây liễu, đến gần hơn, thấy một cành thông làm thành chiếc thang, rủ xuống mặt nước. A Bích buộc chiếc thuyền vào cành cây, bỗng nghe trên cành liễu một con chim nhỏ hót ríu ra ríu rít nghe thật trong trẻo. A Bích cũng bắt chước tiếng chim ríu rít mấy tiếng, quay đầu lại mỉm cười:
- Xin quí khách lên bờ.
Mọi người lần lượt trèo lên, thấy lơ thơ mấy gian nhà dựng trên một khu đất chẳng hiểu là một hòn đảo hay một bán đảo. Những mái nhà đó trông be bé xinh xinh có vẻ tinh nhã, trên biển ngạch đề hai chữ “Cầm Vận”, nét bút tiêu sái. Cưu Ma Trí nói:
- Có phải đây là Tham Hợp Trang ở Yến Tử ổ chăng?
A Bích lắc đầu:
- Không phải. Chỗ này là công tử dựng lên cho tôi ở, nhỏ bé thế này đâu đáng để tiếp quí khách. Hiềm vì đại sư phụ nói là muốn đến tế mộ Mộ Dung lão gia nên tôi không quyết định được, đành phải để các vị chờ ở đây để tôi đi hỏi A Châu tỉ tỉ.
Cưu Ma Trí nghe nói thế, trong bụng hơi bực, mặt sầm xuống. Y là Hộ Quốc Pháp Vương nước Thổ Phồn, thân phận cao quí biết là nhường nào? Không những y ở Thổ Phồn được nhà vua kính trọng, dẫu có đến triều đình các nước Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Tây Hạ, các vị đế vương cũng phải lấy lễ quí tân mà tiếp đãi, huống chi y lại là kẻ tri giao cựu hữu của Mộ Dung tiên sinh, lần này thân hành đến tế mộ, Mộ Dung công tử vì không biết trước nên đi khỏi thì đã đành, vậy mà bọn kẻ ăn người ở lại không mời y vào khách sảnh tiếp đãi cho long trọng, lại đưa đến biệt viện của đứa tiểu tì chẳng là coi thường nhau lắm hay sao? Thế nhưng y thấy A Bích ăn nói líu lo chẳng có vẻ gì khinh mạn nên nghĩ thầm: “Con tiểu a đầu này chẳng biết gì mình để ý đến nó làm chi?”. Nghĩ như thế y thấy lòng bình thản trở lại.
Thôi Bách Tuyền hỏi:
- A Châu tỉ tỉ của cô là ai thế?
A Bích cười đáp:
- A Châu là A Châu, chị ấy lớn hơn tôi một tháng nên phải gọi bằng chị đấy thôi. Tôi phải gọi bằng chị chứ biết làm sao hơn, ai bảo chị ta hơn một tháng làm chi? Còn ông đâu cần gọi bằng chị, nhưng nếu như gọi bằng chị là chị ấy thích lắm đó!
Cô ta vừa dẫn mọi người vào nhà vừa nói líu lo, âm thanh trầm bổng như tiếng đàn tiếng sáo. Vào đến trong sảnh, A Bích mời mọi người ngồi, sau đó có người đầy tớ bưng trà lên. Đoàn Dự cầm chén trà thấy mùi thơm ngát bốc lên mũi, mở nắp ra, thấy trà màu xanh lợt có những lá trà biếc mọc đầy lông tơ, trông như những hạt châu cuộn nổi trên mặt nước. Đoàn Dự chưa từng thấy bao giờ, đưa lên miệng nhắp thử một ngụm, thấy ngon ngọt lạ thường, nước dãi chảy đầy lưỡi. Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người thấy lá trà kỳ lạ không ai dám uống. Loại trà tròn như hạt châu này là đặc sản trồng trên núi cao ở vùng kề bên Thái Hồ, người sau gọi là Bích Loa Xuân_, đời Bắc Tống chưa có cái tên thanh tao đó, dân vùng này chỉ gọi là loại trà “thơm phức” để ca tụng mùi hương đặc biệt. Cưu Ma Trí xưa nay chỉ ở Thổ Phồn và Tây Vực, quen uống loại trà đen đắng chát, bây giờ thấy loại trà xanh lông lá thế này, sợ có độc không dám đụng tới.
Bốn món điểm tâm gồm có kẹo Mai Côi, bánh dẻo Phục Linh, bánh ngọt Phí Thúy, bánh bao bột sen hình dáng tinh nhã, cái nào cái nấy trông tưởng như chỉ để chưng chứ không phải để ăn. Đoàn Dự tấm tắc:
- Mấy món điểm tâm trông đẹp thế này, ăn chắc là ngon lắn đó, nhưng thật chẳng nỡ lòng nào mà bỏ vào mồm.
A Bích mỉm cười nói:
- Công tử cứ việc ăn đi, chúng tôi vẫn còn nhiều.
Đoàn Dự cứ ăn một miếng lại nắc nỏm khen, thật là sướng miệng. Cưu Ma Trí và Thôi, Quá hai người không ai dám ăn, Đoàn Dự trong lòng khởi nghi: “Gã Cưu Ma Trí này tự xưng là bạn thân của Mộ Dung Bác, sao lại cái gì cũng dè dặt đến thế? Còn người trong trang viện nhà Mộ Dung đối đãi với y cũng không có gì đặc biệt”.
Lòng kiên nhẫn của Cưu Ma Trí quả không vừa, y đợi đến khi Đoàn Dự uống trà, ăn bánh khen vuốt đuôi thêm vài câu xong rồi mới nói:
- Như vậy thì nhờ cô nương thông tri cho A Châu tỉ tỉ của cô đi.
A Bích cười nói:
- Chỗ A Châu tỉ tỉ ở cách đây bốn con chín đường thủy, hôm nay không kịp nữa rồi, bốn vị ở đây qua một đêm, sáng sớm ngày mai, tiểu nữ sẽ đưa các vị đến Thính Hương Thủy Tạ.
Thôi Bách Tuyền hỏi lại:
- Bốn con chín đường thủy là gì thế?
A Bích đáp:
- Một con chín là chín dặm, hai con chín là mười tám dặm, bốn con chín là ba mươi sáu dặm. Ông lấy bàn toán ra tính là xong ngay.
Thì ra một giải Giang Nam, nói đến khoảng cách lộ trình tính theo một chín, hai chín. Cưu Ma Trí nói:
- Nếu biết sớm sao cô không đưa chúng tôi đến ngay Thính Hương Thủy Tạ có phải hay hơn không?
A Bích cười nói:
- Nơi đây chẳng có ai bầu bạn chuyện trò, buồn đến chết được. Dễ gì có được vài người khách đến chơi? Tiểu nữ vì thế muốn lưu quí vị lại một ngày.
Quá Ngạn Chi từ trước đến nay vẫn ngồi yên không nói một câu, bây giờ bỗng đứng bật dậy, quát lớn:
- Thân nhân nhà Mộ Dung ở nơi nào? Quá Ngạn Chi này đến Tham Hợp Trang không phải để uống trà ăn bánh, cũng chẳng phải đển kể chuyện vui cho ngươi nghe, mà là đến giết người báo thù, máu chảy đầu rơi. Họ Quá này đã đến được nơi đây, không mong gì sống được mà ra về. Cô nương, nhờ cô đi nói cho họ hay, ta là đệ tử của Kha Bách Tuế phái Phục Ngưu, hôm nay đến đây báo thù cho sư phụ.
Nói xong y vung nhuyễn tiên một cái, nghe lách cách một tiếng đã đánh vỡ tan một chiếc bàn trà bằng gỗ tử đàn và một chiếc ghế tre bằng trúc Tương Phi. A Bích không có vẻ gì kinh hoàng, cũng không nổi giận chỉ nói:
- Anh hùng hào kiệt trên giang hồ đến gặp công tử tháng nào cũng có vài người, cũng có người bặm trợn, hầm hè như Quá đại gia, phận con đòi như tiểu nữ đâu có sợ ...
Nàng chưa nói dứt câu, từ hậu đường một ông già râu tóc trắng xóa chống gậy bước ra nói:
- A Bích, ai ở ngoài này la lối om sòm như thế?
Người đó nói tiếng quan thoại, ngữ âm thật là đúng giọng. Thôi Bách Tuyền đứng phắt lên đứng bên cạnh Quá Ngạn Chi, quát hỏi:
- Sư huynh ta Kha Bách Tuế chết vì tay ai?
Đoàn Dự thấy ông già kia thân hình lọm khọm, mặt mũi nhăn nheo, không chín mươi thì cũng phải tám chục tuổi, nghe ông ta lầm bầm:
- Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế, Hừ, nếu đã sống đến một trăm, có chết cũng vừa.
Quá Ngạn Chi đến Tô Châu chỉ nghĩ đến chuyện tới nhà Mộ Dung chém giết một phen cho phỉ chí để báo thù cho ân sư thế nhưng sau khi bị Cưu Ma Trí đoạt mất binh khí y cảm thấy mất tinh thần, kế đến gặp một cô gái nhỏ dễ thương như A Bích, bao nhiêu oán hận trong lòng không có chỗ nào phát tiết, nay nghe lão già này ăn nói vô lễ liền vung nhuyễn tiên lên, đầu cây tiên phóng ra điểm luôn vào lưng lão ta. Y thấy Cưu Ma Trí ngồi bên cánh tây, đề phòng nhà sư ra tay ngăn trở nên ngọn roi từ phía đông đánh tới.
Ngờ đâu Cưu Ma Trí vươn tay ra, lòng bàn tay như có sức hút, nhuyễn tiên ở tận đằng xa cũng chộp ngay được, nói:
- Quá đại hiệp, chúng ta là khách từ xa đến, có gì để nói chuyện đầu đuôi, chưa việc gì phải động võ.
Y cuộn nhuyễn tiên lại trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi mặt đỏ gay, cầm cũng dở mà không cầm thì cũng không được, chợt nghĩ ngay: “Hôm nay chuyện báo thù mới là chuyện lớn, phải nén cái nhục nhất thời để có binh khí cầm trong tay”. Y nghĩ thế bèn đưa tay cầm lấy.
Cưu Ma Trí nói với ông lão:
- Chẳng hay thí chủ tôn tính đại danh là gì? Là thân thích của Mộ Dung tiên sinh, hay là bạn bè?
Ông già nhếch mép cười đáp:
- Lão đây là đầy tớ của công tử, làm gì có tôn tính đại danh? Nghe nói đại sư phụ là bằng hữu của lão gia khi còn tại thế, không biết muốn sai bảo chuyện gì?
Cưu Ma Trí đáp:
- Việc của ta khi gặp mặt công tử rồi sẽ phụng cáo.
Ông già đáp:
- Thế thì thật lỡ làng, hôm qua công tử gia đã ra khỏi nhà, không chừng phải một hai ngày mới về.
Cưu Ma Trí hỏi lại:
- Thế công tử đi đâu thế?
Ông lão nghiêng đầu ngẫm nghĩ, giơ tay gõ gõ lên trán nói:
- Cái đó ư! Ta cũng quên khuấy đi mất, hình như là qua Tây Hạ, cũng có thể là nước Liêu, không chừng lại qua Thổ Phồn, hoặc giả là Đại Lý.
Cưu Ma Trí hừ một tiếng, trong bụng không vui. Thời đó năm nước chia năm góc thiên hạ, trừ đương địa là Đại Tống không kể, lão già này nói cả bốn nước còn lại. Y biết ông lão giả vờ lú lẫn bèn nói:
- Nếu đã thế, ta không thể đợi công tử về được, xin quản gia dẫn ta lại mộ phần tiên sinh lạy một lạy để cho trọn tình cố nhân.
Ông già kia xua tay rối rít nói:
- Chuyện đó ta không quyết định được, ta nào có phải quản gia đâu.
Cưu Ma Trí nói:
- Thế thì ai là quản gia trong tôn phủ? Xin mời ra cho ta gặp.
Ông lão gật gù nói:
- Được chứ, được chứ! Để ta đi mời quản gia.
Y quay người lẩy bẩy đi ra ngoài, lẩm bẩm nói một mình: “Ta bằng từng này tuổi đầu, trên đời này chuyện ma mãnh gì ta chẳng biết? Biết ngay giả làm sư mô đạo sĩ bịp bợm xin cúng dường. Việc gì lão cũng thấy cả rồi, đừng có mà tính chuyện qua mặt”.
Đoàn Dự nghe nói thế cười rộ lên. A Bích vội nói với Cưu Ma Trí:
- Đại sư phụ đừng giận, Hoàng bá bá lẩn thẩn rồi, lúc nào cũng ra vẻ sành sỏi, nói năng hay làm mích lòng người khác.
Thôi Bách Tuyền giật giật tay áo Quá Ngạn Chi lôi qua một bên nói nhỏ:
- Thằng trọc này tự xưng là bằng hữu của nhà Mộ Dung, nhưng bọn này rõ ràng đâu có coi y là khách quí. Mình chớ có nóng nảy, để xem thế nào rồi hãy tính.
Quá Ngạn Chi đáp:
- Vâng!
Hai người trở lại chỗ cũ nhưng chiếc ghế tre Quá Ngạn Chi ngồi đã bị y đánh vỡ nát rồi thành thử không còn chỗ nào. A Bích nhắc chiếc ghế của nàng lại, mỉm cười nói:
- Quá đại gia, mời ông ngồi đây.
Quá Ngạn Chi gật đầu nghĩ thầm: “Nếu ta có phải giết sạch cả nhà Mộ Dung thì cũng tha cho con tiểu a đầu này”. Đoàn Dự thấy ông lão bộc đi vào, trong bụng cảm thấy có điều gì khang khác, xem ra không ổn nhưng đó là việc gì thì chàng không thể nói được. Chàng quan sát kỹ càng những đồ đạc trong gian nhà nhỏ này, cây cối ngoài sân, tranh vẽ trên vách, rồi lại nhìn kỹ A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người, chỗ nào lạ lùng chàng không thể tìm ra, nhưng trong bụng càng lúc càng ngờ vực.
Một lát sau có tiếng chân người, từ nội đường một gã gầy gò tuổi độ ngũ tuần bước ra. Y mặt mũi vàng vọt, dưới cằm để một túm râu dê, trông ra vẻ nhanh nhảu lanh lợi, quần áo mặc trông cũng khá tươm tất, ngón tay út bên trái đeo một chiếc nhẫn ngọc, xem chừng là quản gia trong nhà Mộ Dung. Gã đó quay sang Cưu Ma Trí và cả bọn hành lễ nói:
- Tiểu nhân Tôn Tam bái kiến các vị. Đại sư phụ, lão nhân gia muốn đến một lão gia chúng tôi tế một tuần, chúng tôi thật là cảm kích. Có điều công tử đã đi khỏi, không ai hoàn lễ, thật không cung kính chút nào. Đợi công tử về rồi, tiểu nhân đem tấm lòng của đại sư phụ trình lên vậy ...
Y nói đến đây, Đoàn Dự bỗng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, trong bụng chợt động: “Lạ thật! Lạ thật!”. Hồi nãy khi lão bộc bước vào tiểu sảnh, Đoàn Dự cũng ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng. Mùi hương đó tương tự như mùi thơm trên người Mộc Uyển Thanh, tuy cũng có khác nhưng đều là hương của đàn bà con gái. Lúc đầu Đoàn Dự còn tưởng là ở người A Bích tỏa ra nên không để ý, nhưng khi lão bộc kia ra khỏi phòng rồi, mùi thơm kia liền không còn nữa, đến lúc gã tự xưng là Tôn Tam kia bước vào, Đoàn Dự lại ngửi thấy mùi hương kia. Chàng liền hiểu ra, việc mình thấy có gì khác lạ chính là vì tại sao từ một lão già tám, chín mươi lại có mùi con gái mười bảy, mười tám, nghĩ thầm: “Không lẽ sau nhà có trồng kỳ hoa dị thảo gì, nên ai từ đó bước ra thân thể cũng có mùi hương thoang thoảng? Nếu không thì cả lão bộc lẫn gã gầy gò này đều là con gái cải trang”.
Mùi hương đó tuy làm Đoàn Dự khởi nghi nhưng thực ra rất là nhẹ, Cưu Ma Trí và hai người kia không ai nhận ra được. Đoàn Dự sở dĩ ngửi thấy được vì chàng và Mộc Uyển Thanh hai người đã trải qua một thời gian thực là nguy hiểm nơi thạch thất, mùi hương đàn bà kia, người khác không nhận ra nhưng chàng đã ghi lòng tạc dạ, so với sạ hương, đàn hương, hoa hương còn đậm đà hơn nhiều. Cưu Ma Trí tuy nội công thâm hậu nhưng cả đời nghiêm thủ sắc giới, dẫu má hồng tóc xanh dưới mắt y cũng chẳng khác gì khô lâu bạch cốt, phấn dịu son thơm cũng không khác gì mùi máu mủ tanh hôi, không phân biệt mùi con trai với con gái.
Đoàn Dự đã nghi Tôn Tam là con gái cải trang, nhưng nhìn qua nhìn lại không thấy chút sơ hở nào, người này thần tình cử chỉ hoàn toàn đàn ông, đến cả hình mạo thanh âm cũng không có chút nào đàn bà con gái. Chàng đột nhiên nghĩ ra: “Đàn bà nếu giả làm đàn ông thì hầu hết cũng không thể nào giả được”. Chàng chăm chú nhìn vào cổ Tôn Tam, thấy chòm râu dê của y phủ xuống không nhìn thấy được cổ họng.
Đoàn Dự đứng lên, giả vờ thưởng ngoạn các bức thiếp và tranh vẽ treo trên tường, đi đến ngang bên Tôn Tam liến qua nhìn lén một cái, thấy cổ họng y quả không có gồ lên, lại nhìn xuống thấy ngực y đầy đặn, tuy không dám chắc đây là đàn bà nhưng một gã đàn ông ốm o như thế, ngực không thể nào tròn trịa như vậy được. Đoàn Dự tìm ra được cái bí mật này thật là thú vị nghĩ thầm: “Bọn họ thật là lắm trò để xem họ định làm gì nữa đây?”.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:17 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Lâu nay dạ luống mơ mòng,
Giang Nam cảnh vật một vòng ghé thăm.
Hồ xanh, liễu rủ, hương lăng,
Thuyền con một chiếc, xinh xinh hai nàng.
*
* *

Cưu Ma Trí thở dài:
- Ta và lão gia các ngươi năm xưa gặp nhau ở Tứ Xuyên, đàm luận võ công, ai bên đều phục tài lẫn nhau nên kết bạn. Ngờ đâu con tạo ghen kẻ kỳ tài, cái kẻ tầm thường như ta đây thì trời còn cho sống thừa đến hôm nay, còn lão gia các ngươi lại sớm về tây phương cực lạc. Ta từ nước Thổ Phồn đến Trung Thổ, chỉ vì mối thâm tình với người bạn cũ nên muốn đến vái trước mộ, có người hoàn lễ hay không nào có gì là quan trọng? Phiền quản gia dẫn đường cho.
Tôn Tam nhíu mày, xem ra thật là khó xử lắp bắp nói:
- Cái đó ... cái đó ...
Cưu Ma Trí nói:
- Không biết bên trong còn việc gì không ổn xin chỉ giáo cho.
Tôn Tam nói:
- Nếu đại sư phụ quả là bạn chí thân của lão gia chúng tôi thuở sinh tiền, hẳn đã biết tính khí lão gia chúng tôi. Lão gia ngại nhất là có người đến thăm, người thường bảo rằng phàm kẻ đến nhà, nếu không tầm cừu sinh sự thì cũng đến bái sư học nghề, hay kém hơn một mức là đến xin xỏ tiền bạc, không chừng lại thò tay mặt, đặt tay trái, toan bề đục nước béo cò, thuận tay trộm cắp món gì rồi lỉnh mất. Lão gia nói bọn sư mô lại càng đáng đề phòng, ấy chết, ... xin lỗi ...
Y nói đến đó biết mình lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma Trí, vội vàng đưa tay bịt miệng. Lối đó đúng là kiểu một cô gái hay làm, giương đôi mắt đen láy như hai hạt châu ranh mãnh nhìn, tuy lập tức khép ngay mi lại nhưng Đoàn Dự vốn đã lưu tâm, tự nhiên trong lòng thấy thích thú: “Gã Tôn Tam này không những là đàn bà mà lại là một cô gái trẻ tuổi nữa là khác”. Chàng liếc qua A Bích thấy nàng ta trên môi nở một nụ cười tinh quái, trong bụng không còn hoài nghi gì nữa, nghĩ thầm: “Gã Tôn Tam và lão Hoàng kia hai người là một, không chừng là A Châu tỉ tỉ chứ không phải ai khác”.
Cưu Ma Trí thở dài:
- Trên đời này người gian thì nhiều người ngay thì ít, Mộ Dung tiên sinh không muốn kết giao cùng bọn phàm phu quả là đúng lắm.
Tôn Tam nói tiếp:
- Đúng vậy đó. Lão gia chúng tôi có di ngôn rằng, nếu như có ai đòi đến tế phần tảo mộ thì phải hết sức ngăn cản. Người còn bảo: “Mấy tên trọc thường chẳng có bụng dạ tốt lành gì đâu, hẳn là toan đào mả ta đấy thôi”. ấy chết, đại sư phụ đừng để bụng, lão gia chúng tôi chửi bọn trọc đầu chắc không phải nói ngài đâu.
Đoàn Dự cười thầm trong bụng: “Ai đời đâu gặp người gù lại chửi kẻ lưng cong. Gã sư hổ mang này vẫn bình tĩnh như không, càng đại gian đại ác càng không nổi nóng, gã đúng là một tay bản lãnh phi thường”.
Cưu Ma Trí đáp:
- Mấy câu trăn trối của lão gia ngươi thật là hữu lý. Ông ta khi còn sinh tiền uy chấn thiên hạ, thành thử có rất nhiều kẻ thù. Có người không báo được cừu khi tiên sinh còn tại thế, cũng nên đề phòng họ đụng chạm đến di thể khi ông ta đã qua đời.
Tôn Tam đáp:
- Muốn đụng đến di thể của lão gia chúng tôi, ha ha, thật chỉ tổ Dã Tràng se cát.
Cưu Ma Trí ngạc nhiên hỏi lại:
- Cái gì mà lại Dã Tràng se cát?
Tôn Tam đáp:
- Cái đó nghĩa là “Dã Tràng se cát biển đông, Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì”. Chuyện dụng chạm đến di thể lão gia thì đừng mơ tưởng mà mất cả chì lẫn chài.
Cưu Ma Trí nói:
- ồ, thì ra là thế. Ta và Mộ Dung tiên sinh tri kỷ giao hảo, chỉ muốn đến trước mộ cố nhân lạy một lạy, không có ý gì khác, quản gia chẳng nên đa nghi.
Tôn Tam đáp:
- Nói gần nói xa chẳng qua nói thực, tiểu nhân quả là không dám quyết định ngược lại với di chí của lão gia. Nếu như công tử trở về tra hỏi biết được, há chẳng đánh đến gãy đùi tiểu nhân ư? Thôi thì để tôi mời lão thái thái xem định đoạt ra sao, rồi quay lại bẩm có được chăng?
Cưu Ma Trí hỏi lại:
- Lão thái thái ư? Còn vị lão thái thái nào nữa?
Tôn Tam đáp:
- Mộ Dung lão thái thái là thím của lão gia. Mỗi khi có bằng hữu của lão gia đến chơi đều phải khấu đầu hành lễ với thái thái. Công tử không có nhà, việc gì cũng phải hỏi ý lão thái thái.
Cưu Ma Trí đáp:
- Thế thì hay lắm, nhờ ngươi bẩm với lão thái thái là Cưu Ma Trí nước Thổ Phồn hỏi thăm sức khỏe lão phu nhân.
Tôn Tam nói:
- Đại sư phụ khách sáo quá, chúng tôi không dám nhận.
Nói xong liền quay vào nội đường. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Vị cô nương này tinh quái láu lỉnh, trêu ghẹo lão trọc Cưu Ma Trí, không biết để làm gì đây?”.
Qua một lúc nghe có tiếng vòng đeo leng keng, một bà già từ nội đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương thoang thoảng kia đã ngửi thấy rồi. Đoàn Dự khôi khỏi mỉm cười, nghĩ thầm: “Lần này lại biến thành một lão phu nhân”.
Chỉ thấy bà lão mặc áo quần bằng đoạn màu xanh cổ đồng, tay đeo vòng ngọc, đầu đầy châu thúy, ăn mặc thật là sang trọng, mặt thật nhiều vết nhăn, đôi mắt hấp him dường như nhìn không rõ. Đoàn Dự tấm tắc thầm trong bụng: “Cô ả này quả là tài, ăn mặc đâu ra đấy, thật khéo lắm thay, chỉ chốc lát đã cải trang xong, tay chân linh lợi như thế thật không phải dễ”.
Mụ già kia tay chống gậy, lẩy bẩy đi vào sảnh đường nói:
- A Bích, có bạn của lão gia ngươi đến chơi đấy ư? Sao chưa khấu đầu chào ta?
Mụ vừa nói vừa quay qua quay lại tìm kiếm, dường như mắt đã kèm nhèm nhìn không rõ ai với ai. A Bích giơ tay liên tiếp ra hiệu cho Cưu Ma Trí, nói nhỏ:
- Mau khấu đầu đi, ông rập đầu chào thái thái hả dạ thì chuyện gì cũng xong.
Bà lão nghiêng đầu qua, giơ bàn tay khum khum che tai như muốn nghe cho rõ, lớn tiếng hỏi lại:
- Này con ranh con, ngươi nói gì thế? Người ta đã khấu đầu chưa?
Cưu Ma Trí đáp:
- Lão phu nhân mạnh khỏe chứ? Tiểu tăng xin chào lão nhân gia.
Ông ta vái một cái thật sâu, hai tay phát kình, trên mặt đá nghe tiếng cốp cốp tưởng như người khấu đầu làm lễ. Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi hai người đưa mắt cho nhau ai nấy kinh hãi: “Nhà sư này nội kình quả là ghê gớm, mình e rằng chưa chịu nổi một chiêu của y”. Bà lão gật gù nói:
- Tốt lắm, tốt lắm! Thời nay kẻ gian thì nhiều, người ngay thì ít, đến như khấu đầu cũng lắm đứa giở trò ma mãnh, không rập đầu mà cũng nghe kêu côm cốp dưới đất, tưởng lão thái thái này thong manh không thấy. Thằng bé này ngoan lắm, rập đầu nghe rõ kêu.
Đoàn Dự nhịn không nổi cười rộ lên một tiếng. Lão phu nhân chậm rãi quay qua hỏi:
- A Bích, hình như có ai đánh rắm phải không?
Nói rồi giơ tay phẩy phẩy trên mũi, A Bích cố nhịn cười đáp:
- Lão thái thái, không phải đâu. Đó là vị Đoàn công tử này cười đó.
Bà lão hỏi lại:
- Đoạn à? Cái gì mà đứt đoạn?
A Bích đáp:
- Không phải đoạn, người ta họ Đoàn, công tử họ Đoàn.
Bà lão gật đầu:
- Gớm, công tử nọ với chẳng công tử kia, từ sáng tới tối lúc nào ngươi cũng chỉ nhớ tới công tử nhà ngươi thôi.
A Bích thẹn thùng nói:
- Lão thái thái nghễnh ngãng, nói năng chuyện nọ xọ chuyện kia chẳng ra mô ra tê chi hết.
Bà lão quay sang nói với Đoàn Dự:
- Thằng bé kia, sao thấy thái thái chưa khấu đầu?
Đoàn Dự đáp:
- Lão thái thái, tiểu sinh có câu chuyện muốn kể cho thái thái nghe.
Bà lão hỏi lại:
- Ngươi muốn kể chuyện gì?
Đoàn Dự đáp:
- Tiểu sinh có một đứa cháu gái thật là thông minh lanh lợi nhưng cũng nghịch tinh nghịch ranh. Con bé đó thích mặc giả người này người khác, hôm thì giả làm ông, hôm lại giả làm bà để trêu chọc người khác. Lão thái thái gặp nó chắc là thích lắm. Tiếc rằng lần này không đem nó đến khấu đầu trước lão nhân gia.
Lão phu nhân đó chính là cô tì nữ A Châu trong phủ Mộ Dung giả trang. Thuật hóa trang của cô ta quả là khéo léo, không những hình dáng đã giống mà lời ăn tiếng nói cũng y hệt, có thể nói là không có một chút sơ sót nào. Thành thử dù cho thông minh cơ trí như Cưu Ma Trí, giang hồ lão luyện như Thôi Bách Tuyền đều không ai nghi ngờ gì. Chẳng dè Đoàn Dự nhờ có mùi hương thoang thoảng trên mình cô ta mà nhận ra.
A Châu nghe nói thế hoảng hồn nhưng vẫn tỉnh bơ như không, giả vờ làm như người già cả lẩm cẩm, mắt mờ tai điếc nói:
- Cháu ngoan lắm, cháu ngoan lắm, lại thật thông minh, ta chưa bao giờ thấy đứa nào nhanh nhảu đến thế. Cháu ngoan không nên lắm lời, lão thái thái sẽ thưởng cho nghe chưa?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “ý cô ta muốn mình đừng lật chân tướng cô ta ra. Cô ta ra tay đối phó với gã trọc Cưu Ma Trí, là bạn chứ nào phải là kẻ địch đâu”. Nghĩ thế bèn đáp:
- Lão phu nhân cứ yên tâm, tại hạ đến tôn phủ rồi, mọi việc đều do lão phu nhân sai bảo.
A Châu nói:
- Ngươi nghe lời ta, có thế mới là đứa ngoan. Giỏi lắm, mau khấu đầu với lão bà bà ba cái đã, ta thể nào cũng tử tế với ngươi.
Đoàn Dự ngạc nhiên, nghị bụng: “Ta đường đường là thế tử của hoàng thái đệ nước Đại Lý, lẽ nào lại khấu đầu với con tiểu tì này?”. A Châu thấy chàng có vẻ ngượng ngùng, cười khẩy mấy tiếng nói:
- Này cháu ngoan, nghe bà nói đây, khấu đầu chào bà vài cái xem nào.
Đoàn Dự quay sang nhìn thấy A Bích đang dẩu môi liếc mắt cười mủm mỉm, da trắng như lăng tươi vừa mới bóc, bên mép lại có một nốt ruồi nho nhỏ càng thêm vẻ xinh tươi, trong lòng không khỏi khích động bèn hỏi:
- A Bích tỉ tỉ, nghe nói trong tôn phủ còn một vị A Châu tỉ tỉ, cô ta ... cô ta có xinh đẹp tuấn nhã được như cô chăng?
A Bích mỉm cười:
- ối chao! Tiểu nữ xấu xí thế này bì sao được? Nếu như A Châu tỉ tỉ nghe công tử hỏi như thế sẽ buồn lòng lắm đó. Tiểu nữ có đáng vào đâu, A Châu tỉ tỉ đẹp gấp mười.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Thật vậy sao?
A Bích cười đáp:
- Tiểu nữ nói dối công tử làm chi.
Đoàn Dự nói:
- Làm gì có ở trên đời này làm gì có người đẹp gấp mười lần cô được, trừ phi là ... trừ phi là nàng tiên trong động ngọc. Chỉ cần đẹp ngang ngửa với cô là cũng đã ít người sánh bằng rồi.
A Bích mặt đỏ bừng, thẹn thùng nói:
- Lão phu nhân bảo công tử khấu đầu chứ có bảo công tử mồm năm miệng mười khen nịnh tôi đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Lão phu nhân vốn cũng là một bậc quốc sắc thiên hương. Nói thật với cô dẫu có cho tôi cái gì tôi cũng không màng, tôi đã từng lạy người đẹp trong ngọc động hàng nghìn cái, còn lạy một mỹ nhân đất Giang Nam vài ba cái thì có đáng gì đâu?
Nói xong chàng liền rập đầu bình bình bình ba cái thật kêu. A Châu vô cùng hoan hỉ nghĩ thầm: “Vị công tử này biết mình chỉ là một con thị tì vậy mà vẫn chịu khấu đầu quả thực khó biết bao”. Nàng bèn nói:
- Con ngoan lắm, thật giỏi, thật giỏi. Tiếc rằng ta không mang theo tiền thưởng...
A Bích vội xen vào:
- Lão thái thái không quên là được rồi, lần sau cho thêm cũng không sao.
A Châu trừng mắt nhìn cô ta, quay sang Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi nói:
- Hai vị khách này sao không khấu đầu ra mắt lão bà?
Quá Ngạn Chi hừ một tiếng, sẵng giọng hỏi:
- Mụ có biết võ công chăng?
A Châu đáp:
- Ngươi nói gì thế?
Quá Ngạn Chi lập lại:
- Ta hỏi mụ có biết võ công không. Nếu như võ công cao cường, họ Quá này đành chịu chết dưới tay Mộ Dung lão phu nhân. Còn như nếu không phải người trong võ lâm thì ta không thèm nói với mụ làm gì.
A Châu lắc đầu:
- Cái gì mà lại “ngô công bách cước”? Ngô công dĩ nhiên là có chân, nó cắn đau lắm đấy.
Nàng quay sang nói với Cưu Ma Trí:
- Đại hòa thượng, nghe nói hòa thượng muốn đến viếng mộ cháu ta, lại định ăn trộm cái gì đấy?
Cưu Ma Trí tuy không biết nàng là một thiếu nữ giả trang, nhưng cũng đoán chừng nàng giả vờ nghễnh ngãng chứ không phải là người già lẩn thẩn, trong bụng càng thêm đề phòng, nghĩ bụng: “Mộ Dung tiên sinh đã ghê gớm như thế thì người trưởng bối trong nhà chắc cũng chẳng vừa gì đâu”. Thành thử y giả như không nghe thấy nàng đề cập đến chuyện “ăn trộm” trả lời:
- Tiểu tăng với Mộ Dung tiên sinh vốn là bạn tri giao, nghe thấy âm hao tiên sinh tạ thế nên từ nước Thổ Phồn qua đây, muốn đến trước mộ lạy một lạy. Tiểu tăng trước đây đã ước định với Mộ Dung tiên sinh, sẽ đem kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm nước Đại Lý qua cho tiên sinh xem nhưng hiềm chưa thành, tiểu tăng trong lòng thật là hổ thẹn.
A Châu và A Bích hai người nhìn nhau cùng nghĩ thầm: “Gã hòa thượng này bây giờ mới nói đến chuyện chính đây”. A Châu đáp:
- Lục Mạch Thần Kiếm kiếm phổ lấy được thì sao? Mà không lấy được thì sao?
Cưu Ma Trí đáp:
- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh có ước định với tiểu tăng, nếu tiểu tăng lấy được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm cho xem vài hôm thì sẽ cho tiểu tăng vào Hoàn Thi Thủy Các trong tôn phủ đọc sách vài ngày.
A Châu giật mình: “Nếu nhà sư này biết được bốn chữ Hoàn Thi Thủy Các thì xem ra lời y không phải là giả”. Nàng bèn giả như lú lẫn hỏi lại:
- Cái gì mà hi phạn thủy giảo? Ngươi muốn ăn cháo gà với lại bánh trôi ư? Cái đó dễ lắm, nhưng ngươi là người xuất gia ăn đồ mặn có được không?
Cưu Ma Trí quay sang nói với A Bích:
- Không biết vị lão thái thái này lú lẫn thật hay chỉ giả vờ nhưng cự tuyệt người từ nghìn dặm xa xôi đến đây chẳng khiến người ta nản lòng lắm hay sao?
A Châu đáp:
- Sao, ngươi lạnh bụng à? A Bích, ngươi mau đi múc một chén cháo tiết gà để cho đại sư đây ăn cho ấm bụng.
A Bích cố nén cười:
- Đại sư phụ đâu có ăn mặn được.
A Châu gật gù:
- Thế thì đừng nấu cháo gà cháo vịt thật mà dùng gà vịt chay thế vào.
A Bích nói:
- Lão thái thái lẫn rồi, gà vịt chay làm gì có huyết.
A Châu lẩm bẩm:
- Thế thì biết làm sao bây giờ?
Hai cô gái một tung một hứng nghe thật ăn nhịp với nhau. Người đất Tô Châu phần đông lanh mồm lanh miệng, về sau là nơi nổi tiếng về bình luận cũng ở đó mà ra. Hai cô thị tì này bình thời vẫn hay tinh nghịch đùa cợt với nhau bây giờ đem ra quấy phá khiến Cưu Ma Trí không biết đường nào mà mò.
Lần này y tới Cô Tô vốn định khi gặp Mộ Dung công tử sẽ bàn một chuyện quan trọng ngờ đâu chủ không gặp, gặp những người chẳng đâu ra đâu, ỡm à ỡm ờ hư hư thực thực khiến không biết phải làm sao cho phải. Y ngẫm nghĩ một chút đã biết ngay Mộ Dung lão phu nhân, Tôn Tam, Hoàng lão bộc, A Bích ai nấy đều có ý thoái thác không cho mình viếng mộ, dĩ nhiên không cho mình vào Hoàn Thi Thủy Các xem các bí tịch võ học rồi nên dù họ nói gì thì nói, cứ đem chuyện ra trình bày minh bạch rồi sau đó nếu được thì dùng lễ đối đãi, không thì phải cậy mạnh mà ép uổng, đằng nào mình cũng ở tay trên. Nghĩ thế y từ tốn nói:
- Kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã có đem theo đây vì thế mới nhắc lại lời hẹn năm xưa được vào Hoàn Thi Thủy Các trong quí phủ xem sách vở.
A Bích nói:
- Mộ Dung lão gia đã qua đời rồi, một là khẩu thuyết vô bằng, hai là bản kiếm phổ đại sư phụ mang theo, chúng tôi ở đây xem có ai hiểu được đâu, dẫu như ngày trước có ước định như thế thì cũng không còn có thể thi hành được.
A Châu nói:
- Kiếm phổ gì thế? ở đâu vậy? Đưa ra cho ta xem giả hay thực nào?
Cưu Ma Trí chỉ vào Đoàn Dự:
- Đoàn công tử đây trong bụng nhớ đầy đủ kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, ta đem y đến đây cũng có khác gì mang kiếm phổ đến.
A Bích mỉm cười:
- Tôi lại tưởng có kiếm phổ thật, thì ra đại sư phụ nói đùa.
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu tăng lẽ nào lại dám nói đùa? Nguyên bản kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm đã bị Khô Vinh đại sư ở chùa Thiên Long nước Đại Lý hủy đi mất rồi, cũng may Đoàn công tử nhớ được hết.
A Bích nói:
- Đoàn công tử nhớ được là chuyện của Đoàn công tử, nếu có được vào Hoàn Thi Thủy Các coi sách thì cũng chỉ mời Đoàn công tử thôi chứ có liên quan gì đến đại sư phụ đâu?
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu tăng muốn hoàn thành ước nguyện năm xưa nên sẽ đem Đoàn công tử tới trước mộ của Mộ Dung tiên sinh thiêu sống.
Lời của y nói ra mọi người ai nấy kinh hãi nhưng thấy y thần sắc trấn tĩnh xem ra nói thực chứ không phải thuận miệng nói đùa khiến càng ghê rợn hơn. A Bích nói:
- Đại sư phụ có nói đùa không đấy? Người đang sống hẳn hòi ai lại để ông đem ra thiêu sống?
Cưu Ma Trí thản nhiên nói:
- Tiểu tăng muốn đốt y thì y làm sao kháng cự được.
A Bích mỉm cười:
- Đại sư phụ bảo là Đoàn công tử nhớ được toàn bộ kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, cũng chỉ là nói suông thôi. Nếu như Lục Mạch Thần Kiếm là một công phu lợi hại, quả như Đoàn công tử biết sử dụng kiếm pháp đó thì lẽ đâu lại chịu để cho ông khuất phục?
Cưu Ma Trí gật gù:
- Cô nương biết một mà không biết hai. Đoàn công tử bị ta điểm huyệt rồi, không thể nào sử dụng nội kình được.
A Châu liên tiếp lắc đầu nói:
- Ta nhất định không thể nào tin được. Ngươi giải huyệt cho Đoàn công tử để y thi triển Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem. Ta xem ra mười phần là ngươi nói láo rồi.
Cưu Ma Trí gật đầu nói:
- Được lắm, thế thì cứ thử xem.
Đoàn Dự ca ngợi A Bích xinh đẹp, mê mẩn tiếng hát tiếng đàn của nàng khiến cho nàng thật đẹp ý; chàng tuy biết được A Châu cải trang vậy mà vẫn rập đầu lạy ba cái khiến cho nàng cũng vui lòng, bây giờ hai cô thị tì nghe nói Đoàn Dự bị điểm huyệt nên toan lừa cho Cưu Ma Trí giải huyệt cho chàng. Ngờ đâu vừa nói ra là Cưu Ma Trí bằng lòng ngay.
Chỉ thấy y giơ tay vỗ nhẹ vào lưng, ngực và đùi Đoàn Dự mấy cái. Đoàn Dự được y vỗ mấy cái rồi, lập tức các huyệt đạo bị đóng liền thông ngay, chỉ hơi vận khí nội tức liền chuyển động bình thường. Chàng theo phương pháp vận khí của Trung Xung kiếm pháp đưa chân khí vào huyệt Trung Xung nơi ngón tay giữa tay phải liền thấy ngón tay nóng lên, biết rằng chỉ cần búng tay kiếm khí liền bắn ra ngay.
Cưu Ma Trí nói:
- Đoàn công tử, Mộ Dung lão phu nhân không tin công tử đã luyện được Lục Mạch Thần Kiếm, xin công tử ra tay thử xem. Làm như ta đây chặt đứt một cành hoa quế xem nào.
Y vừa nói vừa chém xéo ra, bàn tay súc tích chân lực, sử dụng một chiêu Hỏa Diễm Đao nghe cách một tiếng nhỏ một càng hoa quế trong sân không gió mà gãy ngay xuống đất chẳng khác gì dùng dao chặt ngang.
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng thất thanh kêu lên một tiếng, hai người tuy biết gã phiên tăng này võ công hết sức quái dị nhưng vẫn chỉ nghĩ là một loại tà thuật của bàng môn tả đạo, bây giờ nhìn thấy y dùng chưởng lực chặt đứt cành cây mới hay nội lực y thâm hậu quả là ít thấy trên đời.
Đoàn Dự lắc đầu:
- Ta có biết võ công gì đâu, lại càng chẳng biết Thất Mạch Thần Kiếm, Bát Mạch Thần Đao gì cả. Cái cây hoa đẹp như thế của người ta, vì cớ gì ngươi lại chặt gãy?
Cưu Ma Trí nói:
- Đoàn công tử chẳng nên quá khiêm nhường, trong các cao thủ họ Đoàn nước Đại Lý thì công tử võ công số một. Trên đời này ngoài Mộ Dung công tử và tại hạ ra, thắng được công tử e rằng ít có ai khác. Phủ Cô Tô Mộ Dung là kho sách võ công trong thiên hạ, công tử ra tay thử vài chiêu nhờ lão thái thái chỉ điểm thì quả là một chuyện hết sức tốt đẹp.
Đoàn Dự đáp:
- Đại hòa thượng trên đường đi đối với ta cực kỳ coi thường, xách lên vứt xuống, lếch thếch kéo đến Giang Nam. Ta vốn dĩ chẳng thèm nói với ngươi thêm một câu nào nữa nhưng đến đất Cô Tô thấy cảnh vật xinh tươi, dân tình nhã nhặn, gặp mấy cô nương đẹp như tiên trên trần nên bụng dạ thù hằn không còn nữa. Ta và ngươi từ nay một đao cắt đứt, đường ai nấy đi.
A Châu và A Bích nghe chàng nói năng như gã đồ gàn, không khỏi tức cười nhưng trong ngôn ngữ chàng ca tụng mình hết lời nên trong bụng không khỏi thầm sung sướng. Cưu Ma Trí đáp:
- Nếu công tử không chịu biểu diễn Lục Mạch Thần Kiếm thì có khác gì bảo ta ăn nói đặt điều hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Nhà ngươi vốn dĩ nói năng vô căn cứ. Ngươi bảo có hẹn với Mộ Dung tiên sinh sao không đến Đoàn Dự lấy kiếm kinh sớm đi? Đợi đến khi Mộ Dung tiên sinh quá vãng rồi, tử vô đối chứng lúc đó mới đến phủ Mộ Dung ăn nói huyên thuyên. Ta xem chừng ngươi hâm mộ Cô Tô Mộ Dung võ công cao cường nên đặt ra câu chuyện bá láp này để đánh lừa lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các, lén coi quyền kinh kiếm phổ của nhà Mộ Dung, học lấy thuật “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”. Ngươi tưởng người ta danh tiếng vang dội trong võ lâm như thế mà không biết được cái trò trẻ con của ngươi hay sao? Nếu chỉ đem cái mồm trơn như mỡ đến nói vài câu là ăn trộm được võ công bí quyết của nhà Mộ Dung thì trên đời này vô khối những tên bịp bợm, đứa nào chẳng đến đây lẻo mép, nói lếu nói láo?
Cưu Ma Trí lắc đầu nói:
- Đoàn công tử đoán sai rồi. Tiểu tăng tuy đính ước đã lâu với Mộ Dung tiên sinh nhưng vì phải bế quan tu luyện công phu Hỏa Diễm Đao, chín năm nay chưa ra khỏi cửa nên không thể tới Đại Lý sớm hơn được. Nếu Hỏa Diễm Đao tiểu tăng luyện chưa thành thì lần này đâu có thể ra khỏi chùa Thiên Long một cách an toàn được.
Đoàn Dự đáp:
- Đại hòa thượng ơi, ông tiếng tăm đã có rồi, quyền thế chức tước cũng có rồi, võ công lại cao cường như thế, sao không yên thân ở nước Thổ Phồn làm Hộ Quốc Pháp Vương có phải hay không? Việc gì còn phải đến tận Giang Nam bịp người khác? Ta khuyên ông nên sớm quay về là hơn.
Cưu Ma Trí đáp:
- Nếu công tử không chịu thi triển Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.
Đoàn Dự nói:
- Ngươi vốn dĩ đã vô lễ rồi, có còn gì nữa đâu mà nói nữa. Cùng lắm ngươi một đao giết ta thôi chứ còn gì hơn được.
Cưu Ma Trí nói:
- Được lắm, coi đao đây.
Y dựng bàn tay trái lên, một luồng kình phong liền ùa tới mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự vốn đã có chủ định trước, võ công mình kém y xa, có đấu với y hay không thì cũng thế, y chỉ muốn chứng minh cho người khác là mình biết Lục Mạch Thần Kiếm nên quyết không để cho y toại ý. Thành ra khi Cưu Ma Trí dùng nội kình biến thành mũi đao đâm tới, Đoàn Dự liền ưỡn ngực ra, không tránh né, không đỡ gạt. Cưu Ma Trí kinh hãi, kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm chưa vào tay y thì bộ sách sống này không thể giết được, tay liền nghiêng qua, một luồng gió lạnh vụt qua khiến đầu tóc Đoàn Dự bị cắt một mảng lớn.
Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi sợ toát mồ hôi đã đành mà A Châu vùng A Bích hai cô cũng mặt tái nhợt. Cưu Ma Trí lầm lì hỏi lại:
- Đoàn công tử thà chết chứ không ra tay hay sao?
Đoàn Dự vốn đã không coi chết sống vào đâu, cất tiếng cười ha hả nói:
- Tham, sân, ái, dục, si, đại hòa thượng xem chừng có đủ cả, vậy mà dám khoe mình là cao tăng cửa Phật, quả là chỉ có cái tiếng hão.
Cưu Ma Trí đột nhiên vung tay chém xéo qua A Bích, miệng nói:
- Ta không thèm nói làm gì, để giết một con tiểu a đầu trong phủ Mộ Dung lập uy trước đã.
Chiêu đó y đánh ra thật đột ngột, A Bích kinh hãi vội nghiêng người tránh qua, nghe chát một tiếng, chiếc ghế dựa sau lưng cô ta bị chém đứt đôi. Bàn tay phải Cưu Ma Trí liền tiếp theo một đao nữa khiến A Bích phải lăn tròn dưới đất, thân pháp tuy nhanh thật nhưng thật là luống cuống. Cưu Ma Trí hầm hè quát lên một tiếng đánh luôn chiêu thứ ba ra.
A Bích sợ đến mặt tái mét, không biết phải đối phó với những chiêu số vô hình vô ảnh này thế nào. A Châu không còn kịp suy nghĩ gì khác liều vung gậy điểm vào sau lưng Cưu Ma Trí. Nàng đứng nói chuyện khi đi thì lụm cụm quả đúng là một bà lão bảy, tám mươi tuổi nhưng nay lúc gấp rút thân pháp thật là nhẹ nhàng nhanh nhẹn.
Cưu Ma Trí lập tức nhìn ra chỗ giả trá, cười nói:
- Trên đời này làm gì có bà già nào mới mười bảy mười tám, ngươi định đánh lừa bản hòa thượng tới bao giờ đây?
Y quay lại đánh một chưởng nghe cách một tiếng, chấn gãy cây gập nàng cầm trong tay thành ba khúc, kế đó lại vung tay đánh vào A Bích. A Bích kinh hoàng vội chộp chiếc bàn, đưa mặt bàn ra đỡ, bốp bốp hai tiếng, chiếc bàn bằng gỗ tử đàn lập tức nát vụn, trong tay nàng chỉ còn hai chiếc chân bàn.
Đoàn Dự thấy A Bích lưng dựa vào tường, không còn đường nào lui nữa, Cưu Ma Trí lại vung tay đánh thêm một chưởng, chàng không còn kịp suy nghĩ chỉ thấy cứu người là quan trọng, quên rằng mình không phải là địch thủ của gã phiên tăng, liền búng ngón tay giữa, nội kình theo huyệt Trung Xung bắn vọt ra, soẹt soẹt mấy tiếng chính là Trung Xung kiếm pháp.
Cưu Ma Trí đâu phải thực bụng muốn giết A Bích, chỉ cốt ép cho Đoàn Dự phải ra tay, nếu không chiêu số thần diệu của Hỏa Diễm Đao chém ra, A Bích làm sao có thể tránh được? Y thấy Đoàn Dự cuối cùng phải ra tay, lập tức thu chưởng chém vào A Châu, gió vút qua, A Châu còn đang lảo đảo, áo trên đầu vai đã bị nội kình xé rách, hét lên một tiếng kinh hoàng. Thiếu Trạch kiếm từ tay trái Đoàn Dự liền đâm ra, chặn ngay Hỏa Diễm Đao của y lại.
Chỉ trong khoảnh khắc, A Châu, A Bích hai người cùng thoát hiểm, song đao của Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự chặn lại. Cưu Ma Trí giở trò chỉ cốt cho mọi người thấy Đoàn Dự biết Lục Mạch Thần Kiếm thật, cố ý để nội kình hai người chạm vào nhau, nghe kêu bụp bụp. Đoàn Dự nhờ có công lực của mấy cao thủ trong người, lúc đó đúng ra còn mạnh hơn cả Cưu Ma Trí, có điều không biết chút võ công nào, tuy ở chùa Thiên Long nhớ hết các lộ kiếm pháp nhưng hoàn toàn không biết cách sử dụng.
Cưu Ma Trí dẫn luồng nội lực hồn hậu của chàng chạy đông chạy tây khiến cửa sổ và trên tường bị chàng đâm thủng lỗ chỗ khắp nơi, miệng liên tiếp hò hét:
- Lục Mạch Thần Kiếm quả thực lợi hại, thảo nào năm xưa Mộ Dung tiên sinh thầm ngưỡng mộ.
Thôi Bách Tuyền hết sức kinh ngạc: “Ta vẫn tưởng Đoàn công tử chẳng biết chút võ công nào biết đâu được rằng thần công của y tinh diệu đến thế. Họ Đoàn Đại Lý quả nhiên danh bất hư truyền. Cũng may ta ở trong phủ Trấn Nam Vương không làm chuyện gì sằng bậy, nếu không thì cái mạng già này đâu còn được đến hôm nay?”. Y càng nghĩ càng rùng mình, trên trán sau lưng toát mồ hôi lạnh.
Cưu Ma Trí đấu với Đoàn Dự một hồi, mặc dầu chiêu nào y cũng có thể giết chàng được nhưng chỉ cố ý đùa rỡn, ngờ đâu càng lâu thì càng không dám coi thường, xem ra chàng nội kình cực kỳ hồn hậu không kém gì mình, nhưng không hiểu vì sao lại sử dụng không đâu vào đâu, chẳng khác gì đứa trẻ lên ba trong tay có hàng vạn quan tiền mà không biết sử dụng.
Cưu Ma Trí sách giải thêm mấy chiêu nữa bỗng dưng tâm động: “Nếu như tương lai y phúc chí tâm linh, một buổi nào đó quán thông mọi việc, lãnh ngộ được võ công yếu quyết, với nội công đó và kiếm pháp đó, e rằng sẽ là một kình địch cực kỳ lợi hại”.
Đoàn Dự cũng biết sống chết đều nằm trong tay Cưu Ma Trí, kêu lên:
- A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ mau mau đào tẩu, để lâu e không kịp.
A Châu đáp:
- Đoàn công tử, sao công tử lại cứu chúng tôi?
Đoàn Dự đáp:
- Gã hòa thượng này ỷ mình võ công cao cường, hoành hành bá đạo hiếp đáp người khác. Tiếc rằng tôi không biết võ công, khó mà đối địch được với y, các cô hãy chạy cho mau.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Không kịp nữa rồi.
Y tiến lên một bước ngón tay trái đâm ra, điểm vào huyệt đạo Đoàn Dự, Đoàn Dự kêu lên: “ối chà!” một tiếng toan né tránh nhưng làm sao được? Trên người chàng ba nơi huyệt đạo đã bị y điểm trúng, hai đùi tê dại, ngã lăn ra mồm vẫn kêu:
- A Châu, A Bích, chạy cho mau! Chạy cho mau!
Cưu Ma Trí cười đáp:
- Chết đầu nước rồi, mạng mình chưa xong lại còn thương hương tiếc ngọc.
Nói xong y quay lại ghế ngồi, nói với A Châu:
- Cô này đừng có giở trò ma mãnh nữa, việc trong phủ do ai quyết định? Đoàn công tử trong bụng thuộc lòng kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm, có điều y không biết võ công nên không biết sử dụng. Sáng mai ta đem y đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh phàn hóa, Mộ Dung tiên sinh ở dưới đất biết được sẽ rõ người bạn cũ không lỗi lời hẹn ước năm xưa.
A Châu biết rằng trong những người ở Cầm Vận tiểu trúc hôm nay, không ai có thể địch lại gã hòa thượng này, nàng nhíu mày cười nói:
- Tôi được! Đại hòa thượng nói thế chúng tôi tin là thế. Mộ phần lão gia ở cách đây một ngày đường thủy, hôm nay trời đã tối rồi, sáng sớm mai chị em tôi sẽ đưa đại hòa thượng và Đoàn công tử đến tảo mộ. Các vị nghi ngơi chốc lát để chờ chúng tôi làm cơm chiều.
Nàng nói xong cầm tay A Bích lui vào nội đường.
Độ nửa giờ sau, một tên nam bộc đi ra nói:
- A Bích cô nương mời bốn vị đến Thính Vũ Cư dùng cơm tối.
Cưu Ma Trí đáp:
- Đa tạ!
Y đưa tay nắm Đoàn Dự, dẫn đi theo tên đầy tớ. Đường đi trải đá trứng ngỗng ngoằn ngoèo độ mấy chục trượng vòng qua mấy tòa giả sơn, mấy khu vườn đến bên bờ nước tới một con thuyền nhỏ buộc dưới gốc liễu. Gã đầy tớ chỉ vào một tòa nhà gỗ nhỏ trên mặt nước, bốn bề đều có cửa sổ nói:
- ở bên kia.
Cưu Ma Trí, Đoàn Dự, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi bốn người xuống thuyền để cho người đầy tớ chèo qua, chỉ giây lát đã tới. Đoàn Dự theo cầu thang đóng trên cây tùng trèo lên Thính Vũ Cư, thấy A Bích đã đứng sẵn chờ khách, toàn thân mặc áo dài màu xanh nhạt, bên cạnh là một nữ lang mặc áo lụa mỏng, xinh tươi mơn mởn tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhìn Đoàn Dự mủm mỉm cười, thần tình ra vẻ lanh lợi bướng bỉnh. Mặt A Bích bầu bĩnh, thanh nhã tú lệ còn người con gái kia mặt trái soan, đôi mắt linh động dễ làm người ta quyến luyến.
Đoàn Dự đi đến gần liền ngửi thấy mùi hương thoang thoảng bèn cười nói:
- A Châu tỉ tỉ, nàng là một tiểu mỹ nhân như thế này sao cải trang thành một bà lão lại giống đến thế?
Người con gái đó chính là A Châu, nàng lườm Đoàn Dự một cái, cười nói:
- Công tử khấu đầu lạy tôi ba cái, trong bụng tức lắm, có phải không nào?
Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói:
- Lạy ba cái đó là đúng quá rồi, chỉ có điều tôi đoán sai bét thôi.
A Châu hỏi lại:
- Sai bét là sao?
Đoàn Dự đáp:
- Thoạt tiên tôi tưởng tỉ tỉ cũng na ná như A Bích tỉ tỉ, là một người đẹp hiếm có trong thiên hạ không khác A Bích tỉ tỉ bao nhiêu, ngờ đâu khi thấy mặt rồi, mới hay ... mới hay ...
A Châu cướp lời:
- Thì ra kém xa A Bích, có đúng thế không?
A Bích cũng chen vào:
- Thì mới tá hỏa tam tinh vì đẹp gấp mười tôi, có đúng thế không?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Cả hai đều trật lất. Tôi bấy giờ mới hay trời xanh kia quả thật tài ba, những tưởng đã đem hết tâm tư, bao nhiêu tú khí Giang Nam đã dùng hết sạch mới nặn ra được một người đẹp như A Bích tỉ tỉ. Vậy mà chao ôi, không ngờ hóa công còn tạo được một người như A Châu tỉ tỉ nữa. Hai người tướng mạo khác hẳn nhau, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười đến nỗi tôi muốn mở mồm khen mấy câu mà miệng ấp úng không sao nói được.
A Châu cười khúc khích:
- Gớm, mồm anh trơn như bôi mỡ khen đến thế thì thôi, vậy mà còn bảo là ấp úng nói chẳng thành lời.
A Bích mỉm cười quay sang nói với Cưu Ma Trí và hai người Thôi, Quá:
- Bốn vị giá lâm tệ xứ, chúng tôi đơn bạc chẳng có gì, chỉ mời được một chén rượu nhạt, ăn mấy món Giang Nam tươi có sẵn trong nhà thôi.
Nói rồi mời bốn người vào bàn còn nàng và A Châu ngồi bên dưới tiếp khách. Đoàn Dự thấy Thính Vũ Cư bốn mặt đều là nước, từ cửa sổ nhìn ra, chung quanh mặt hồ khói sóng xa tít tới tận chân trời, quay đầu nhìn lại thấy chén bát đồ đựng trên bàn đều là đồ sứ tinh xảo, trong bụng tấm tắc khen thầm.
Một lát sau nam bộc đem lên mấy món điểm tâm, riêng Cưu Ma Trí có bốn đĩa đồ chay, kế đó mấy món nóng sốt như lăng xào tôm, lá sen nấu măng, thịt quay nấu anh đào, thịt gà hấp trà Long Tỉnh ... món nào cũng thật là đặc biệt. Các món cá tôm đều nhồi cánh hoa, trái cây càng thêm màu mè nhưng vẫn đượm mùi hương thiên nhiên. Món nào Đoàn Dự cũng gắp thử vài đũa, món nào cũng tươi ngon hợp khẩu, khen luôn miệng:
- Linh khí núi sông thế này thì phải có nhân tài thế ấy, không những thông minh lanh lợi mà còn thanh nhã khôn cùng.
A Châu đáp:
- Thế công tử thử đoán xem những món này do tiểu nữ làm hay do A Bích làm?
Đoàn Dự đáp:
- Món thịt quay anh đào, vịt ướp hoa mai, bánh dẻo bảy màu hẳn là do tỉ tỉ làm. Còn món canh măng nấu ngó sen, cá viên phỉ thúy thanh tân mượt mà kia chắc phải do tay A Bích tỉ tỉ?
A Châu vỗ tay cười nói:
- Công tử đoán giỏi thật, A Bích ngươi xem mình phải thưởng cái gì đây cho phải?
A Bích mỉm cười:
- Đoàn công tử sai bảo gì chúng mình sẽ hết sức mà làm, chứ bọn kẻ ăn người ở như mình có gì để mà thưởng?
A Châu đáp:
- Chao ôi, ngươi quả là lanh mồm lanh miệng nói khéo cho vừa lòng người, thảo nào ai cũng bảo ngươi tốt còn ta thì xấu.
Đoàn Dự cười:
- Một đằng ôn nhu tư văn, một đằng hoạt bát lanh lợi cả hai mỗi người một vẻ. A Bích tỉ tỉ, tôi mới rồi nghe cô dùng nhuyễn tiên đánh đàn, trong lòng lâng lâng, thật là thoải mái. Nay muốn cô dùng nhạc khí thật diễn tấu một khúc, dẫu ngày mai có bị vị hòa thượng này trước mộ đốt cháy thành tro thì cũng không uổng một đời.
A Bích trịnh trọng đứng lên nói:
- Nếu như công tử chẳng hiềm khó nghe, tiểu nữ xin phô chút tài mọn để đón chào quí khách.
Nói xong nàng đi vào đằng sau bức bình phong mang ra một chiếc dao cầm. A Bích ngồi ngay ngắm trên chiếc cẩm đôn, để cây đàn lên chiếc bàn nhỏ trước mặt, giơ tay vẫy Đoàn Dự cười nói:
- Đoàn công tử thử lại đây xem cây đàn của tôi là loại đàn gì?
Đoàn Dự đi đến trước mặt nàng, thấy chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường thì ngắn hơn chừng một thước nhưng lại có đến chín dây, mỗi dây một màu, liền ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Cửu huyền cầm này đây là lần đầu nhìn thấy.
A Châu đi đến giơ ngón tay bật vào một sợi dây, nghe tưng một tiếng thật to, thì ra dây này làm bằng kim loại. Đoàn Dự ấp úng:
- Tỉ tỉ, đàn này ...
Mới nói đến đó, bỗng dưng thấy dưới chân hụt hẫng, nhịn không nổi kêu “ối” một tiếng, thân hình rơi tọt ngay xuống, rớt vào vật gì mềm nhũn như bông, đồng thời tai nghe tiếng kêu “ối chết!”, “Hỏng rồi!” liên tiếp, tiếng rơi xuống nước lõm bõm, rồi thấy thân hình dao động, bị ai đó kéo ra ngoài. Biến cố đó thật là kỳ quái, lại thật đột ngột, chàng gượng ngồi lên thấy mình ở trong một con thuyền nhỏ, A Châu, A Bích ngồi hai đầu, tay cầm mái giầm đang hết sức chèo.
Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma Trí, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi ba người đang chới với cố ngoi lên khỏi mặt nước. A Châu, A Bích chỉ chèo mấy cái chiếc thuyền đã cách Thính Vũ Cư mấy trượng. Bỗng từ dưới nước một người ướt sũng vọt lên, chính là Cưu Ma Trí. Y vừa lên được Thính Vũ Cư, lập tức giơ tay chặt đứt một cây cột gỗ, nghe vù một tiếng đã cầm ném thẳng vào A Bích ngồi tại đằng sau con thuyền. A Bích kêu lên:
- Đoàn công tử, hụp xuống mau.
Đoàn Dự cùng hai cô gái cùng nằm mọp xuống, nửa cây cột gỗ lao vụt qua đầu, gió mạnh đến nỗi nghe ngâm ngẩm đau rát cả cổ. A Châu khom người, chèo mạnh mấy cái chiếc thuyền lại vọt lên thêm cả trượng. Bỗng dưng nghe tiếng ầm ầm, bùng bình vang dội, con thuyển chao đảo nhấp nhô, nước tạt vào làm cho cả ba người đều ướt sũng. Đoàn Dự quay đầu lại thấy Cưu Ma Trí đã đánh vỡ một bên vách Thính Vũ Cư, tay cầm đôn đá, đỉnh hương những vật nặng ném ra. A Bích nhắm chừng thế tới của những vật đó, lách thuyền tránh kịp, còn A Châu vẫn cắm cúi chèo tới trước, mỗi lần vung tay, chiếc thuyền con lại vọt xa thêm mấy thước, tuy Cưu Ma Trí vẫn liên tiếp ném theo nhưng mỗi lúc một xa, xem ra y kình lực mạnh mẽ thật nhưng không thể nào tới được.
Hai cô gái liên tiếp chèo chống, Đoàn Dự quay đầu lại nhìn quanh, thấy Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cũng đã bám được thang trèo trở lại lên Thính Vũ Cư. Chàng trong bụng mừng thầm nhưng lại kêu ngay: “Chao ôi!” một tiếng, thấy Cưu Ma Trí vừa nhảy xuống một chiếc thuyền khác. A Châu kêu lên:
- ác hòa thượng đuổi theo kìa!
Nàng gắng sức chèo luôn mấy cái, quay đầu nhìn bỗng dưng bật cười ha hả khiến Đoàn Dự cũng quay lại theo, thấy chiếc thuyền của Cưu Ma Trí chạy vòng vòng trên mặt nước. Thì ra tuy y võ công cao cường nhưng lại không biết lái thuyền. Ba người thở phào một cái nhưng chẳng bao lâu thấy Cưu Ma Trí đã biết cách điều khiển cố gắng chèo thuyền đuổi theo. A Bích thở dài:
- Nhà sư này quả là thông minh, việc gì cũng học một lần là làm được ngay.
A Châu nói:
- Mình phải để y không mò ra được lối đi.
Nàng chèo mấy cái đưa con thuyền vào trong đám lá lăng um tùm. Trong Thái Hồ có hàng ngàn hàng vạn lối mòn, chiếc thuyền nhỏ chỉ cần vòng qua mấy khúc là đã chui tọt vào trong một con lạch nhỏ, Cưu Ma Trí không thể nào đuổi theo được.
Đoàn Dự nói:
- Tiếc rằng huyệt đạo trên thân thể tôi chưa được giải thành thử không thể chèo thuyền giúp hai vị tỉ tỉ được.
A Bích an ủi:
- Đoàn công tử chớ có lo, nhà sư kia không đuổi kịp đâu.
Đoàn Dự nói:
- Cơ quan trong Thính Vũ Cư kể cũng hay thật. Có ai ngờ được chiếc thuyền lại nằm ngay dưới cái ghế tỉ tỉ đánh đàn, phải không nhỉ?
A Bích mỉm cười:
- Đúng vậy, khi tôi mời công tử lại coi đàn, A Châu tỉ tỉ búng vào sợi dây một cái làm hiệu, người ở bên ngoài nghe thấy, mở cửa hầm ra, tất cả đều rơi xuống hết.
Ba người cùng cười ha hả, A Bích vội bịt miệng lại nói:
- Đừng để nhà sư đó nghe thấy được.
Bỗng nghe từ xa văng vẳng có tiếng truyền tới:
- A Châu cô nương, A Bích cô nương, mau mau chèo thuyền quay lại. Mau quay lại, hòa thượng này là bạn của công tử nhà cô, không làm khó các cô đâu.
Chính là tiếng của Cưu Ma Trí, mấy câu đó dịu dàng thân thiết khiến người ta không còn tự chủ được muốn làm theo. A Châu bần thần nói:
- Đại hòa thượng gọi chúng ta về, nói là không làm hại chúng ta đâu.
Nói rồi ngừng lại không chèo nữa, dường như đã xiêu lòng. A Bích cũng nói:
- Thế thì mình quay về thôi.
Đoàn Dự nội công vô cùng hùng mạnh nên không bị thanh âm của Cưu Ma Trí dẫn dụ chút nào, vội nói:
- Y đánh lừa các cô đó, lời nói y làm sao tin được?
Lại nghe giọng ôn hòa trìu mến của Cưu Ma Trí chậm rãi lọt vào tai:
- Hai vị tiểu cô nương ơi, công tử của các cô về rồi, muốn gặp các cô, mau mau chèo thuyền quay về, mau lên, quay về ngay đi.
A Châu đáp:
- Vâng!
Nàng cầm mái chèo lên lái cho thuyền quay đầu lại. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mộ Dung công tử nếu trở về thật thì đã tự mình lên tiếng gọi A Châu, A Bích chứ lẽ đâu lại phải nhờ y gọi giùm? Cái này là tà thuật thu nhiếp tâm hồn người ta đây”. Chàng chợt nghĩ ra, giơ tay ra ngoài thuyền, hái mấy lá lăng trên mặt nước, vo lại thành một cục nhét vào tai A Bích, sau đó tiếp tục bịt vào tai A Châu.
A Châu vừa định thần, thất thanh kêu lên:
- Chao ôi! Nguy hiểm thực!
A Bích cũng kinh hoàng nói:
- Gã hòa thượng đó biết sử dụng phép câu hồn, mình suýt nữa thì bị y đánh lừa.
A Châu quay đầu thuyền lại hết sức chèo tới kêu lên:
- A Bích, chèo mau lên, mau lên!
Hai người ra sức chèo chiếc thuyền con đi sâu vào bãi lăng. Một hồi sau, tiếng gọi của Cưu Ma Trí nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa. Đoàn Dự ra hiệu cho hai cô gái bỏ lá lăng đang bịt lỗ tai ra. A Bích vỗ ngực, thở hắt ra nói:
- Sợ quá mất thôi, A Châu tỉ tỉ, mình phải làm sao bây giờ?
A Châu đáp:
- Mình cứ ở trên hồ này đi một vòng thật lớn để y không tìm thấy được. Khi nào đói thì mình hái lăng, đào củ sen mà ăn, nhà sư đó có đuổi theo mười bữa nửa tháng cũng không sao cả.
A Bích mỉm cười nói:
- Phương cách đó kể cũng hay, không biết Đoàn công tử có buồn không?
Đoàn Dự vỗ tay cười đáp:
- Phong cảnh trên hồ coi cũng chưa đủ, huống chi có hai cô làm bạn, ngao du mười ngày, thật sung sướng không khác gì thần tiên.
A Bích nhếch mép cười dẩu môi:
- Nếu mình đi về hướng đông nam thì dưới đó sông lạch thật nhiều, trừ dân chài ở đây, người khác đâu có biết đường nào mà mò. Nếu như mình vào Bách Khúc Hồ, gã hòa thượng kia không thể nào đuổi kịp được.
Hai cô gái thư thả chèo thuyền, Đoàn Dự nằm dưới sàn nhìn lên những vì sao lấp lánh trên bầu trời cao, ngoài tiếng mái chèo khuấy nước và tiếng là lăng chạm vào thành thuyền kêu loạt soạt, bốn bề tĩnh mịch không một tiếng động, gió mát trên mặt hồ, thêm mùi hoa thơm dìu dịu, nghĩ thầm: “Nếu cứ được thế này mãi thì thật sướng biết bao”. Chàng lại nghĩ: “A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ tốt bụng như thế, xem ra Mộ Dung công tử cũng không phải là hạng người cùng hung cực ác, Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm và sư huynh của Hoắc tiên sinh không biết đã bị ai giết? Ôi, trong nhà ta tì nữ phục thị nhiều biết bao nhưng có ai sánh được với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ?”.
Một lúc lâu sau, chàng đang thiu thiu toan nhắm mắt ngủ bỗng nghe A Bích cười khúc khích nói:
- A Châu tỉ tỉ, chị lại đây.
A Châu cũng hạ giọng hỏi nhỏ:
- Cái gì thế?
A Bích giục:
- Chị cứ lại đây rồi em nói cho nghe.
A Châu bỏ chiếc giầm, đi đến cuối thuyền ngồi xuống. A Bích ôm lấy vai nàng, ghé tai mỉm cười nói nhỏ:
- Hai chị em mình làm cách nào cho khỏi mắc cỡ đây.
A Châu cười hỏi:
- Chuyện gì vậy?
A Bích nói:
- Nói nhỏ thôi. Đoàn công tử đã ngủ chưa?
A Châu đáp:
- Không biết nữa, ngươi sao không hỏi thử xem.
A Bích nói:
- Hỏi không được. A Châu tỉ tỉ, em ... em ... em muốn đi giải.
Hai người nói nhỏ như muỗi kêu nhưng Đoàn Dự nội công cực kỳ hùng hồn nên nghe rõ mồn một, nghe A Bích nói thế không dám động đậy, giả vờ ngáy nhè nhẹ để nàng khỏi thẹn. Chỉ nghe A Châu hạ giọng cười nói:
- Đoàn công tử ngủ rồi. Ngươi cứ việc đi cầu đi.
A Bích ngượng nghịu đáp:
- Em không dám đâu, lỡ đang đi nửa chừng Đoàn công tử tỉnh dậy thì biết làm thế nào?
A Châu nhịn không nổi cười rúc rích, vội vàng đưa tay bịt miệng nói nhỏ:
- Có gì mà ngượng? Ai chẳng phải đi ngoài, có gì lạ đâu.
A Bích cầm tay A Châu lắc lắc, năn nỉ:
- Chị ơi, nghĩ giùm em xem làm cách nào đây?
A Châu đáp:
- Để ta che cho ngươi đi cầu, nếu như Đoàn công tử tỉnh dậy cũng không nhìn thấy được.
A Bích nói:
- Thế nhưng có tiếng động, nghe rơi xuống nước, em ... em ...
A Châu cười đáp:
- Thế thì làm cách nào được bây giờ? Ngươi cứ đi cầu đi, Đoàn công tử không nghe thấy đâu.
A Bích nói:
- Không được đâu, có người ở bên cạnh, em đi không được.
A Châu đáp:
- Không đi được thì càng tốt.
A Bích bí quá dường như muốn khóc, chỉ rền rĩ:
- Làm răng bây chừ? Làm răng bây chừ?
A Châu lại cười khúc khích nói:
- Cũng tại ngươi hết, ngươi không nói ra, ta cũng quên khuấy đi, bây giờ ngươi nói tới nói lui, làm ta cũng mắc đi cầu nữa. Thôi đành tới phủ nhà mợ Vương chỉ cách chừng nửa con chín, mình chèo tới đó đi ngoài luôn cũng được.
A Bích nói:
- Mợ Vương không cho chúng mình héo lánh đến, bà ấy dữ như chằng, không chừng vừa gặp đã cho mỗi đứa mấy cái tát tai.
A Châu đáp:
- Có gì đâu mà sợ. Mợ Vương với lão thái thái đều hay ngầy nhưng bà lão nay mất rồi. Ta với ngươi bất quá chỉ là kẻ ăn người ở, mình có làm chi mô mà bạt tai mình? Mình len lén lên bờ, đi xong lại xuống thuyền về nhà, mợ ấy làm sao biết được?
A Bích đáp:
- Vậy cũng được.
Nàng hơi trầm ngâm bỗng nói:
- Hay mình kêu Đoàn công tử lên bờ đi ngoài luôn, nếu không ... nếu không anh ta tỉnh dậy cười mình thì thẹn chết.
A Châu cười khẩy nói:
- Sao ngươi chăm sóc anh chàng ta quá vậy? Không sợ công tử biết công tử ghen hay sao?
A Bích thở dài nói:
- Những chuyện nhỏ nhặt công tử đâu có để tâm đến làm chi. Mình chỉ là hai con tiểu a đầu, công tử có bao giờ nghĩ tới.
A Châu nói:
- Nhưng ta cứ nghĩ đến thì sao? A Bích muội tử, ngươi tối ngày sáng đêm nghĩ đến công tử, việc gì phải dấu.
A Bích thở hắt ra, không trả lời. A Châu vỗ nhẹ lên vai nàng, nói nhỏ:
- Ngươi vừa mắc đi ngoài lại vừa nhớ đến công tử, hai chuyện nẹo lại làm một, thật tức cười quá hỉ?
A Bích cũng cười khúc khích nói:
- Chị chỉ nói rỡn, chẳng đâu vào với đâu.
A Châu quay trở lại đầu thuyền cầm mái chèo bơi tiếp. Hai cô gái bơi một hồi thì trời bắt đầu hửng sáng. Đoàn Dự nội công thâm hậu, huyệt đạo không bị đóng lâu. Trước đây cứ độ vài giờ Cưu Ma Trí lại điểm thêm mấy cái cho nên đến lúc này chàng cảm thấy nội tức bắt đầu thông các huyệt bị điểm từ từ mở ra. Chàng vươn vai ngồi dậy nói:
- Ngủ được một giấc dài còn hai vị tỉ tỉ thật là mệt nhọc. Có một việc không tiện nói, xin hai vị đừng trách, ta ... ta muốn đi ngoài.
Chàng nghĩ thầm mình tự ý nói ra cho hai cô gái khỏi ngượng ngập. A Châu, A Bích hai người cùng bật cười. A Châu nói:
- Cũng chẳng còn xa, chúng ta sẽ đến một người nhà họ Vương, lúc đó công tử lên bờ đi giải.
Đoàn Dự đáp:
- Thế thì tiện quá.
A Châu bỗng dưng nghiêm mặt nói:
- Có điều Vương thái thái tính tình rất là khó chịu, không cho đàn ông lạ lên nhà. Công tử lên bờ rồi lập tức quay trở lại thuyền ngay, chúng tôi ở lại đây cho khỏi phiền phức.
Đoàn Dự đáp:
- Được rồi, tôi đã hiểu.


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) EmptySun Aug 15, 2010 10:19 am

Bá Khả
Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Bá Khả

Cauchy
Cauchy

https://chuyentoan0912.forumvi.com
Giới tính : Nam
Cung : Thiên Bình
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 3384
Tài khoản Tài khoản : 5289
Được cảm ơn : 43
Sinh nhật Sinh nhật : 30/09/1994
Tuổi Tuổi : 29
Đến từ Đến từ : Cái chỗ đó đó...
Châm ngôn Châm ngôn : Tôi đã được học rằng, biết cách tha thứ cho người khác thôi chưa đủ, phải biết cách tha thứ cho bản thân mình.
Level: 29 Kinh nghiệm: 3384%
Sinh mệnh: 3384/100
Pháp lực: 29/100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 
Từng khi khắc khoải mơ người ngọc,
Nay càng say đắm mộng giai nhân.
*
* *

Chiếc thuyền đi tới dưới một hàng liễu rủ, xa xa thấy một hàng cây hoa chiếu ánh nước rực rỡ như ráng mây ban chiều. Đoàn Dự thảng thốt kinh ngạc kêu lên một tiếng. A Châu nói:
- Cái gì thế?
Đoàn Dự chỉ vào bụi hoa nói:
- Hoa đó là sơn trà của Đại Lý chúng tôi, sao trong giữa Thái Hồ lại có trồng những loại Điền Trà đó nhỉ?
Sơn trà Vân Nam rất nổi danh thành thử người đời gọi là Điền Trà_. A Châu nói:
- Đúng thế! Gia trang này có tên là Mạn Đà Sơn Trang, trồng toàn những hoa sơn trà.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sơn trà còn có tên là Ngọc Mính, lại cũng còn gọi là hoa Mạn Đà La_. Trang viện này lấy tên là Mạn Đà, để xem có những loại danh chủng nào”.
A Châu khua mái chèo đưa con thuyền tới bên bờ nước dưới mấy cây sơn trà. Chàng đưa mắt nhìn qua chỉ thấy toàn hoa trà đỏ có, trắng có chen chúc nhau nhưng không thấy nhà cửa. Đoàn Dự sinh trưởng ở Đại Lý, hoa trà chàng coi đã quen không lấy gì làm lạ, nghĩ thầm: “Nơi đây sơn trà tuy nhiều nhưng xem chừng chẳng có giai phẩm, có lẽ những loại quí trồng bên trong trang viện”.
A Châu ghé thuyền vào sát bờ, mỉm cười nói:
- Đoàn công tử, mình cùng đi lên xong rồi xuống ngay.
Nàng nắm tay A Bích toan nhảy lên bờ, bỗng nghe từ trong rừng hoa có tiếng chân người, một người tiểu hoàn mặc áo xanh đi ra. Cô gái đó tay cầm một bó hoa, nhìn thấy A Châu, A Bích vội rảo bước đi tới, tươi cười nói:
- A Châu, A Bích các ngươi thật là lớn mật, dám len lén tới đây. Phu nhân bảo: “Lấy dao rạch ngang dọc mặt hai đứa a đầu cho chúng nó hết còn như hoa tựa ngọc nữa”.
A Châu cười đáp:
- U Thảo a tỉ nè, thái thái đi vắng phải không?
Đứa tiểu hoàn liếc nhìn Đoàn Dự rồi quay sang nhìn A Châu, A Bích cười nói:
- Phu nhân còn bảo: “Hai con nhãi đó còn đem cả người lạ đến Mạn Đà Sơn Trang, cũng chặt luôn hai chân người đó nữa”.
Nói chưa dứt câu thị đã cười khúc khích. A Bích vỗ ngực nói:
- U Thảo a tỉ đừng có dọa, mi nói vậy là nói thật hay nói chơi đó?
A Châu cũng cười:
- A Bích, ngươi đừng có sợ, nếu như thái thái có nhà, con nhãi ni đời nào dám hi ha hi hô như rứa bao giờ? U Thảo muội tử, hỏi thật chứ thái thái đi mô?
U Thảo cười nói:
- Nè, nhà ngươi mấy tuổi mà dám đòi làm chị ta? Sao ngươi đoán được là phu nhân không có nhà?
Nàng thở dài một tiếng nói tiếp:
- A Châu, A Bích hai cô em ơi, chẳng mấy khi các ngươi sang đây chơi, ta muốn hai đứa ở chơi vài ngày, có điều ...
Nói rồi nàng ta lắc đầu. A Bích nói:
- Bộ ta không muốn ở lại đây chơi với mi ít lâu hay sao? U Thảo a tỉ nè, chừng nào mi sang chơi bên tê, ta sẽ ở với ngươi ba ngày ba đêm, chịu không?
Hai cô gái vừa nói vừa nhảy lên bờ. A Bích ghé tai U Thảo nói mấy câu, U Thảo cười rộ lên, liếc nhìn Đoàn Dự. A Bích mặt bỗng đỏ bừng. U Thảo một tay nắm A Châu, một tay nắm A Bích nói:
- Thôi mình vào nhà chứ!
A Bích quay lại nói:
- Đoàn công tử, xin công tử ở nơi đây chờ một lát, chúng tôi vào rồi ra ngay.
Đoàn Dự đáp:
- Không sao.
Chàng nhìn theo ba cô a hoàn tay nắm tay thân mật đi vào trong rừng hoa. Đoàn Dự lên bờ, nhìn quanh quất không thấy ai liền đi ra sau một cây to tiểu tiện. Chàng xuống thuyền ngồi một hồi, thấy không có việc gì làm lại đứng lên nghĩ thầm: “Mình thử xem nơi đây hoa Mạn Đà La có những loại gì đặc biệt không?”. Thuận chân vừa đi vừa xem hoa, thấy trong rừng hoa ngoài sơn trà ra không còn một giống gì khác, ngay cả những loại thông thường như Khiên Ngưu_, Nguyệt Nguyệt Hồng_, Tường Vi_ cũng không thấy. Những loại sơn trà thì cũng không có gì đặc biệt, chỉ được cái nhiều mà thôi.
Chàng đi được độ mươi trượng mới thấy nhiều loại khá hơn, thỉnh thoảng cũng có một vài bụi xem ra không phải thứ xoàng, có điều vun trồng không đúng cách nên nghĩ bụng: “Trang viện này không đáng gọi là Mạn Đà Sơn Trang, bao nhiêu giai chủng trồng hỏng kiểu cả”. Đến đây chàng chợt nghĩ: “Thôi mình quay lại đi thôi, A Châu và A Bích trở về không thấy mình e rằng lại đâm lo”.
Chàng trở lại mới mấy bước bỗng thấy chột dạ kêu lên một tiếng:
- Chết rồi!
Thì ra chàng cứ lầm lũi trong rừng, chỉ nghĩ đến xem hoa trà mà quên để ý đến đường đi nước bước, bây giờ mới giật mình thấy đông một lối, tây một lối không biết đâu là đường về, quay trở lại được chỗ buộc thuyền không phải dễ đành nghĩ thầm: “Thôi mình cứ lần ra được bờ nước rồi tính sau”.
Thế nhưng chàng càng đi càng lạc lối, chung quanh toàn những cảnh chưa từng qua, trong bụng hoảng thầm, bỗng nghe phía bên trái văng vẳng tiếng người nói chuyện, đúng là giọng A Châu. Đoàn Dự mừng quá nghĩ thầm: “Thôi mình ở đây chờ nàng ta, đợi nói chuyện xong rồi cùng về một lượt”. Chàng nghe A Châu nói:
- Công tử vẫn khỏe khoắn, ăn uống cũng bình thường. Hai tháng qua, công tử chuyên luyện Đả Cẩu Bổng Pháp chắc là định so tài với nhân vật nào đó của của Cái Bang.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “A Châu đang nói về Mộ Dung công tử mình chẳng nên nghe lỏm chuyện của người khác, nên đi xa xa một chút là hơn. Thế nhưng cũng chẳng nên đi xa quá, nếu không họ nói chuyện xong mình cũng không biết được”.
Ngay khi đó, bỗng có tiếng một người con gái khác thở dài một tiếng. Đoàn Dự toàn thân rung động, tim đập thình thình nghĩ thầm: “Sao có ai chỉ thở dài mà nghe hay quá, trên đời này không lẽ có giọng nói nghe ngọt đến thế hay sao?”. Liền đó có tiếng người hỏi nhỏ:
- Lần ni anh ấy đi mô?
Đoàn Dự mới nghe tiếng thở dài đã thấy choáng váng, đến khi nghe được nàng ta nói một câu, trong người bao nhiêu máu nóng dường như dồn cả lên, trong lòng vừa đau đớn vừa xót xa, nảy ra một nổi khâm phục xen với đố kỵ: “Nàng ta rõ ràng là hỏi Mộ Dung công tử, đối với y thiết tha như thế, hẳn là mang nỗi khắc khoải trong lòng. Mộ Dung công tử ơi, nhà ngươi sao mà may mắn đến vậy?”.
Lại nghe A Châu đáp:
- Khi công tử ra khỏi nhà có nói là sẽ đi Lạc Dương để gặp những hảo thủ trong Cái Bang, có cả Đặng đại ca đi theo. Cô nương cứ an tâm.
Người con gái kia chậm rãi nói:
- Hai đại thần kỹ Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang là bí mật của họ không truyền ra ngoài. Tàng phổ của bổng pháp và chưởng pháp có trong Hoàn Thi Thủy Các bên nớ và Lang Hoàn Ngọc Động bên ni đều khiếm khuyết không đầy đủ. Phương pháp vận công hoàn toàn không có, công tử nhà mi làm sao mà luyện được?
A Châu đáp:
- Công tử bảo rằng: “Tâm pháp của Đả Cẩu Bổng Pháp kia cũng do con người sáng tạo nên, tại sao công tử lại không nghĩ ra được? Có được bổng pháp rồi, mình suy nghĩ để thêm tâm pháp vào hẳn là không phải khó”.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lời của Mộ Dung công tử quả là hữu lý, xem ra y không những đã thông minh lại còn có chí khí lắm”. Thế nhưng lại nghe người con gái kia thở dài một tiếng rồi nói:
- Dẫu có sáng tác được đi chăng nữa, cũng phải mười năm tám năm, ngày một ngày hai làm sao xong? Các ngươi có xem công tử luyện bổng pháp không? Có chỗ nào ngắc ngứ không thông chăng?
A Châu đáp:
- Lộ bổng pháp đó công tử múa rất nhanh, từ đầu đến cuối chẳng khác gì nước chảy mây trôi ...
Cô gái kia thất thanh kêu lên một tiếng nói:
- Hỏng rồi! Chàng ... chàng có thực múa nhanh như thế hay chăng?
A Châu đáp:
- Đúng vậy, có gì sai quấy chăng?
Người con gái kia nói:
- Dĩ nhiên là sai rồi. Tuy ta không biết tâm pháp của Đả Cẩu Bổng Pháp thực nhưng từ bổng pháp mà suy, có một số đường phải càng chậm càng hay, có đường thì phải khi nhanh khi chậm, trong chậm có nhanh, trong nhanh có chậm, không còn nghi ngờ gì nữa. Chàng ... chàng chỉ cố cho nhanh, đến khi động thủ với người của Cái Bang, e rằng ... e rằng ... các ngươi ... có cách gì báo tin cho công tử hay được chăng?
A Châu “Ồ” lên một tiếng nói:
- Công tử lúc ni đang ở mô, tiểu tì làm sao biết được, cũng không biết đã gặp các trưởng lão của Cái Bang chưa? Khi ra đi công tử có nói là, Cái Bang đổ oan cho chúng ta giết Mã phó bang chủ của họ, công tử đến Lạc Dương sẽ phân trần một phen, chưa hẳn đã phải động thủ với người của Cái Bang, nếu không chỉ có công tử với Đặng đại ca hai người làm sao địch được số đông. Chỉ ngại rằng nói năng chưa rõ ràng, hai bên ngôn ngữ bất hòa ...
A Bích hỏi lại:
- Cô nương, môn Đả Cẩu Bổng Pháp nếu đánh nhanh thì có thực là không ổn hay sao?
Người con gái kia nói:
- Dĩ nhiên là không ổn, còn nói năng gì nữa? Chàng ... chàng khi ra đi, sao không đến gặp ta một chuyến?
Nàng ta nói xong dậm chân nhè nhẹ, tỏ ra bực bội, lại có vẻ lo lắng, âm điệu quả là dịu dàng dễ nghe làm sao. Đoàn Dự nghe rồi thực là lạ lùng, nghĩ thầm: “Ta ở Đại Lý nghe người ta nói đến Cô Tô Mộ Dung là vừa sợ hãi vừa kính trọng. Thế nhưng nghe cô nương này nói, dường như võ nghệ của Mộ Dung công tử đều do nàng ta chỉ điểm. Không lẽ một cô gái trẻ tuổi như thế này, lại có bản lãnh ghê gớm đến thế hay sao?”.
Chàng còn đang nghĩ ngợi xuất thần, đầu đụng ngay vào một cành cây chắn ngang, buột miệng rú lên một tiếng, vội giơ tay bịt miệng nhưng không kịp nữa rồi. Cô gái kia hỏi:
- Ai rứa?
Đoàn Dự biết không còn trốn tránh được nữa, liền tằng hắng một tiếng, từ đằng sau bụi cây nói:
- Tại hạ Đoàn Dự, mải mê thưởng ngoạn kỳ hoa dị thảo trong quí trang vô tình lỡ bước tới đây, xin được thứ tội.
Cô gái kia hỏi nhỏ:
- A Châu, có phải vị tướng công cùng tới đây với các ngươi đó chăng?
A Châu vội đáp:
- Dạ phải đó, xin cô nương đừng để tâm, chúng tôi đi ngay bây giờ.
Thiếu nữ kia đáp:
- Khoan đã! Ta muốn viết một phong thư nói rõ cho chàng hay, dặn là nếu như bất đắc dĩ phải động thủ với người của Cái Bang thì nhất quyết chớ có dùng Đả Cẩu Bổng Pháp, chỉ nên dùng võ công của mình thôi. Không thể nào “Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” được đâu! Các người cầm thư đó làm cách nào chuyển tới cho chàng.
A Châu do dự đáp:
- Cái đó ... thái thái từng dặn là ...
Người con gái kia nói:
- Nói chi? Bọn mi chỉ nghe lời phu nhân, không nghe lời ta chăng?
Trong giọng nàng dường như có vẻ hơi giận. A Châu hấp tấp đáp:
- Chỉ cần cô nương không để cho thái thái hay, tì tử dĩ nhiên là tuân lệnh, huống chi đây là vì công tử.
Cô gái nói:
- Hai đứa mi theo ta đến thư phòng để lấy thư.
A Châu dường như hơi miễn cưỡng, một hồi sau mới đáp:
- Dạ!
Đoàn Dự từ khi nghe cô gái thở dài, càng về sau càng thấy mê man, nay nghe nàng ta định bỏ đi, một khi đi khỏi rồi từ rày về sau chắc gì còn gặp lại được, thật đúng là ôm hận cả đời nên không còn ngại ngừng bị người trách cứ về tội mạo phạm, nhất định nhìn thấy mặt nàng một lần, thu hết can đảm nói:
- A Bích tỉ tỉ, cô ở lại đây với tôi có được chăng?
Nói xong từ sau bụi cây bước ra. Cô gái kia nghe thấy chàng đi tới hoảng hốt kêu lên, lập tức xoay người quay lưng lại. Đoàn Dự vừa đi ra khỏi lùm cây thấy một nữ lang mặc áo dài bằng sa màu cánh sen, mặt quay về phía cây hoa, thân hình mảnh dẻ, tóc để dài xõa xuống lưng, chỉ buộc hờ bằng một dải lụa màu bạc. Đoàn Dự nhìn sau lưng nàng, thấy như mờ mờ có khói vương tỏa chung quanh, dường như không phải người trần nên vội vái một cái thật sâu nói:
- Tại hạ Đoàn Dự, bái kiến cô nương.
Cô gái nhè nhẹ dậm chân một một cái, phụng phịu nói:
- A Châu, A Bích, cũng chỉ tại hai đứa mi chộn rộn, ta đâu có muốn gặp đàn ông con trai ở bên ngoài mô.
Nói xong nàng cắm cúi bước đi, qua lại mấy khúc quẹo đã khuất hẳn trong những bụi sơn trà. A Bích mỉm cười, quay sang nói với Đoàn Dự:
- Đoàn công tử, vị cô nương đây khó tính lắm, thôi mình mau mau đi ra.
A Châu cũng cười nói với Đoàn Dự:
- Cũng may có Đoàn công tử đến giải vây, chứ không Vương cô nương thể nào cũng bắt chúng tôi đưa tin, hai cái mạng nhỏ của chị em chúng tôi e rằng nguy mất.
Đoàn Dự hấp tấp xông ra bị cô gái kia nói lẫy mấy câu, trong bụng cũng hơi bẽ bàng, đang lo A Châu, A Bích hai nàng đổ tội lên đầu mình, ngờ đâu nhị nữ lại mừng rỡ cảm ơn, thật là ngoài dự tính, nhìn người con gái tuy đã đi xa nhưng hình bóng vẫn còn vấn vương trước mắt, cảm thấy bâng khuâng đứng ngẩn ngơ nhìn theo bóng nàng lẫn sau những tùm hoa.
A Bích giựt nhẹ tay áo chàng, Đoàn Dự cũng không hay biết. A Châu cười nói:
- Đoàn công tử, thôi mình đi.
Đoàn Dự chân như đóng đinh xuống đất, phải mất một chốc mới như choàng tỉnh hỏi lại:
- Ừ hử ! Chúng mình phải đi ngay hay sao?
Chàng thấy A Châu, A Bích đã cất bước đi trước nên đành lẽo đẽo theo sau, đi một bước lại ngoái đầu, quyến luyến mãi không thôi. Ba người về đến chiếc thuyền, A Châu và A Bích liền cầm mái giầm chèo ngay. Đoàn Dự vẫn ngẩn ngơ nhìn những đóa hoa trà trên bờ, nghĩ bụng:
- Đoàn Dự ta quả là vô phúc, sao lại nghe được cô nương đó thở dài mấy tiếng, thỏ thẻ mấy câu? Rồi lại được thấy thể thái như thần tiên kia làm gì? Nếu như có phúc, sao đến mặt nàng cũng chưa được ngó qua?
Chàng thấy những bụi hoa trà xa dần, trong lòng dâng lên một nỗi u hoài man mác. Bỗng ngay lúc đó, A Châu kêu lên một tiếng kinh hoàng, lắp bắp:
- Thái thái ... thái thái về kìa.
Đoàn Dự quay đầu nhìn thấy trên mặt hồ một chiếc thuyền đang lướt tới như bay, trong chớp mắt đã đến gần. Trên đầu thuyền vẽ đầy các loại hoa sắc sỡ, đến gần mới thấy toàn là hoa trà. A Châu, A Bích hai nàng vội đứng lên, cúi gầm mặt xuống, thần thái cực kỳ cung kính. A Bích luôn tay ra hiệu cho Đoàn Dự, bảo chàng cũng đứng lên. Đoàn Dự mỉm cười lắc đầu nói:
- Đợi khi nào chủ nhân ra khỏi khoang thuyền nói chuyện, lúc đó ta hãy đứng lên. Nam tử hán đại trượng phu không nên quá hạ mình như thế được.
Bỗng từ trong khoái thuyền có tiếng đàn bà quát lên:
- Sao có người đàn ông nào dám to gan héo lánh đến Mạn Đà Sơn Trang đó? Có biết là nam tử không mời mà đến sẽ bị ta chặt hai chân hay không?
Giọng nói cực kỳ oai nghiêm, nhưng rất trong trẻo dễ nghe. Đoàn Dự cao giọng đáp:
- Tại hạ Đoàn Dự trên đường đi lánh nạn ngang qua quí trang chứ không cố ý mạo phạm, nay gặp đây xin tạ tội.
Người đàn bà kia nói:
- Ngươi họ Đoàn ư?
Trong âm thanh có chiều ngạc nhiên, Đoàn Dự đáp:
- Chính thị.
Người kia lại nói tiếp:
- Hừ, A Châu, A Bích có phải hai đứa bay đi quàng đi xiên hay chăng? Tên tiểu tử Mộ Dung Phục điều hay không học, chỉ lấp la lấp ló học chuyện tầm phào.
A Châu đáp:
- Bẩm thái thái, tiểu tì bị địch nhân đuổi gắt quá nên phải chạy tới Mạn Đà Sơn Trang. Công tử chúng tôi đã đi khỏi rồi, chuyện ni không có liên quan chi đến công tử hết.
Người đàn bà trên thuyền cười khẩy:
- Hứ, các ngươi chỉ được cái giả lả là hay. Không có đi đâu hết, mau theo ta.
A Châu, A Bích cùng đáp:
- Dạ.
Hai nàng liền chèo chiếc thuyền con đi theo đằng sau, lúc này cách Mạn Đà Sơn Trang chưa xa mấy nên chỉ chốc lát đã nhìn thấy bờ. Chỉ nghe tiếng vòng chạm nhau leng keng, từ trong khoang thuyền đi ra vô số con gái mặc áo xanh ăn mặc theo lối tì nữ, tay đều cầm trường kiếm nên chỉ giây lát đã thấp thoáng lưỡi kiếm trắng xóa, tổng cộng chín đôi. Mười tám người xếp thành hai hàng, kiếm giữ ngang hông, lưỡi hếch lên trời. Sau khi họ đã an vị, từ trong khoang một người đàn bà bước ra.
Đoàn Dự vừa thấy mặt người đàn bà đó, nhịn không nổi kêu lên một tiếng thất thanh, mồm há hốc tưởng như đang nằm mộng. Thì ra người đàn bà đó mặc áo dài màu vàng nhạt, y phục trang sức giống hệt như pho tượng ngọc trong động nước Đại Lý. Có điều đây là một giai nhân tuổi đã trung niên, khoảng chừng gần bốn mươi còn pho tượng ngọc trong hang thì là một thiếu nữ chừng mười tám mười chín tuổi.
Đoàn Dự sau cơn kinh hoàng nhìn kỹ lại tướng mạo người đàn bà kia mới nhận ra là so với pho tượng ngọc thì mắt mũi mồm cũng không bằng mà tuổi cũng có khác, trên khuôn mặt nhuốm vẻ dày dạn phong sương nhưng cũng còn giống đến năm sáu phần mười.
A Châu, A Bích thấy chàng trố mắt đứng đờ ra nhìn Vương phu nhân, thực là vô lễ, trong bụng kêu khổ liên hồi, vội vàng ra hiệu bảo chàng quay đi nơi khác nhưng đôi mắt Đoàn Dự vẫn dán chặt vào mặt bà ta.
Người đàn bà liếc mắt nhìn Đoàn Dự nói:
- Gã ni thật là vô lễ, đã vậy chặt hai chân y trước, sau đó móc hai con mắt, cắt lưỡi coi ra thế nào.
Một con tì nữ khom lưng đáp lời:
- Dạ!
Đoàn Dự thót cả ruột, nghĩ thầm: “Giá như họ giết mình đi thì đã đành. Đằng này họ lại chặt chân, khoét mắt, cắt lưỡi khiến mình sống dở chết dở, tội gì đâu mà to thế?”. Đến lúc này, chàng mới thấy thực là sợ hãi, quay sang nhìn A Châu, A Bích thấy hai người mặt tái xanh, đứng chết sững.
Vương phu nhân lên bờ rồi, trên thuyền lại đi ra thêm hai thanh y tì nữ khác, kéo theo sau hai người đàn ông mặt mày ủ rũ tay bị xích sắt khóa chặt. Một người mặt mày thanh tú, trông ra dáng con nhà giàu có, còn một người Đoàn Dự nhận ra được là một đệ tử phái Vô Lượng tên là Đường Quang Hùng. Đoàn Dự lạ quá: “Người này ở tận Đại Lý sao lại bị Vương phu nhân bắt đem tới Giang Nam là sao?”.
Chỉ thấy Vương phu nhân nói với Đường Quang Hùng:
- Rõ ràng mi là người Đại Lý, sao lại còn chối là sao?
Đường Quang Hùng đáp:
- Tại hạ người đất Vân Nam, quê thuộc về Đại Tống, không thuộc về Đại Lý.
Vương phu nhân hỏi thêm:
- Thế quê mi cách Đại Lý bao xa?
Đường Quang Hùng đáp:
- Bốn trăm dặm.
Vương phu nhân nói:
- Chưa tới năm trăm dặm thì cũng coi như người Đại Lý rồi. Đem nó ra chôn sống dưới gốc hoa Mạn Đà làm phân bón.
Đường Quang Hùng hoảng hốt kêu lên:
- Thế tôi có tội tình gì, nói cho tôi nghe kẻo tôi có chết cũng không nhắm mắt.
Vương phu nhân cười khẩy:
- Chỉ cần là người Đại Lý hoặc người họ Đoàn vào tay ta là bị chôn sống. Mi đến Tô Châu làm chi rứa? Đã dám đến Tô Châu lại dám mở mồm nói giọng Đại Lý, nơi quán rượu ba la bô lô là sao? Mi không phải người Đại Lý nhưng ở gần Đại Lý thì cũng không khác gì.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ối trời, phải chăng mụ ta tính nói xỏ mình? Ta chẳng cần mụ phải hỏi, cứ thẳng thắn nhận đi cho xong”. Chàng bèn lớn tiếng nói:
- Ta là người nước Đại Lý, lại họ Đoàn đây, bà muốn chôn sống thì mau ra tay.
Vương phu nhân lạnh lùng đáp:
- Mi đã sớm báo danh rồi, tự xưng là tên Đoàn Dự. Hừ, người họ Đoàn nước Đại Lý thì đâu có chết dễ dàng như thế được.
Bà ta vẫy tay một cái, một đứa nữ tì liền lôi ngay Đường Quang Hùng đi. Đường Quang Hùng không biết đã bị điểm huyệt, hay đã bị trọng thương nên không thấy kháng cự chút nào, chỉ kêu ầm lên:
- Trên đời này làm gì có cái qui củ gì như thế, nước Đại Lý hàng trăm vạn người, mụ có giết hết được chăng?
Thế như y bị kéo vào trong rừng hoa mỗi lúc một xa, tiếng kêu càng lúc càng nhỏ dần. Vương phu nhân quay sang người đàn ông mặt mũi thanh tú kia hỏi:
- Còn mi thì sao?
Người đàn ông đột nhiên chân nhũn ra, quì phục xuống van lơn:
- Gia phụ làm quan tại kinh đô, cả nhà chỉ có một đứa con trai, cầu xin phu nhân tha mạng. Phu nhân sai bảo gì, gia phụ nhất định sẽ bằng lòng.
Vương phu nhân thản nhiên nói:
- Cha mi làm quan lớn trong triều, tưởng ta không biết hay sao? Tha mạng cho mi cũng chẳng khó gì, nội ngày hôm nay mi về nhà giết ngay con vợ se tơ kết tóc của mi đi, ngày mai lấy ngay cô gái họ Miêu mi đang giăng dện, cheo cưới cho đủ, có thế là xong. Vậy được không?
Gã công tử ấp úng:
- Cái việc ... cái việc giết vợ tôi, thực không đành lòng. Còn như minh môi chính thú Miêu cô nương thì cha mẹ tôi chắc không chấp nhận. Chẳng phải là tôi ...
Vương phu nhân nói:
- Đem y đi chôn sống!
Người tì nữ đang dắt y liền đáp:
- Dạ!
Rồi lôi y đi. Gã công tử sợ mất cả hồn vía, người run lẩy bẩy vội nói:
- Tôi ... tôi bằng lòng!
Vương phu nhân nói:
- Tiểu Thúy, mi áp tống y trở lại thành Tô Châu, chính mắt thấy y giết vợ, bái đường thành thân với Miêu cô nương, sau đó hãy trở lại.
Tiểu Thúy đáp lời:
- Dạ!
Nàng ta lôi gã công tử kia lên bờ đi về phía bến đò xuống một con thuyền nhỏ. Gã kia vẫn còn rên rỉ:
- Xin phu nhân mở lòng, chuyết kinh với tôi không thù không oán, bà cũng không biết Miêu cô nương là ai, sao lại bênh cô ấy, ép tôi giết vợ lấy người khác làm chi? Tôi ... tôi xưa nay cũng chẳng biết bà, từ rày ... từ rày cũng không dám đắc tội nữa.
Vương phu nhân nói:
- Ngươi đã có vợ rồi, sao lại còn lân la ngon ngọt tán tỉnh con gái nhà người ta. Đã chim chuột thì không thể không lấy, tuy ta không nghe không thấy nhưng chỉ cần ta biết được là ta bắt ngươi phải làm. Việc này cũng có phải lần đầu đâu, còn oán trách nỗi gì? Tiểu Thúy, y trăng hoa bao nhiêu vụ rồi?
Tiểu Thúy đáp:
- Tì tử ở Thường Thục, Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng các nơi, nghe cả thảy là bảy vụ, còn Tiểu Lan, Tiểu Thi hai đứa kia thì không biết thêm bao nhiêu.
Gã công tử kia nghe cô ta liệt kê ra như thế, chỉ biết kêu khổ thầm trong bụng. Tiểu Thúy quạt chiếc giầm, chèo chiếc thuyền đi.
Đoàn Dự thấy Vương phu nhân hành sự chẳng kể tình lý, ngang ngược quá đỗi không khỏi há hốc mồm, đứng chết trân, trong bụng chỉ nghĩ được bốn chữ: “Lẽ nào lại thế?”, vô hình chung buột miệng:
- Lẽ nào lại thế? Lẽ nào lại thế?
Vương phu nhân hừ một tiếng nói:
- Trên đời ni có việc chi mà phải ra lẽ mới làm.
Đoàn Dự vừa thấy thất vọng, vừa khó xử, hôm trước trong thạch động núi Vô Lượng được thấy pho tượng thần tiên tỉ tỉ trong lòng bao nhiêu kính ngưỡng, con người trước mắt tuy hình dáng tương tự nhưng lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành vi lại chẳng khác gì yêu ma quỉ quái.
Chàng cúi đầu ngơ ngẩn, thấy bốn đứa nữ tì quay vào khoang thuyền bưng ra bốn chậu hoa. Đoàn Dự vừa nhìn thấy liền cảm thấy cao hứng ngay. Bốn chậu hoa đó đều là sơn trà, cũng là những danh chủng khó kiếm. Trong thiên hạ nói về sơn trà thì Đại Lý đứng đầu, mà trong phủ Trấn Nam Vương thì phải nói là số một trong cả nước. Đoàn Dự từ bé nhìn đã quen, mỗi khi nhàn rỗi vẫn thường ngồi cùng bọn trồng hoa bàn bạc phê bình, nên dở hay xấu tốt chàng thuộc nằm lòng, chẳng cần học cũng biết, khác gì con nhà nông biết về gạo tẻ, gạo nếp, con nhà thuyền chài biết về con cá, con tôm.
Chàng đi lang thang trong Mạn Đà Sơn Trang, chưa thấy gốc hoa nào được gọi là giai phẩm, không khỏi thấy bốn chữ Mạn Đà Sơn Trang danh quá kỳ thực, bây giờ nhìn thấy bốn chậu hoa này, ngầm tấm tắc: “Quả nhiên cũng có được ít nhiều”.
Lại nghe Vương phu nhân nói:
- Tiểu Trà, bốn chậu sơn trà Mãn Nguyệt này kiếm được không phải dễ, mi phải chăm chút cho kỹ nghe chưa?
Đứa tớ gái tên Tiểu Trà kia liền đáp lời:
- Dạ!
Đoàn Dự nghe bà ta nói trật lất liền bật ra một tiếng cười khẩy. Vương phu nhân lại tiếp:
- Trên hồ gió to, bốn chậu hoa ni để luôn trong khoang mấy ngày, thiếu nắng, mi mau đem ra phơi, bón thêm phân cho nó.
Tiểu Trà lại đáp lời:
- Dạ!
Đoàn Dự không còn nhịn thêm được nữa, bật cười ha hả. Vương phu nhân nghe chàng cười có điều khác lạ, bèn hỏi:
- Nhà ngươi cười chi?
Đoàn Dự đáp:
- Ta cười bà không biết gì về sơn trà, vậy mà học đòi trồng hoa. Những loại giai phẩm như thế này vào tay bà thật có khác gì hồng ngâm cho chuột vọc, ngọc cho ngâu vầy, đem đàn chụm lửa, bắt hạc nấu canh, thật là uổng phí. Tiếc thay, tiếc thay! Thật là đau lòng.
Vương phu nhân giận dữ nói:
- Ta không biết sơn trà, dễ thường mi biết chắc?
Đột nhiên bà ta chợt nghĩ: “Xem nào, y là người họ Đoàn nước Đại Lý, không chừng biết về sơn trà thật”. Tuy nghĩ thế nhưng miệng vẫn khinh khỉnh nói:
- Bản trang đặt tên là Mạn Đà Sơn Trang, trong nhà ngoài ngõ chỗ nào cũng toàn là hoa Mạn Đà La, cây nào cây nấy xanh um, sao lại bảo là ta không biết trồng sơn trà?
Đoàn Dự mỉm cười:
- Gái nhà quê chỉ ăn khoai cũng béo tốt. Cái thứ hoa hạng bét kia vứt đâu mà chẳng mọc. Còn bốn bồn bạch trà này là bậc quốc sắc thiên hương, kẻ không sành mà trồng được thì mỗ đây không phải là họ Đoàn.
Vương phu nhân rất thích hoa trà, tốn không biết bao nhiêu tiền của đi các nơi lùng tìm giai phẩm, thế nhưng giống lạ đem về Mạn Đà Sơn Trang thì không loại sơn trà danh quí nào tốt tươi, chỉ được sáu tháng một năm là khô héo, chẳng đụng chạm gì cũng chết. Bà ta cũng vì thế mà buồn phiền, nghe Đoàn Dự nói thế không giận mà lại vui, tiến tới hai bước hỏi thêm:
- Bốn chậu hoa trắng của ta có gì khác thường? Phải trồng thế nào mới đúng cách?
Đoàn Dự nói:
- Nếu như bà muốn học hỏi với tôi, thì phải có cái lễ phép của người muốn học. Còn như bức bách tra hỏi thì cứ việc chặt hai chân tôi trước rồi hỏi sau cũng không muộn.
Vương phu nhân giận dữ nói:
- Chặt hai chân ngươi thì có chi là khó? Tiểu Thi, chặt chân trái y trước cho ta.
Đứa tì nữ tên Tiểu Thi liền đáp ứng, xách kiếm tiến lên. A Bích vội nói:
- Bẩm thái thái, xin hãy thư thả, gã ni gan liền tướng quân, nếu như thương tổn đến y, y có chết cũng không nói đâu.
Vương phu nhân vốn cũng chỉ muốn dọa Đoàn Dự nên giơ tay lên, Tiểu Thi lập tức đứng lại. Đoàn Dự cười nói:
- Ngươi cứ chặt hai chân ta đem chôn dưới gốc mấy cây bạch trà này làm phân tốt lắm, hoa sẽ nở thật to, có khi to bằng cái tô không chừng, ha ha, đẹp lắm! Hay thật! Hay thật!
Vương phu nhân cũng vốn có ý đó, nay nghe chàng nói có vẻ như mỉa mai, không biết nói sao, bần thần một hồi mới nói:
- Ngươi nói lăng nhăng cái gì? Bốn bồn hoa trắng của ta có cái gì đặc biệt danh quí, nói ta nghe thử. Nếu như ngươi nói nghe được, ta lúc ấy dùng lễ đãi ngươi cũng chưa muộn mà.
Đoàn Dự đáp:
- Vương phu nhân, bà bảo bốn chậu hoa trà này tên là Mãn Nguyệt, ngay cái đó đã sai rồi. Đến như tên hoa bà còn chưa rành, làm sao dám gọi là kẻ biết chơi hoa? Trong số này một chậu tên là Hồng Trang Tố Lý, một chậu tên là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm.
Vương phu nhân lạ lùng:
- Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm? Sao cái tên lại quái đản đến thế? Đó là cây nào?
Đoàn Dự nói:
- Bà muốn thỉnh giáo tại hạ thì phải nói cho lễ phép.
Vương phu nhân bị chàng ép cho không biết phải làm sao nhưng nghe nói bốn chậu trà này mỗi cây có một cái tên đặc biệt nên rất sung sướng, mỉm cười:
- Được rồi! Tiểu Thi, mi mau bảo nhà bếp thiết yến nơi Vân Cẩm Lâu để ta thết đãi Đoàn công tử.
Tiểu Thi lập tức đáp lời ra đi. A Bích và A Châu người nọ nhìn người kia, thấy Đoàn Dự không những chết đi sống lại, Vương phu nhân lại còn tiếp đãi như hàng thượng khách, thật hoan hỉ không đâu cho hết. Đứa tì nữ áp giải Đường Quang Hùng bây giờ đã quay lại bẩm báo:
- Gã họ Đường người Đại Lý kia đã đem chôn nơi gốc hoa màu đỏ nơi Hồng Hà Lâu rồi.
Đoàn Dự trong bụng xót xa, thấy Vương phu nhân dường như không coi vào đâu, chỉ gật gù nói:
- Xin mời Đoàn công tử.
Đoàn Dự đáp:
- Mạo muội đến đây làm phiền, mong hiền chủ nhân thứ lỗi cho đừng trách.
Vương phu nhân đáp:
- Có bậc đại hiền giáng lâm, Mạn Đà Sơn Trang đến cỏ cây cũng thêm phần rạng rỡ.
Hai người vừa khách sáo nói mấy câu vừa đi tới, có ai ngờ đâu chỉ giây phút trước tính mạng Đoàn Dự như chỉ mành treo chuông. Vương phu nhân đưa Đoàn Dự đi qua rừng hoa, qua một chiếc cầu đá, đi theo một con đường mòn đến trước một tòa tiểu lâu. Đoàn Dự nhìn thấy dưới mái hiên có một tấm biển viết ba chữ Vân Cẩm Lâu theo lối chữ triện màu xanh, dưới lầu trước sau trái phải chỗ nào cũng toàn hoa trà cả. Có điều những giống này ở Đại Lý chỉ vào hạng ba hạng tư, nếu so với tòa tiểu lâu tinh mỹ này có phần không xứng.
Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.
Đoàn Dự gật đầu:
- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.
Vương phu nhân cười khanh khách:
- Thật ư?
Đoàn Dự nói:
- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.
Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa .... khinh người quá lắm.
Đoàn Dự nói:
- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.
Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.
Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.
Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:
- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?
Vương phu nhân hậm hực đáp:
- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài.
Vương phu nhân hừ một tiếng:
- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?
- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.
Vương phu nhân nói:
- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến mười lăm, mười sáu màu khác nhau.
Đoàn Dự nói:
- Cả thảy đúng ra là mười bảy màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ mười tám đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả mười tám đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?
Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.
Đoàn Dự nói:
- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là mười ba đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là tám đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Nữ là bảy đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.
Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?
Đoàn Dự nói tiếp:
- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.
Vương phu nhân nói:
- Nguyên lai như thế.
Đoàn Dự lại tiếp:
- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.
Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:
- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm !
Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong, có khác gì rượu xoàng uống chua như giấm. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.
Vương phu nhân không nhịn được bật cười nói:
- Cái tên ấy sao vừa chanh chua, vừa khắc bạc, hẳn là do đám nho sinh đặt ra.
Đến lúc này, Vương phu nhân đã mười phần tin tưởng vào sự thành thục về các loại trà hoa của Đoàn Dự bèn dẫn chàng lên trên Vân Cẩm Lâu. Đoàn Dự thấy trên lầu trần thiết sang trọng đẹp đẽ, giữa là một bức trung đường vẽ cảnh khổng tước khai bình, hai bên là hai câu đối trên viết:
Lá rậm xem chừng mây khó kịp
Hoa tươi quả thực tuyết ghen thầm
Tất diệp vân sai mật
Trà hoa tuyết đố nghiên
Chẳng bao lâu tiệc rượu bắt đầu, Vương phu nhân mời Đoàn Dự ngồi bên trên, còn mình ngồi bên dưới để bồi tiếp. Những món ăn trong tiệc hôm nay thật khác xa bữa tiệc A Châu, A Bích khoản đãi. Những món ăn hai cô a hoàn thanh nhã làm chính trong những món thật tầm thường có ẩn những nét tinh xảo công phu. Bữa tiệc ở Vân Cẩm Lâu hôm nay thì lại chủ về hào hoa trân quí, nào là bàn tay gấu, vây cá đều toàn những món cực kỳ sang trọng. Thế nhưng Đoàn Dự sinh trưởng nơi chốn đế vương, những món quí báu đến mấy cũng đã nếm qua nên lại thấy bữa tiệc ở Mạn Đà Sơn Trang so ra kém xa ở nơi Cầm Vận Tiểu Trúc.
Rượu được ba tuần, Vương phu nhân hỏi:
- Họ Đoàn Đại Lý là thế gia trong võ lâm, cớ sao công tử không tập võ?
Đoàn Dự đáp:
- Người họ Đoàn ở Đại Lý đông lắm, con cháu hoàng tộc tông thất thì đều có tập, còn như vãn sinh là dân dã tầm thường thì làm gì biết võ công.
Chàng nghĩ mình sống chết ở trong tay người, bệ rạc như thế, thật chẳng nên thổ lộ chân tướng gia thế làm gì để khỏi làm giảm uy danh của bá phụ và gia gia. Vương phu nhân hỏi tiếp:
- Công tử con nhà bách tính tầm thường hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Vâng!
Vương phu nhân hỏi tiếp:
- Thế công tử có biết được người nào họ Đoàn trong hoàng thất hay không?
Đoàn Dự một mực chối phăng:
- Tuyệt nhiên không biết.
Vương phu nhân đờ đẫn hồi lâu rồi xoay qua đề tài khác, nói:
- Mới đây được công tử đàm luận về các phẩm chủng hoa trà, khiến cho ta như được vén đám mây mù, nhìn thấy trời cao. Bốn chậu bạch trà lần này kiếm được, kẻ trồng hoa trong thành Tô Châu bảo là Mãn Nguyệt, công tử lại bảo một chậu là Hồng Trang Tố Lý, còn một chậu là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, làm thế nào phân biệt, xin nói cho rõ, được chăng?
Đoàn Dự đáp:
- Cây hoa trắng lớn nhưng lấm tấm có chấm đen kia thì gọi là Mãn Nguyệt. Những vệt đen đó là cành quế nơi cung trăng. Cây hoa cánh trắng có hai đốm hình quả trám màu đen kia tên gọi là Nhãn Nhi Mị.
Vương phu nhân mừng quá nói:
- Cái tên đó nghe thật hay.
Đoàn Dự nói tiếp:
- Cánh hoa trắng nhưng có lẩn sắc đỏ tên gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng nhưng có quầng mầu xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Thế nhưng nếu những vạch đỏ đó có nhiều thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều. Phu nhân thử nghĩ xem, đã là mỹ nhân thì phải ôn tĩnh nhàn nhã, trên mặt thỉnh thoảng bị sước một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình cào phải mặt, hoặc giả không phải do mình thì cũng chỉ chơi đùa với con anh vũ, bị chim quẹt trúng âu cũng là chuyện thường. Thành thử vết chàm trên cánh hoa kia không thể không có, đó là lông chim vương phải. Còn như nếu đầy mặt chỗ nào cũng tươm máu thì nàng con gái đẹp kia hẳn đã đánh nhau với ai, như thế còn gọi là đẹp nỗi gì?
Vương phu nhân từ trước đến sau nghe chàng nói luôn luôn gật đầu, thật là vui sướng, đột nhiên mặt sầm xuống, quát lên:
- Lớn mật nhỉ, ngươi định nhạo báng ta đấy chăng?
Đoàn Dự hết sức kinh hãi, vội nói:
- Không dám! Không biết chỗ nào tiểu sinh đã mạo phạm đến phu nhân?
Vương phu nhân hầm hầm nói:
- Ngươi nghe đứa nào xúi bẩy mà đến gặp ta ăn nói những lời nhăng cuội như thế? Ai bảo đàn bà con gái học võ công thì không còn đẹp nữa? Nhàn nhã ôn tĩnh thì có gì là hay?
Đoàn Dự chưng hửng vội nói:
- Lời của vãn sinh chỉ là suy đoán cái lý thông thường, trong những người đàn bà học võ thiếu gì người vừa xinh đẹp lại vừa đoan trang?
Ngờ đâu câu đó nói ra Vương phu nhân lại tưởng Đoàn Dự muốn nói kháy mình, bà ta liền gằn giọng:
- Thế ngươi bảo ta không đoan trang hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Đoan trang hay không đoan trang, phu nhân tự biết rồi, vãn sinh nào có dám vọng ngôn. Có điều ép người ta giết vợ cả, lấy vợ lẽ, thái độ như thế thì không phải là người ngay chính.
Chàng nói những câu đó, trong bụng đã bực lắm rồi nên không còn nể nang gì nữa. Vương phu nhân giơ tay vẫy một cái, bốn con tì nữ hầu hạ bên cạnh lập tức tiến lên khom lưng nói:
- Dạ!
Vương phu nhân nói:
- Giải tên ni xuống, bắt y đi tưới hoa.
Bốn đứa tớ gái cùng đáp ứng:
- Dạ!
Vương phu nhân nói:
- Đoàn Dự, ngươi là người Đại Lý, lại họ Đoàn đáng chết lắm rồi. Bây giờ cái tội chết ta tạm để đó, cho ngươi săn sóc cho hoa trà trong trang, nhất là bốn chậu bạch trà ta mới có hôm nay càng phải chăm chút cho kỹ. Ta bảo cho ngươi hay, bốn chậu đó chết một cây ta chặt một cánh tay, chết hai cây, ta chặt hai cánh tay, chết cả bốn cây thì tay chân ngươi cụt hết.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Thế cả bốn cây đều sống thì sao?
Vương phu nhân đáp:
- Bốn cây đó sống thì ta đưa ngươi đi chăm sóc các loại danh chủng khác. Những loại như Thập Bát Học Sĩ, Thập Tam Thái Bảo, Bát Tiên Quá Hải, Thất Tiên Nữ, Phong Trần Tam Hiệp, Nhị Kiều mỗi loại trồng cho ta vài cây. Làm không xong thì ta móc mắt ngươi ra.
Đoàn Dự lớn tiếng cãi:
- Những danh chủng đó, ngay ở Đại Lý đã khó kiếm rồi, ở Giang Nam dễ gì có được? Nếu mỗi loại trồng vài ba cây thì còn gì là danh quí? Thôi bà giết tôi trước còn hơn. Nay chặt chân, mai khoét mắt, tôi làm sao chịu nổi.
Vương phu nhân nạt liền:
- Bộ ngươi không muốn sống nữa hay sao? Trước mặt ta ai cho ngươi muốn nói gì thì nói? Đem nó xuống.
Bốn con tì nữ liền xông tới, hai đứa nắm hai tay, một đứa kéo đằng trước, một đứa đẩy đằng sau, năm người giằng co xuống lầu. Bốn đứa tớ gái đó đều biết võ công, Đoàn Dự bị chúng hiếp chế không thể nào kháng cự được, trong bụng chỉ biết kêu thầm: “Ngược ngạo thật! Ngược ngạo thật!”
Bốn đứa tì nữ vừa kéo vừa đẩy đưa chàng đến một vườn hoa, một đứa cầm một chiếc xẻng dúi vào tay Đoàn Dự, một đứa đưa cho một chiếc thùng tưới nói:
- Ngươi hãy nghe lời phu nhân sai bảo, ngoan ngoãn chăm lo trồng hoa thì mới toàn mạng. Bằng như ngang bướng cãi lại lệnh phu nhân, bọn ta lập tức đem đi chôn sống, xem ngươi làm được trò gì?
Lại một đứa tì nữ nói:
- Ngoài việc trồng hoa tưới hoa ra, không được đi lung tung trong trang viện, nếu ngươi vào chỗ cấm địa thì là tự mình tìm cái chết đó, chẳng ai cứu được đâu.
Bốn đứa tớ gái dặn dò kỹ lưỡng một hồi rồi mới đi. Đoàn Dự đứng bần thần, thật là giở khóc giở cười. Ở Đại Lý, thân phận chàng chỉ đứng sau bá phụ Bảo Định Đế và phụ thân Trấn Nam Vương, trong tương lai cha lên ngôi báu, chàng sẽ thành tự quân hoàng thái tử, ai ngờ bị người ta bắt đến Giang Nam, muốn đốt muốn giết, muốn chặt chân chặt tay, khoét mắt gì cũng được, bây giờ lại bị ép làm một gã làm vườn trồng hoa. Tuy nhiên tính tình chàng vốn hiền hòa, ở Đại Lý nơi hoàng cung, vương phủ vẫn thường hay ra xem các phu trồng hoa cắt lá tỉa cành, cuốc đất bón phân, truyện trò với họ mặc dầu trong bụng một kẻ con vua cháu chúa, vẫn chỉ coi họ như kẻ ăn người ở, vị trí thấp kém.
Cũng may trời sinh chàng sảng khoái vui vẻ, gặp phải nghịch cảnh trớ trêu, cũng chỉ buồn bã một chốc, chẳng bao lâu lại cao hứng như thường, trong bụng nhủ thầm: “Ta nơi ngọc động núi Vô Lượng đã từng bái thần tiên tỉ tỉ làm thầy. Vị Vương phu nhân này với thần tiên tỉ tỉ tướng mạo y hệt nhau, chỉ lớn tuổi hơn thôi, ta coi bà ấy cũng như sư bá thì có gì mà không được? Sư trưởng ra lệnh, đệ tử tuân hành ra sức mà làm thì cũng hợp đạo lý. Huống chi chăm bón hoa cỏ vốn là cái thú của kẻ văn nhân, so với bọn học võ múa đao động kiếm cao nhã hơn nhiều. Còn như so sánh với việc bị Cưu Ma Trí đem đến trước mồ Mộ Dung tiên sinh thiêu sống thì thế này sướng gấp nghìn gấp vạn. Đáng tiếc là những cây hoa trà này phẩm chủng quá xoàng, để cho vương tử nước Đại Lý tự tay săn sóc không khỏi đại tài tiểu dụng, giết gà dùng dao mổ trâu. Ha ha! Ngươi là dao mổ trâu ư? Ngươi có đại tài trồng hoa ư?”.
Chàng nghĩ tiếp: “Mình ở lại Mạn Đà Sơn Trang thêm một thời gian, biết đâu chẳng có cơ duyên gặp lại thiếu nữ mặc áo màu cánh sen kia một lần, cái đó gọi là:
Vương tử trồng hoa ai bảo họa,
Biết đâu có phúc gặp giai nhân”.
Nghĩ đến họa phúc, chàng bèn nhổ một nắm cỏ trong bụng khấn thầm: “Để xem ta chừng nào mới gặp được vị cô nương kia”. Chàng cầm nắm cỏ tay phải trao qua tay trái, tay trái trao qua tay phải để bói, được quẻ Cấn thượng Cấn hạ tức là quẻ thuần Cấn nghĩ thầm: “Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân, vô cữu”. Quẻ này thật linh quá, tuy không thấy đó nhưng cũng không có tội lỗi gì”.
Chàng lại bói thêm một quẻ nữa, được quẻ Đoài trên Khảm dưới, tức là quẻ Khốn, trong bụng kêu thầm: “Khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất địch”. Ba năm mà không gặp được ai thì đúng là khốn nạn rồi.” Chàng chợt nghĩ lại: “Ba năm không gặp thì năm thứ tư ắt sẽ gặp. Ngày rộng tháng dài thì có gì gọi là khốn đâu?”.
Chàng xủ quẻ thấy không hay nên không dám bói thêm quẻ khác, miệng ư ử hát, vác xẻng lên đi lang thang nghĩ thầm: “Vương phu nhân bảo ta trồng sao cho sống được bốn chậu hoa trắng. Bốn chậu này quả là danh chủng, phải tìm cho ra chỗ nào cực kỳ u nhã mà trồng, nếu không thì hỏng bét”. Chàng vừa đi vừa nhìn quanh quất chung quanh để tìm nơi thích hợp, đột nhiên bật lên cười sằng sặc, nghĩ thầm: “Vương phu nhân chẳng biết gì về hoa trà, vậy mà trồng khắp nơi, lại dám đặt tên trang viện này là Mạn Đà Sơn Trang. Có biết đâu hoa trà thích bóng râm mà kỵ ánh nắng, trồng nơi dương quang nếu không chết thì cũng đâu có ra hoa, lại thêm bón phân rõ nhiều, thành ra bao nhiêu danh chủng đều chết sạch, tiếc quá, tiếc quá! Nực cười thay, nực cười thay!”.
Chàng tránh nơi có ánh mặt trời, đi sâu vào trong những nơi bóng cây, vòng qua một ngọn núi nhỏ, nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, bên trái là một hàng trúc xanh rì, bốn bề thật là u tĩnh. Nơi đây là bóng núi, ánh mặt trời không rọi đến, Vương phu nhân cho rằng không nên trồng hoa thành thử không thấy một bụi hoa trà nào. Đoàn Dự mừng lắm nói:
- Chỗ này thật không còn gì hơn.
Chàng quay lại chỗ cũ, khuân bốn chậu hoa trà đến nơi hàng trúc, đập vỡ bồn, để cả đất đem trồng xuống đất. Tuy chàng chưa từng làm vườn bao giờ nhưng xem đã nhiều, thành thử cứ người ta làm sao mình làm vậy.
Chưa tới nửa giờ, chàng đã trồng xong bốn cây bạch trà cạnh nơi bụi trúc, bên trái là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, bên phải là Hồng Trang Tố Lý và Mãn Nguyệt, còn Nhãn Nhi Mị chàng trồng sau một tảng đá bên cạnh giòng suối, tự nói một mình:
- Cái này quả là:
Gọi hoài mới thấy nàng ra,
Đàn che nửa mặt xót xa giọt sầu.
Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai,
Do bão tì bà bán già diện._
Phải chỗ lấp ló thế này thì mới đúng điệu.
Người Trung Hoa vẫn thường ví hoa với mỹ nhân, phép trồng hoa cũng chẳng khác gì săn sóc người đẹp. Đoàn Dự con cháu hoàng gia đọc thi thư từ nhỏ nên công phu của chàng hơn hẳn mọi người.
Chàng vọc tay xuống suối rửa sạch hai tay, gác chân ngồi trên tảng đá, ngắm nghía bụi hoa Nhãn Nhi Mị, nhìn thẳng, nhìn nghiêng trong bụng đắc ý thầm, bỗng nghe tiếng chân loạt soạt, có hai thiếu nữ đi tới. Một cô nói:
- Chỗ này thật vắng vẻ, không ai lui tới ...
Giọng nói đó vào tai, Đoàn Dự tim nhảy thót lên một cái, rõ ràng là giọng của cô gái mặc áo lụa màu cánh sen chàng gặp lúc ban ngày. Chàng vội nín thở không dám để phát ra chút âm thanh nào, nghĩ thầm: “Nàng ta bảo không muốn gặp những người đàn ông không liên can gì đến nàng, ta nào có liên hệ gì đâu, chỉ được nghe vài lời tiếng du dương như nhạc trên trời thì đã vô cùng phúc phận rồi, nhất quyết đừng để nàng hay biết”.
Đầu chàng vốn dĩ nghiêng nghiêng ngó ra, lúc này không dám quay lại, dường như sợ mình chuyển động thì cổ sẽ có thể phát xuất âm thanh kinh động đến mỹ nhân.
Lại nghe thiếu nữ nói tiếp:
- Tiểu Mính, ngươi nghe thấy chuyện gì ... chuyện gì liên quan đến chàng thế?
Đoàn Dự nghe vậy trong lòng chua xót, cô gái nói đến “chàng” nhất định không phải là nói về mình, mà là nói về Mộ Dung công tử. Nghe lời Vương phu nhân nói, gã Mộ Dung công tử kia có đơn danh là Phục. Giọng thiếu nữ vặn hỏi nghe thật quan tâm đầy vẻ tha thiết, Đoàn Dự không khỏi không cảm phục lại cũng đau lòng. Chỉ thấy Tiểu Mính ấp úng một hồi, xem chừng như không tiện nói ra.
Thiếu nữ tiếp:
- Ngươi cứ nói cho ta nghe! Ta không quên lòng tốt của ngươi đâu.
Tiểu Mính đáp:
- Tiểu tì sợ ... sợ phu nhân trách phạt.
Cô gái nói:
- Ngươi đúng là một con bé ngốc nghếch, ngươi nói với ta ta có nói lại với phu nhân đâu mà lo?
Tiểu Mính nói:
- Nếu như phu nhân hỏi tiểu thư thì sao?
Thiếu nữ đáp:
- Dĩ nhiên là ta sẽ không nói.
Tiểu Mính lại ngập ngừng một hồi mới nói:
- Biểu thiếu gia đi lên chùa Thiếu Lâm.
Cô gái ngạc nhiên:
- Lên chùa Thiếu Lâm ư? Thế sao A Châu, A Bích hai đứa kia lại bảo là chàng đi Lạc Dương để gặp bọn Cái Bang?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao lại biểu thiếu gia nhỉ? Ồ, thì ra Mộ Dung công tử là anh con cô cậu của nàng ta, hai người trong nhà thân thiết, có tình thanh mai trúc mã_, thành thử ... thành thử...”.
Tiểu Mính nói:
- Phu nhân kỳ này ra ngoài, trên đường gặp Công Dã nhị gia, hỏi ra mới biết các đầu não Cái Bang đều đến Hà Nam cả, định gặp biểu thiếu gia để đại hưng vấn cái gì chi sư đó. Công Dã nhị gia lại nói là nhận được thư của biểu thiếu gia, khi đến Lạc Dương kiếm không ra tên thủ lãnh ăn mày nào, nên đã lên Tung Sơn Thiếu Lâm Tự rồi.
Thiếu nữ nói:
- Chàng lên chùa Thiếu Lâm để làm chi?
Tiểu Mính đáp:
- Công Dã nhị gia nói là trong thư biểu thiếu gia có viết khi ở Lạc Dương nghe tin một lão hòa thượng chùa Thiếu Lâm chết ở Đại Lý, họ lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung giết. Biểu thiếu gia giận lắm, chùa Thiếu Lâm lại không xa Lạc Dương bao nhiêu nên tiện đường đi lên trình bày với các hòa thượng trong chùa cho tỏ tường mọi việc.
Cô gái lại nói:
- Nếu như nói không tỏ tường thì không lẽ động thủ hay sao? Phu nhân nghe được tin đó cớ sao lại quay về, không đi lên giúp biểu thiếu gia một tay?
Tiểu Mính nói:
- Cái đó ... cái đó tì tử không biết. Có lẽ là phu nhân không ưa biểu thiếu gia chăng?
Thiếu nữ hậm hực nói:
- Hừ, dẫu có không ưa nhưng cũng là người nhà. Cô Tô Mộ Dung ở bên ngoài bị người ta làm cho mất mặt, chẳng lẽ nhà họ Vương này lại vẻ vang lắm hay sao?
Tiểu Mính không dám tiếp lời. Thiếu nữ đi qua đi lại trước bụi trúc, bỗng thấy ba khóm bạch trà Đoàn Dự mới trồng, gần bên là những mảnh chậu vỡ, thất thanh kêu lên một tiếng hỏi:
- Ai tại nơi đây trồng hoa trà đó?


Thiên Long Bát Bộ (bản mới) Empty

Sponsored content



Level: Kinh nghiệm: %
Sinh mệnh: /100
Pháp lực: /100

Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

 

 

Thiên Long Bát Bộ (bản mới)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
-‘๑’- Chuyên Toán Bến Tre 09-12 -‘๑’- :: -‘๑’- Chuyên Mục Truyện -‘๑’- :: -‘๑’- Truyện chữ, tiểu thuyết -‘๑’--
Có Bài Mới Có bài mới đăngChưa Có Bài Mới Chưa có bài mới
Fixed and up by [A]dmin .
Copyright © 2007 - 2010, cHuYeNtOaN0912.fOrUm-vIeT.nEt .
Powered by phpBB2 - GNU General Public License. Host in France. Support by Forumotion.
Xem tốt nhất ở độ phần giải lớn hơn 1280x1024 và trình duyệt Firefox
Get Firefox Now Get Windows Media Player Now
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất